Lời dẫn cuốn sách “Những cây liễu rỉ máu”

Nhà sách Đại Mai, địa chỉ: số 226 Bạch Đằng, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Số phone: 04.6296.9581 hoặc 0915.688.397.
Nhà sách 30 Hàn Thuyên, địa chỉ: Phường Phạm Đình Hổ, Quận Hai
Bà Trưng, Hà Nội. Số phone:
04.38246272.
Nhà sách Văn Lang, địa chỉ: 40-42, Nguyễn
Thị Minh Khai, Phường Đa Kao, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh. Số phone: 08.38242157.
Nhà sách Thăng Long, địa chỉ: 2Bis, Nguyễn Thị
Minh Khai, Phường Đa Kao, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh. Số
phone: 08.39102062.
Bookstore Đại Mai, address: 226 Bạch Đằng, Hoàn Kiếm District, Hà Nội City. Phone number: 04.6296.9581 or 0915.688.397.
Bookstore 30 Hàn Thuyên, address: Phạm Đình Hổ Ward, Hai Bà Trưng District, Hà Nội City. Phone number: 04.38246272.
Bookstore Văn Lang, address: 40-42, Nguyễn
Thị Minh Khai, Đa Kao Ward, District 1, Hồ Chí Minh City. Phone number: 08.38242157.
Bookstore Thăng Long, address: 2 Bis, Nguyễn
Thị Minh Khai, Đa Kao Ward, District 1, Hồ Chí Minh City. Phone number: 08.39102062.
David Leitnick
Với một thực tế là có rất
nhiều sách về chiến tranh Việt Nam trên giá sách của các thư viện hay các hiệu
sách khắp nơi, độc giả sẽ không có mấy hứng thú với một cuốn sách khác. Tuy
nhiên cuốn sách này lại không phải về lịch sử của cuộc chiến tranh ấy, mà ở
đây, tác giả Gjekë Marinaj đã miêu tả một vấn đề, là cuộc xung đột này đã tác động
tới tính nhân văn của con người trong giai đoạn lịch sử đó như thế nào. Ông đặt
vấn đề dựa trên một tiền đề là văn học và thơ ca bắt nguồn trong giai đoạn khó
khăn đó thường được dùng như một công cụ để miêu tả những suy nghĩ, động lực
hay tình cảm của những người lính Việt Nam và Mỹ, những người mà thấy rằng bản
thân họ bị bế tắc trong cuộc chiến tranh - như tác giả nhận định - họ không muốn
phải cầm súng nhưng cũng không muốn là người thua cuộc. Mặc dù vậy, không ai có
thể viết về bất cứ khía cạnh nào của cuộc chiến này hay bất cứ cuộc xung đột
nào khác mà không bị cuốn vào các vấn đề lịch sử. Những chủ đề như “lịch sử”,
“văn học”, hay “triết học” cuối cùng vẫn là những cái tên được con người dùng để
đánh dấu những vấn đề nằm chồng chéo và đan xen lẫn nhau.
Marinaj mở đầu cuốn sách này với việc khám
phá những gì diễn ra trong đầu của một lính Mỹ tại thời điểm cuộc chiến bắt
đầu. Ông phân tích niềm tin của nước Mỹ rằng, bản thân đất nước này là một hình
mẫu tiêu biểu của nền tự do dân chủ và niềm tin này là một động lực để nước Mỹ
theo đổi kế hoạch hành động đó. Marinaj đưa ra một nhận xét quả quyết và có vẻ
không hợp lý rằng việc hiểu rõ vai trò của văn xuôi và thi ca trong xã hội Việt
Nam có thể đem lại một cái nhìn sâu sắc và giá trị về một dân tộc và nền văn
hoá có quá ít điểm chung với nước Mỹ. Tôi nói "có vẻ không hợp lý" là vì tác giả
đã bảo vệ lý lẽ của mình một cách
thuyết phục.
Thơ ca đã ăn vào đời sống
người Việt từ mọi ngóc ngách xuyên suốt qua các thể chế xã hội, từ khi sinh ra
tới khi chết đi. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nhận ra sức mạnh của thi ca và sử
dụng nó như một cách thức quản lý, tổ chức nhân dân Việt Nam trong suốt những
cuộc kháng chiến. Khi ông bị nhốt trong nhà lao của Trung Quốc năm 1942, ông đã
giành thời gian đó để làm những bài thơ cách mạng. Sau khi ông trở thành một
người anh hùng dân tộc, thì hình tượng của ông đã truyền cảm hứng cho những tác
phẩm thơ ca cách mạng, sau đó được dùng để giáo dục những người nông dân và trẻ
nhỏ về lòng yêu nước.
Marinaj đưa ra hai câu
hỏi mang tính thách thức: Sẽ như thế nào nếu người Pháp, và sau đó là người Mỹ,
hiểu rõ hơn về vai trò của thơ ca trong đời sống người Việt? Và kết quả của
cuộc chiến sẽ như thế nào nếu họ có những nhà thơ và những bài thơ được sử dụng
để phục vụ lý tưởng và mục đích của họ thay vì cho phía Việt Cộng.
