MVP và hành trình thơ... (chuyên luận - VII) - Ngô Hương Giang & Nguyễn Thanh Tâm
Ngô Hương Giang - Nguyễn Thanh Tâm

Mai
Văn Phấn và hành trình thơ vào cõi khác (VII)

Nhà phê bình văn học
Nguyễn Thanh Tâm
Chương I
CHÚ GIẢI THƠ MAI VĂN PHẤN
Nguyễn Thanh Tâm
(tiếp theo)
VII. HÔM SAU, Nxb. Hội Nhà văn, 2009(*)
______________
(*) Ở tập thơ Hôm sau của Mai Văn Phấn, ta bắt gặp một
cái nhìn mới về hiện thực, con người và nghệ thuật. Có lẽ đó là điều làm nên
nguồn động năng đầy ám ảnh trong thơ anh. Nguồn động năng ấy chi phối, quán
xuyến tư duy nghệ thuật và mỹ cảm tạo nên khí hậu riêng của tập thơ.
Cuộc sống hiện lên phong phú, sinh động, phồn
tạp như vốn có trong thơ Mai Văn Phấn. Như một nhà quay phim kỹ tính nhưng tham
lam, Mai Văn Phấn thu vào ống kính của mình những sắp đặt ngẫu nhiên của tạo
hoá, để nó tự nói lên thông điệp về tính thậm phồn, bất định, bất toàn của vũ
trụ. Dụng công của tác giả nhiều nhất có lẽ là những bận lòng đầy tỉ mỉ, những
chăm chú khổ tâm để tri nhận thể tính của hiện thực như nó vẫn đang hiện tồn.
Một hiện thực Không thể tin nhưng có
thẩm quyền tồn tại, nó cất lời chối từ những giới hạn của khả năng, để biểu đạt
tính đa khả thể của cuộc sống: Nhưng hình như/ Mọi
con vật trong nhà/ Vẫn được chế tác từ đồ phế thải: Con mèo tam thể được sinh
ra từ mớ giẻ rách?/ Cá
bơi trong bể được gò hàn từ vỏ lon beer?/ Chim
hoạ mi hót trong lồng là chiếc ấm vỡ? (Không thể tin).
Như một lời phản biện
với quan niệm thông thường, những hình dung mới làm thay đổi ý niệm về những
cái mặc định. Sự thống ngự của chủ thể quan sát hiện lên ở đây để thách thức và
đòi thay đổi. Tại sao lại gọi đấy là chim
hoạ mi mà không phải là chiếc ấm vỡ?
Ngôn ngữ mang tính võ đoán, nên cách gọi tên chỉ thuần tuý là ý niệm tương đối
do con người áp đặt. Đọc hết bài thơ này của Mai Văn Phấn, con người hoàn toàn
có thể tự đặt cho mình câu hỏi để tiếp nối bài thơ!
Xuyên suốt tập thơ Hôm sau của Mai Văn Phấn là chuỗi những
mảnh ghép phi logic của hiện thực. Nói phi logic nghĩa là chúng ta đang bị chi
phối bởi logic của quan niệm, của sự áp đặt. Chính xác hơn đó là một logic mới,
nó không đáng bị khinh khi, bị chối bỏ. Sự quan liêu của những trật tự đã tồn
tại làm con người mất đi khả năng kiến tạo những "cú mới" (JF.
Lyotard). Đồng nghĩa với điều đó là con người cũ kỹ, tha hoá dần đi trong thể
tính đã khuôn rỗng: Đêm tỉnh dậy. Đồ gỗ
trong phòng mọc tua tủa nấm nhĩ. Bức tường chảy xệ xuống thành nắm đất nhão.
Chiếc quạt mở ra lần cuối rồi khép lại làm ống tre (Quay theo mái nhà). Con người không thể lại nằm xuống và tiếp tục
cơn ngủ của mình. Nấm nhĩ mọc trong đầu, tâm hồn chảy xệ, biến chất và lại
giống trong guồng quay hỗn độn của đồ vật. Sự chân thực của huyễn tưởng đã nói
lên thân phận của con người trong môi trường sống ngày càng khắc nghiệt, quay
cuồng bất trắc. Tác giả sử dụng huyễn tưởng và giấc mơ để biểu đạt những u uất
của sự sống mà con người đang từng ngày bôn trải.
Trong tập thơ này của
Mai Văn Phấn, niềm bi quan về thân phận của cái tôi cá thể hiện lên khá rõ. Cái
tôi hoàn toàn mất đi bản lĩnh tự tôn đã tốn nhiều tâm sức mới giành được sau
hàng chục thế kỷ bị khuất phục bởi vương quyền, thần quyền, bởi ý chí của đoàn
thể. Nó ngạo nghễ, trịnh trọng tôn xưng suốt một thời Thơ mới, để giờ đây hoang
mang hoài nghi chính bản thân mình. Vẫn còn day dứt trong thơ Mai Văn Phấn cuộc
