Phân tích bài thơ Con chào mào của Mai Văn Phấn

DÀN BÀI CHI TIẾT
a. Mở bài:
– Giới thiệu khái quát về Mai Văn Phấn, bài thơ Con chào mào.
b.
Thân bài:
* Hình ảnh con
chào mào trong thực tế:
– Vị trí: trên
cây cao chót vót
– Màu sắc: đốm
trắng, mũ đỏ
– Âm thanh:
tiếng hót “triu… uýt… huýt… tu hìu…”
=> Xuất hiện
một cách trực tiếp với những đặc điểm quen thuộc.
* Hình ảnh con
chào mào trong suy nghĩ:
– Xuất hiện
trong suy nghĩ của nhân vật “tôi”.
– Hành động: vẽ
chiếc lồng chim vì sợ nó bay đi, đó là mong muốn được độc chiếm cái đẹp của
thiên nhiên.
– Cuộc rượt
đuổi giữa hai nhân vật:
- Nhân vật “tôi” vừa vẽ xong thì chào mào vụt cánh bay đi.
- Tôi ôm khung nắng, khung gió, nhành cây: ôm trọn không gian thiên nhiên rộng lớn.
- Hối hả đuổi theo: nhanh chóng, gấp gáp và lo sợ
=> Khao khát
mở rộng “chiếc lồng” của ông thành bất tận, để tâm hồn mình bao trùm cả thiên
nhiên rộng lớn.
* Hình ảnh con
chim chào mào trong tưởng tượng:
– Không gian:
vô tăm tích, không biết là ở đâu
– Hành động:
nghĩ
– Những hoạt
động của chào mào: mổ những con sâu, ăn trái cây chín đỏ, uống từng giọt nước.
Đó là những món quà chuộc lỗi khi tôi nhận ra rằng, con chim chào mào mình yêu
quý sẽ chỉ hạnh phúc trong cuộc sống tự do, giữa thiên nhiên rộng lớn.
– “Chẳng cần chim
bay về/Tiếng hót ấy giờ tôi nghe rất rõ”: Chim chào mào không cần quay về nhưng
vẫn cảm nhận được tiếng hót vang lên trong tâm trí. Bởi nhân vật “tôi” đã biết
yêu thiên nhiên bằng sự tôn trọng, không còn là sự độc chiếm ích kỉ. Tình yêu
ấy khiến cho dù ở bất cứ nơi đâu cũng sẽ cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên.
c. Kết bài:
– Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Con chào
mào.
BÀI VĂN
Đề bài: Em hãy viết một bài
văn ngắn phân tích bài thơ Con chào mào của tác giả Mai Văn Phấn.
Bài văn số 1
Mai Văn Phấn là một nhà thơ với những tác phẩm có đề tài phong
phú về đề tài, có những cách tân về nội dung và nghệ thuật. Điều đó được thể
hiện qua bài thơ “Con chào mào”.
Mở đầu bài thơ,
hình ảnh con chim chào mào được khắc họa trong thực tế:
“Con chào mào đốm trắng mũ đỏ
Hót trên cây cao chót vót
triu… uýt… huýt… tu hìu…”
Chim chào mào
xuất hiện với vị trí “trên cây cao chót vót”. Vẻ đẹp của chim chào mào xuất
hiện với màu sắc “đốm trắng, mũ đỏ” cho thấy sự rực rỡ của nó. Cùng với âm
thanh quen thuộc là tiếng hót “triu… uýt… huýt… tu hìu…”. Với bút pháp tả thực,
nhà thơ đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên ngập tràn màu sắc, âm thanh.