Trong quá trình tìm hiểu
các tác phẩm của các cựu chiến binh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, Marinaj cung
cấp một số cái nhìn sâu sắc nhất từng được đưa ra về vấn đề này. Ông đã chỉ ra
rằng họ như những người lính làm theo mệnh lệnh, nhưng cũng như những con người
chiến đấu để tồn tại trong một cơn ác mộng thực sự của cuộc sống. Phương pháp
viết của họ tái tạo những trải nghiệm chiến đấu của người lính mà không giống
như bất cứ tác phẩm văn học chiến tranh nào khác. Họ làm cho người đọc thấy,
nghe, và cảm nhận được nỗi đau khủng khiếp mà con người có thể gây ra cho nhau.
Marinaj có thể nói về các
kết nối phức tạp giữa chiến tranh và văn học bởi vì ông hiểu chiến tranh khiến
con người phải đi theo hướng mà họ không bao giờ muốn như thế nào. Hơn nữa, bản
thân ông là một nhà thơ đoạt giải thưởng, và nhà thơ thường
nhạy cảm hơn với đau khổ và quyết tâm khám phá nguyên nhân sâu xa của nó. Điều
này có thể giải thích lý do tại sao không có một dấu vết của sự phán xét đạo đức
nào trong tác phẩm Những cây liễu rỉ máu: Thơ Việt Nam đã viết lại cuộc chiến
tranh không tưởng đó như thế nào?
Ông đã tìm hiểu, khám
phá chủ đề đó của mình theo một cách đó là vừa sâu sắc và hòa giải. Cuốn sách
này chứa những luận điểm vừa kín đáo vừa kích thích tư duy trong đó khuyến
khích độc giả dùng những trải nghiệm và suy nghĩ của mình để kết nối những tài
liệu và phim được nghiên cứu; và với cách tiếp cận hấp dẫn này, Marinaj đã tinh
tế cho phép người đọc của mình phân biệt giữa những gì hợp lý và những gì không
hợp lý để tin tưởng. Bất kỳ ai đọc cuốn sách này với một tâm trí cởi mở sẽ thấy
nhận thức của mình trở nên sắc bén hơn.

Poet-Dr. Gjekë Marinaj. Photographer:Rade
Krstinić
Preface of book “Bleeding willows”
David Leitnick
With so many books about
the Vietnam War lining the shelves of libraries and bookstores, readers may be
leery of yet another one. But this book is not meant to be a work of history;
rather, Gjekë Marinaj wrote it to illustrate how the conflict in Vietnam
impacted the humanities of that period. He sets out under the premise that
the literature and poetry emanating from that troubled time serves as an
important tool in deciphering the thoughts, motivations, and emotions of the
Vietnamese and American soldiers who found themselves entangled in a war that -
as Marinaj perceptively observes - they did not want to fight, but did not want
to lose. Even so, no one can write about any aspect of this or any other war
without straying into the field of history. Tags like “history,” “literature,”
and “philosophy” are, after
all, human-made categories imposed on subjects that overlap and intertwine.
Marinaj opens this
illuminating book with an exploration of the American mindset at the start of
the conflict. He explores how America’s belief in herself as an invincible
embodiment of democratic freedom seemed like a sound motivation for pursuing
the course of action. Marinaj makes the bold and seemingly implausible claim
that a better understanding of the role of literature and poetry in Vietnamese society
would have offered priceless insights into a people and culture with which the
United States was not adequately familiar. I say “seemingly implausible”
because he convincingly defends his claim.
Poetry permeated the
lives of the Vietnamese across all socio-economic groups, from cradle to grave.
Ho Chi Minh saw the power of poetry, Marinaj explains, and used it as a tool in
organizing the Vietnamese people during its times of trial. When he was thrown
into prison by the Chinese in 1942, he spent his time composing political
poems. His later rise as wartime hero and father figure inspired the
revolutionary songs that were used to educate the villagers and their children to their version of
patriotism.
Marinaj poses two
thought-provoking questions: What if the French, and later the Americans, had
understood the role of poetry in Vietnamese life? And what would have been the
outcome if they had had the poets and their poetry serving their ideology and
purpose in Vietnam instead of the Viet Cong’s?
In exploring the
writings of American veterans of the Vietnam War, Marinaj provides some of the
best insight ever given on the subject. He reveals
them as soldiers following orders as well as human beings fighting to survive a
waking nightmare. Their writing methods recreate the combat soldier’s
experience in the reader’s mind like no other war literature. They make the
reader see, hear, and feel the soul-killing anguish that one people can inflict
on another.
Marinaj can talk about
the intricate connections between war and literature because he understands how war forces people to go in
directions they never intended. Moreover,
he is himself an award-winning poet, and poets seem to have more sensitivity to
suffering and a determination to explore its underlying causes. This could
explain why there is not one trace of moralistic judgment in Bleeding Willows:
How Vietnamese Poetry Rewrote an Impossible War.
He explores his subject
in a manner that is both insightful and conciliatory. This book teems with inconspicuous
yet thought-provoking statements that invite readers to bring their experiences
and thoughts to bear on the literature and films under study; and with this
engaging approach, Marinaj subtly enables his reader to distinguish between
what is reasonable and what is unreasonable to believe. Anyone who reads this
book with an open mind will find his or her perceptions sharpened for having
done so.