giao tranh giữa con người cá nhân cá thể với con người phận vị. Sự xung đột của
"cái tôi", "cái siêu tôi" và "cái ấy" (lý luận
nhân cách của S. Freud) làm con người mệt mỏi, rũ rượi, muốn chết, muốn bóp cổ
mình để hoá giải, chấm dứt sự giao tranh. Trong cuộc đối đầu ấy, "cái
tôi" khát khao hướng tới một sự sống toàn nguyên, trọn vẹn nhưng không nắm
chắc rằng mình sẽ sống sót. Dù sao, còn giao tranh nghĩa là còn có cảm giác
mình đang sống: Tôi đi hết ga hết số. Răng nghiến chặt. Tay bóp cổ hắn. Kéo hắn lướt
trên mặt đất... Đích đến cuối cùng là buổi lấy phiếu tín nhiệm đề bạt, trả lời
phỏng vấn, chuẩn bị phong bao một đám hiếu, cuộc gặp gỡ một nhân vật quan
trọng...
(Đến trong ý nghĩ). Tự ngã và tha
nhân đều bị soi xét bằng cái nhìn hoài nghi của chủ thể. "Cái tôi"
uất ức vì bị cưỡng chế, "cái siêu tôi" bị giễu nhại bởi sự ngấm ngầm
cựa quậy của "cái ấy" làm nên bị kịch hiện tồn của con người: Đạo mạo nghe trộm điện thoại/ Đạo mạo nhìn ngực chị em trong đám tang/
Đạo mạo ký tên vào công trình khoa học/
Đạo mạo làm thơ tình khi đã liệt dương (Bài học).
Thức cảm về sự tha hoá
không phải là xa lạ trong văn học thế giới và Việt Nam. Đó là sản phẩm của tình
trạng con người bất lực, buông xuôi trước cám dỗ và sức mạnh cưỡng chế của điều
kiện sinh tồn (Chỉ là giấc mơ, Biết thì sống, Chuyện còn dài, Nếu,...).
Con người biết rõ mình đang từng ngày bị cuộc sống nuốt chửng mà không sao
cưỡng lại được. Trong tập thơ này của Mai Văn Phấn, ám ảnh về cái chết hiện lên
khá rõ. Bầu tử khí vẩn theo bóng quạ, xuyên qua màn đêm, gieo rắc niềm kinh hãi
lên sự yếu đuối đã kiệt quệ đức tin của con người: Đừng đến gần bóng râm/ Chúng là con
quạ/ Xoã cánh lúc hoàng hôn, rạng đông ...Cả
chúng ta nữa, đang cồn cào cùng dòng sông đói khát. Những giọt nước đục tìm
cách lọt qua khe vải. Mặt nước khổng lồ ghìm nén xao động, mong giữ lại bóng
người. Bật que diêm rồi, vẫn nhớ ngọn bấc còn rất xa. Vung tay lên, nói một
mình trong bóng tối (Biến tấu con quạ). Có chút gì chơi vơi trong tâm thức
con người. Sự níu kéo, sự nỗ lực, sự buông xuôi,... rồi tất cả bị nuốt vào
trong cái bụng tối đen của con quạ. Mỹ cảm của tác giả làm người đọc thực sự âu
lo. Cái chết ẩn náu đâu đó trong những bóng râm, những khoảng tối rồi bất thần
ập đến. Lễ thiên táng cho thân phận được chính thức bắt đầu.
Với những dự cảm bất an về thân phận, thơ Mai Văn Phấn không ru ngủ
người ta, mà đánh thức linh thị con người trong niềm khắc khoải
hiện sinh. Tư duy và mỹ cảm của anh khởi sự từ niềm bất an ấy. Ngôn ngữ thơ
biểu hiện tính phân mảnh của hiện thực trong một logic mới. Những ngẫu hợp của
đời sống chen chúc trong cấu trúc câu thơ ngỡ như thiếu mạch lạc. Nhưng rõ ràng
đã đem lại cho người đọc một cảm giác chân thực về những gì đang xoay động
quanh ta. Sự hoài nghi và chối từ trật tự, mỹ cảm cũ hướng tới một thế giới mà
ở đó mọi khả năng đều có thể xảy ra. Sự trực nhận của cảm giác xui khiến tư duy
phủ nhận những khuôn thước cũ đã chật hẹp, lỗi thời, những chuẩn mực đã méo mó,
không còn khả năng định vị. Tâm thế của con người trong bối cảnh sống chất ngất
rủi ro đã hướng tư duy và mỹ cảm của tác giả vào từ trường hậu hiện đại. Hôm
sau
nghĩa là còn chưa tới. Niềm khải thị về nghiệm sinh dẫu đầy bất an nhưng sẽ có
ý nghĩa cho một tương lai khả hữu hơn.
(còn nữa)

Bìa tập thơ HÔM SAU