Mai Văn Phấn - Từ “Thuốc đắng” đến giải Cikada. Phong Lan - Ur Thời Nay (Dagens tid), Nhân Dân (Folket) tidning - Phong Lan. Mai Văn Phấn - Från ”Beskt piller” till Cikadapriset
Mai Văn Phấn – Từ “Thuốc đắng” đến giải Cikada

Nhà văn Phong Lan
Phong Lan
Tobias Theander dịch sang tiếng Thụy Điển
Tính từ khi bài thơ “Thuốc đắng” được trao giải thưởng Văn nghệ Nguyễn Bỉnh Khiêm lần thứ nhất (năm 1991), đã hơn 20 năm Mai Văn Phấn miệt mài lao động nghệ thuật ngôn từ. Mới đây ông trở thành nhà thơ thứ mười trên thế giới được trao Giải Cikada.
Trong số những ứng viên nhận
giải thưởng Cikada năm 2017, dường như Mai Văn Phấn “bỏ xa” các nhà thơ khác với
nhiều con số ấn tượng: ông đã xuất bản hơn 20 tập thơ trong nước và được chọn dịch
ra 24 ngôn ngữ trên thế giới. Ngoài những ngôn ngữ phổ biến như: tiếng Anh,
Pháp, Nga, Tây Ban Nha, Đức, Trung Quốc, Nhật, Ả-Rập..., thơ ông còn được dịch
sang những ngôn ngữ ít người biết như: Anbani, Kazakh, Rumani... Đồng thời, thơ
Mai Văn Phấn thường xuyên xuất hiện trên các báo, tạp chí văn học nước ngoài và
có tập thơ lọt vào top 100 tập thơ bán chạy nhất của Amazon trong suốt thời
gian dài.
Giải thưởng và những chuyến thơ “xuất ngoại”
Đầu tháng 4-2017, nhà thơ Mai Văn Phấn nhận
được thư thông báo từ nhà thơ, tiến sỹ Lars Vargo - Chủ tịch hội đồng giám khảo
giải Cikada với những lời lẽ lịch thiệp: “Rất
vinh dự khi được biết rằng ban giám khảo giải Cikada đã quyết định trao giải
Cikada năm nay cho ông. Chúng tôi dự định trao giải vào tháng 11, nếu ông đồng
ý và chấp nhận giải thưởng. Ban giám khảo sẽ sớm gửi thông tin cho báo chí
thông qua thông cáo báo chí, nhưng chúng tôi nghĩ rằng sẽ tốt hơn nếu ông biết
trước.” Và chỉ khi nhà thơ Việt Nam có thư hồi đáp đồng ý nhận giải thưởng thì
thông cáo báo chí mới được công bố rộng rãi. Cách làm việc cẩn trọng của hội đồng
thể hiện sự tôn trọng tuyệt đối dành cho nhà thơ được trao giải thưởng danh tiếng
này.
Cikada là một giải thưởng
văn học được sáng lập năm 2004 nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của nhà thơ
đoạt giải Nobel Văn học người Thụy Điển năm 1974, Harry Martinson. Giải chủ yếu
trao cho các nhà thơ thuộc khu vực Đông Á, nơi "cảm quan thơ ca chỉ ra
tính bất khả xâm phạm của đời sống", nhiều tác giả người Nhật Bản, Hàn Quốc,
Trung Quốc đã nhận được giải này. Mai Văn Phấn là nhà thơ thứ mười và ông cũng
là nhà thơ thứ hai của Việt Nam được trao giải Cikada (sau nhà thơ Ý Nhi, năm
2015). Điều đặc biệt là năm nay giải thưởng sẽ được trao tại Việt Nam vào tháng
11, giải trị giá 20.000 Krona Thụy Điển (SEK) – tương đương khoảng 50 triệu đồng,
và một tác phẩm gốm nghệ thuật do nghệ nhân gốm người Thụy Điển Gunilla
Sundström thiết kế.