Hình ảnh của
chim chào mào còn xuất hiện trong suy nghĩ của nhân vật “tôi” – nhân vật trữ
tình trong bài thơ:
“Tôi vội vẽ chiếc lồng trong ý
nghĩ
Sợ chim bay đi
Vừa vẽ xong nó cất cánh
Tôi ôm khung nắng, khung gió
Nhành cây xanh hối hả đuổi
theo”
Nhân vật “tôi”
trong bài thơ vẽ chiếc lồng để nhốt con chim chào mào vì sợ nó bay đi. Hình ảnh
“chiếc lồng” được đan dệt bằng trí tưởng tượng. Nhân vật trong bài muốn giam
cầm con chim, hay chính là muốn độc chiếm cái đẹp của thiên nhiên. Nhưng nhân
vật “tôi” vừa vẽ xong thì chào mào vụt cánh bay đi. Hành động “tôi ôm khung
nắng, khung gió, nhành cây” – đó là khao khát muốn ôm trọn không gian thiên
nhiên rộng lớn. Động từ “ôm” kết hợp với các danh từ “nắng”, “gió”, “nhành cây”
thể hiện khao khát được mở rộng “chiếc lồng” của nhân vật tôi thành bất tận, để
tâm hồn mình bao trùm cả thiên nhiên. Giọng thơ hồn nhiên, vui tươi cho với
những câu thơ cho thấy tác giả khao khát mở rộng thiên nhiên, muốn tâm hồn mình
bao trùm thiên nhiên rộng lớn.
Kết thúc bài
thơ là hình ảnh con chim trong tâm tưởng của nhân vật “tôi”:
“Trong vô tăm tích tôi nghĩ
Lát nữa chào mào sẽ mổ những
con sâu
Trái cây chín đỏ
Từng giọt nước
Thanh sạch của tôi
triu… uýt… huýt… tu hìu…
Chẳng cần chim lại bay về
Tiếng hót ấy giờ tôi nghe rất
rõ.”
Nhân vật “tôi”
mang theo cả không gian đầy nắng, cây, gió, mong níu giữ con chim và tiếng hót.
Nhưng lại “vô tăm tích” – cụm từ cho thấy sự vô thủy, vô chung của thiên nhiên,
vũ trụ. Tôi tự mình tưởng tượng ra những hành động của con chim chào mào: mổ những
con sâu, ăn trái cây chín đỏ, uống từng giọt nước. Trí tưởng tượng của nhà thơ
dường như bay theo tiếng chim. Tất cả dịch chuyển sống động đó được thể hiện
trong câu thơ: “Thạch sạch của tôi”. Hai từ “của tôi” cho thấy nhà thơ đã dùng
hết những gì tinh tú nhất để “nuôi dưỡng” chú chim nhỏ bé của ông. Hai câu thơ
cuối cho thấy con chim đã bay xa. Nhưng trong tâm tưởng của nhà thơ, con chim
vẫn còn đó: “Chẳng cần chim bay về/Tiếng hót ấy giờ tôi nghe rất rõ”. Nhân vật
“tôi” vẫn cảm nhận được sự hiện diện của con chim chào mào. Bởi nhân vật “tôi”
đã biết yêu thiên nhiên bằng sự tôn trọng, không còn là sự độc chiếm ích kỉ.
Tình yêu ấy khiến cho dù ở bất cứ nơi đâu cũng sẽ cảm nhận được vẻ đẹp của
thiên nhiên.
Bài thơ “Con
chào mào” của Mai Văn Phấn đã cho thấy vẻ đẹp của chú chim chào mào. Qua đó,
nhà thơ còn muốn thể hiện tình yêu thiên nhiên, khao khát tự do của nhà thơ.
Bài văn số 2
Mai Văn Phấn là một nhà thơ, nhà phê bình tiểu luận. Một trong
những bài thơ của ông là “Con chào mào”.