Nhà thơ, tiến sỹ Lars Vargo cảm nhận: “Thơ Mai Văn Phấn vừa âm thầm vừa bén nhạy. Phía sau
các vần thơ là vần điệu nhạc tính Á châu truyền thống, đồng thời không tách rời
khỏi tính hiện đại, đôi khi ngay cả đời sống thường nhật đầy trắc ẩn đang diễn
ra tại một nước đang phát triển nhanh chóng về kinh tế và hiện thực chính trị.
Thơ Mai Văn Phấn không mang tính chính trị ở chỗ, nó không tìm khoảng trống để
nhà thơ có thể phê phán thế thái nhân tình đã được thiết lập. Nhưng nó lại mang
tính chính trị qua cách tác giả chỉ ra những điều thiết thực cho con người:
không nên giẫm đạp lên đồng loại, hay môi trường và thiên nhiên thiết yếu bên cạnh
chúng ta... Ông đã tạo ra một chủng loại thơ tương đương với “thức ăn chậm”.
So với các nhà thơ Việt Nam
đương đại, Mai Văn Phấn luôn dẫn đầu về số lượng thơ được “xuất ngoại”, mà chỉ
trong vòng 7 năm trở lại đây. Đến đầu năm 2010, cũng nhờ một cơ duyên đặc biệt,
nhà thơ Mai Văn Phấn gặp dịch giả - nhà thơ Trần Nghi Hoàng, người đã sống và
viết ở Hoa Kỳ hơn 30 năm. Dịch giả Trần Nghi Hoàng đã dành thời gian chuyển ngữ
bài thơ dài “Cửa mẫu” sang tiếng Anh và đưa cho nhà thơ Frederick Turner – một
người bạn thân của ông hiệu đính. Tiếp đó dịch giả đã dịch toàn bộ tập thơ
"Bầu trời không mái che" (tập thơ đạt giải thưởng Hội Nhà văn Việt
Nam năm 2010) và được xuất bản song ngữ Việt – Anh với nhan đề: "Bầu trời
không mái che - Firmament without roof cover". Tháng 7/2012, Mai Văn Phấn
được Nxb Page Addie Press của Anh ký hợp đồng xuất bản phần Anh ngữ tập thơ
này. Mới đây, Nhà xuất bản Mundus Artium Press (Hoa Kỳ) vừa ấn hành tập thơ “3
câu” dịch sang tiếng Anh, chọn 648 bài từ tập “Thả” gồm 1.017 bài với cái tên
“Echoes from the Spiral Galaxy” (Âm vọng từ thiên hà hình xoắn). Nxb Mundus
Artium Press độc quyền phát hành tập thơ này tại Hoa Kỳ, đồng thời trên mạng
phát hành sách của Amazon với giá gần 20 đô-la Mỹ.
Thơ – tự nhiên
như hơi thở
Tính từ khi bài thơ “Thuốc đắng” được trao giải
thưởng Văn nghệ Nguyễn Bỉnh Khiêm lần thứ nhất (năm 1991), đã hơn 20 năm Mai
Văn Phấn miệt mài lao động nghệ thuật ngôn từ. Ông luôn mang đến cho bạn đọc những
bất ngờ bởi sự quyết liệt phủ nhận chính mình ở tập thơ ngay trước đó. Đọc mỗi
tập thơ là độc giả được bước một không gian khác, hít thở một bầu không khí
khác, thả trôi mình vào những miền suy tưởng khác với những điều đã từng biết,
từng cảm nhận ở thơ Mai Văn Phấn. Thơ ông có thể giản dị và trữ tình khi viết:
“...Ước nguyện duy nhất lúc này/ Cầm tay người đàn bà con yêu/ Được gặp Đức Phật.”
(Buổi sáng lên Yên Tử) hay triết lí sâu xa như: “Bầy cá con/ Quanh lưỡi câu lớn/
Tung tăng” (Chuyện đùa).
Những tập gần đây nhất, Mai Văn Phấn tạo ra
được một bầu khí quyển thanh khiết, ở đó, vạn vật đều bình đẳng với nhau trong
từng hơi thở. Đạt tới sự tự nhiên như thế, Mai Văn Phấn đã phải đi qua một chặng
đường đủ dài, đủ sâu để có được sự trải nghiệm và kinh nghiệm thanh lọc, thẩm
thấu những dưỡng khí tốt nhất cho thơ mình. Nhiều người đọc thơ Mai Văn Phấn,
và có không ít bài viết lớn nhỏ, ngắn dài về cảm nhận sau khi đọc, nhưng rất ít
người để ý đến nhan đề của những bài thơ. Mỗi tên gọi của một bài thơ chính là
chiếc chìa khóa mở ra một không gian, một con đường, một dòng chảy... mà tác giả
kín đáo trao cho người đọc, đã có nhiều người cùng thốt lên: “Mỗi nhan đề thơ của
Mai Văn Phấn là một âm thanh gõ vào cánh cửa để mở ra một thế giới”.
Nhiều bạn đọc lâu năm của Mai Văn Phấn nhận định:
thơ anh mỗi ngày lại có thêm sự giản dị, hồn nhiên. Có lẽ vì thế mà người đọc
tưởng như mỗi bài thơ được viết ra một cách dễ dàng, viết “như không”...
P.L
(Bản do tác giả gửi. Đã đăng báo “Thời Nay”, số 757, ra ngày 17/4/2017)

Biên tập viên - Dịch giả Tobias Theander
Ur Thời Nay (Dagens tid), Nhân Dân (Folket) tidning – Phong Lan
Mai Văn Phấn – Från ”Beskt piller” till Cikadapriset
Svensk version: Tobias Theander
Mai Văn Phấn tycks ”köra om” sina medtävlare om årets Cikadapris genom
sina imponerande siffror: Han har publicerat 20 diktsamlingar i Vietnam och
blivit överatt till 24 språk världen över. Förutom vanliga språk som engelska,
franska, ryska, spanska, tyska, kinesiska, japanska och arabiska har hans
dikter översatts till mindre kända språk som albanska, kazakiska och rumänska.
Samtidigt dyker dikter av honom ofta upp i utländska tidningar och
kulturtidskrifter, och en av hans böcker har under lång tid legat på listan
över Amazons hundra mest sålda diktsamlingar.
Priset och dikternas ”utvandring”.
I början av april i år fick Mai Văn Phấn ett brev från doktor Lars
Vargö, poet och ordförande i Cikadajuryn, där det meddelades i artigast
tänkbara ordalag: ”Jag kände mig hedrad när jag fick reda på att Cikadajuryn
beslutat att ge årets pris till dig. Vi planerar att överlämna det i november,
om du accepterar att ta emot det. Juryn kommer inom kort att tillkännage
nyheten genom en presskommuniké, men vi tycker det är lämpligt att du får veta
det i förväg.” Och först när den vietnamesiska poeten svarat att han
accepterade priset offentliggjordes nyheten. Juryns omsorgsfulla
tillvägagångssätt speglar dess absoluta respekt för mottagaren av det illustra
priset.
Cikada är ett kulturpris som instiftades 2004 då det gått hundra år
sedan Harry Martinson föddes, den svenske skalden som fick Nobelpriset 1974.
Priset ges i princip bara till poeter från Östasien, där ”poesisinnet pekar på
livets okränkbarhet”, och många japanska, sydkoreanska och kinesiska författare
har fått priset. Mai Văn Phấn är den tionde poeten, och den andre från Vietnam,
som får Cikada (den första var Ý Nhi 2015). Nämnvärt är att priset i år kommer
att överlämnas i Vietnam i november, 20 000 kronor samt ett konstverk i
keramik formgivet av den svenska keramikern Gunilla Sundström.