Đầu tiên, nhà thơ
đã khắc họa hình ảnh con chim chào mào trong thực tế:
“Con chào mào đốm trắng mũ đỏ
Hót trên cây cao chót vót
triu… uýt… huýt… tu hìu…”
Con chào mào
xuất hiện ở “trên cây cao chót vót” – tính từ “chót vót” xác định vị trí cao,
mở rộng biên độ về không gian. Hình ảnh con chim được miêu tả với “đốm trắng,
mũ đỏ” cho thấy sự vẻ đẹp rực rỡ của nó. Cùng với âm thanh quen thuộc là tiếng
hót “triu… uýt… huýt… tu hìu…”. Xuất hiện một cách trực tiếp với những đặc điểm
quen thuộc. Với bút pháp tả thực, nhà thơ đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên
ngập tràn màu sắc, âm thanh.
Nhưng hình ảnh
con chim chào mào không chỉ đơn thuần mang nét nghĩa như vật:
“Tôi vội vẽ chiếc lồng trong ý
nghĩ
Sợ chim bay đi
Vừa vẽ xong nó cất cánh
Tôi ôm khung nắng, khung gió
Nhành cây xanh hối hả đuổi
theo”
Đến khổ thơ thứ
hai, tác giả đã để nhân vật “tôi” trong bài thơ vẽ chiếc lồng để nhốt con chim
chào mào vì sợ nó bay đi, đó là mong muốn được độc chiếm cái đẹp của thiên
nhiên. Chiếc lồng biểu đạt quyền sở hữu thiên nhiên, phô bày cái đẹp của riêng.
Nhưng nhân vật “tôi” vừa vẽ xong thì chào mào vụt cánh bay đi. Bởi vậy mà “tôi
ôm khung nắng, khung gió, nhành cây” – đó là khao khát muốn ôm trọn không gian
thiên nhiên rộng lớn. Động từ “ôm” kết hợp với các danh từ “nắng”, “gió”,
“nhành cây” thể hiện khao khát được mở rộng “chiếc lồng” của nhân vật tôi thành
bất tận, để tâm hồn mình bao trùm cả thiên nhiên.
Cuối cùng là
hình ảnh con chim chào mào trong tưởng tượng của “tôi”:
“Trong vô tăm tích tôi nghĩ
Lát nữa chào mào sẽ mổ những
con sâu
Trái cây chín đỏ
Từng giọt nước
Thanh sạch của tôi
triu… uýt… huýt… tu hìu…
Chẳng cần chim lại bay về
Tiếng hót ấy giờ tôi nghe rất
rõ.”
Khi “hối hả
đuổi theo” con chim chào mào, “tôi” mang theo cả không gian đầy “nắng, cây,
gió” mong níu giữ con chim và tiếng hót. Nhưng không còn thấy tăm tích của con
chim đâu. Không gian “vô tăm tích” dường như chính là sự vô thủy, vô chung của
thiên nhiên, vũ trụ. Những hoạt động của chào mào: “mổ những con sâu, ăn trái
cây chín đỏ, uống từng giọt nước”. Đó là những món quà chuộc lỗi khi tôi nhận
ra rằng, con chim chào mào mình yêu quý sẽ chỉ hạnh phúc trong cuộc sống tự do,
giữa thiên nhiên rộng lớn. Nhưng trong tâm tưởng của nhà thơ, con chim vẫn còn
đó: “Chẳng cần chim bay về/Tiếng hót ấy giờ tôi nghe rất rõ”. Chim chào mào
không cần quay về nhưng vẫn cảm nhận được tiếng hót vang lên trong tâm trí. Bởi
nhân vật “tôi” đã biết yêu thiên nhiên bằng sự tôn trọng, không còn là sự độc
chiếm ích kỉ. Tình yêu ấy khiến cho dù ở bất cứ nơi đâu cũng sẽ cảm nhận được vẻ
đẹp của thiên nhiên.
Như vậy, bài
thơ “Con chào mào” đã cho thấy vẻ đẹp của chú chim chào mào. Nhưng nhà thơ muốn
gửi gắm tình yêu thiên nhiên, khao khát tự do của nhà thơ.
(Nguồn
: Học 247)