Doktor Vargö kommenterar: ”Mai Văn Phấns poesi är både lågmäld och
finstämd. Bakom hans uttryckssätt finns asiatiska lyriska traditioner,
samtidigt som han i sin poesi inte väjer för det moderna, ibland besvärliga
vardagsliv som finns i ett land som i snabb takt utvecklas mot en ny ekonomisk
och politisk verklighet. Hans dikter är inte politiska i den meningen att de
söker hitta utrymmen där han kan kritisera den etablerade ordningen. De är
däremot politiska såtillvida att han pekar på det nödvändiga i att människor
varken förgriper sig på varandra eller på den omgivande och nödvändiga naturen...
Han skapar därmed ett slags poesins motsvarighet till ”slow food”.
I jämförelse med andra samtida vietnamesiska poeter leder Mai Văn Phấn i
fråga om antalet ”utvandrade” dikter, men bara sedan sju år tillbaka. Genom en
lycklig tillfällighet träffade han 2010 på översättaren och poeten Trần Nghi
Hoàng som bott och skrivit i USA i mer än trettio år. Denna tog sig tiden att
överföra den långa dikten ”Cửa mẫu” till engelska ”Mother Gate” och lämnade den
vidare till sin poetvän Frederick Turner för korrektur. Därefter översatte han
hela samlingen ”Bầu trời không mái che” (som fick Vietnamesiska
författarförbundets pris 2010) som gavs ut i en tvåspråkig utgåva
(vietnamesiska och engelska) vars engelska titel var ”Firmament without roof
cover”. I juli 2012 fick Mai Văn Phấn det engelska förlaget Page Addie Press
att skriva på ett kontrakt om att ge ut den engelska versionen separat. Helt
nyligen har Mundus Artium Press i USA gett ut en samling treradiga verser
översatta till engelska, 648 av de totalt 1017 stycken i samlingen ”Thả”, med
titeln ”Echoes from the Spiral Galaxy". Mundus Artium Press har ensamrätt
på den boken i USA, liksom hos nätbokhandeln Amazon där den kostar nästan tjugo
dollar.
Poesi – lika naturligt som att andas.
Sedan dikten ”Beskt piller” fick Nguyễn Bỉnh Khiêms litteraturpris för
första gången (1991) har Mai Văn Phấn fördjupat sig i arbete med ordkonst. Ofta
överraskar han sina läsare genom att med bestämdhet förneka sig själv sådan han
var i sin förra diktsamling. För varje ny samling måste läsaren beträda en
annan rymd, inandas en annan luft, låta sig driva med i andra tankesfärer än dem
han redan känner till från Mai Văn Phấns diktning. Dennes poesi kan vara enkel
och lyrisk som när han skriver: ”... En enda önskan i detta ögonblick / Att
hålla kvinnan jag älskar i handen / Att få möta Buddha.” (Ur Upp för Yên Tử på
morgonen). eller djupt filosofisk som: ”Ett stim småfisk / Kring kroken /
Skuttar.” (Ur På skoj).
På senaste tiden har han lyckats skapa en eterisk atmosfär i vilken alla
ting är jämlika i andetag efter andetag. För att nå en sådan naturligheten har
han måst tillryggalägga en tillräckligt lång och djup vägsträcka för att
genomgå en rening och låta det för hans poesi bästa syret diffundera in. Det är
många som läser Mai Văn Phấns dikter, och det finns gott om sådana, stora och
små, korta och långa som fäster sig i minnet efter läsningen, men få lägger
märke till dikternas titlar. I själva verket är varje diktnamn en nyckel som
författaren diskret räcker läsaren, en nyckel till ett rum, en väg, ett
vattendrag, och en del säger unisont: ”En titel av Mai Văn Phấns är ett ljud
som knackar på dörren för att öppna till en värld.”
Många som följt Mai Văn Phấns diktning genom åren anser att den ständigt
tilltar i enkelhet och självklarhet. Kanske är det därför som läsaren tror att
varje dikt är skriven med lätthet, ”som ingenting”...