Thơ Khánh Phương & những trái tưởng tượng (phê bình) - Mai Văn Phấn
Thơ Khánh Phương & những trái tưởng tượng
(Đọc tập thơ “Thành phố đại dương” của Khánh Phương, Nxb Hội Nhà văn, 2013)

Nhà thơ Khánh Phương
Mai Văn Phấn
Đây là tập thơ thứ hai của Khánh Phương, sau
tập thơ trình làng “Hai bầu trời” (Nxb
Hội Nhà văn & Bách Việt Books, 2010). Chị là nhà thơ theo khuynh hướng cách
tân, cùng thế hệ với các tác giả Lê Vĩnh Tài, Đinh Thị Như Thuý, Lê Ngân Hằng,
Đỗ Doãn Phương…
Thơ Khánh Phương sớm định hình phong cách. Chị thường kết
nối các phương chiều không gian và thời gian, tạo sự đồng hiện, qua đó, kiến
tạo vườn thơ riêng với những “trái tưởng tượng” mới lạ. Phương pháp này
làm xuất hiện những yếu tố tương phản, nảy sinh một hệ thống những mối liên hệ
thị giác, đem đến cho bạn đọc nhiều liên tưởng mới lạ về những hiện tượng xảy
ra nơi đời thực và trong tâm tưởng. Có thể nói, tính đồng hiện là một đặc trưng
thi pháp thơ Khánh Phương. Nó bắt nguồn từ các trào lưu nghệ thuật hiện đại
phương Tây, nhằm tìm kiếm những hình thức biểu đạt mới với quan niệm đa
dạng về hiện thực xuất hiện đồng thời trong đa điểm nhìn.
Trong tập thơ “Thành phố đại dương”, Khánh Phương đã kết hợp nhuần nhuyễn cảm xúc và suy tưởng để tạo ra
dòng chảy riêng biệt, siêu hình:
“người đàn bà từ ba ngàn năm trước
cõng trên vai đứa
bé
vừa chết
chiều nay” (Kanji, 7).
Để đạt được điều đó, chị đã hóa thân thành một thế giới
riêng biệt, tái hiện hình tượng từ nhiều nguồn ẩn ức, xung động, hòa trộn cùng
những dữ liệu của đời sống thực tại:
“Tôi lục lọi những ý nghĩ tìm bạn
buổi sớm mai, cánh
rừng đang cháy, mặt hồ
ly nước, màu vàng
của trái chuối, cuốn sổ, chiếc khăn tay…
bóng bạn trùm xuống
bờ vịnh tối
như cây cọ” (Viết cho Machzumi
Dawood).
Hình ảnh bóng bạn như cây
cọ trùm
lên câu thơ được kết nối vào những mảnh vỡ tuyệt đẹp của tưởng tượng.
“Chúng ta thất lạc nhau có lẽ từ một trận sóng thần
kiếp trước
đến bây giờ
em vẫn chưa có anh” (Con
tàu như cây kim trên mặt biển).
Đó là cách nói ám thị trực tiếp, nhưng có vẻ như ai cũng
tin, không chút đắn đo, nghi ngờ:
“chúng ta từng cho đi
cả kho ngọc vàng
châu báu”.
Cách liên tưởng của Khánh Phương khá dị biệt và đa dạng. Chị thường dồn nén cảm xúc,
cuốn theo những đam mê. Những hình ảnh cứ thế được nhân lên, phóng đại gấp
nhiều lần so với hiện thực:
“Bờ biển một ngày nở phồng lên
Tôi quên mình là ai
Trần truồng đi xuống bến tắm” (Chakti).
Chị
hay đảo lộn những khái niệm thông thường, đan cài những hình ảnh được khuếch
đại hoặc thu nhỏ theo cách của riêng chị, biến hóa chúng thành máu thịt trong
cơ thể, đời sống:
“Ánh sáng chậm/ như bóng tối
trời anh đào ngực em
Còn thở
Mạch máu chảy thành những con đường nước
Nhật…
Mặc áo cho biển
vạt áo thêu hoa dạ
hội
Tiếng chuông đánh
mặt trời” (Kan ji, 6).
Cách hòa trộn hình ảnh trong thơ Khánh Phương cũng rất lạ
và có phần quái đản, nhưng vẫn được bạn đọc chấp nhận vì chúng xuất hiện và
chuyển động logic, tạo những hình dung về một thế giới vừa quen vừa lạ, vừa ló
rạng sinh sôi, vừa nhá nhem tàn tạ:
“Người ta cắt động mạch
những bình minh
em làm sao thoát
sống
máu chúng ta nhuộm
đen những câu chuyện
xưa
ngực anh giấc mơ
quay lại” (Sang…).
Nhiều hình ảnh đứng cạnh nhau nhưng rất khác biệt, như
không hề liên quan, được kết nối, tạo nên những trường nghĩa sinh động và độc
đáo.
Chiếc rốn
Bông anh đào biến
mất (Kanji, 7).
Chiếc
rốn”
và bông anh đào là hai hình ảnh không
liên quan đến nhau cả ý nghĩa lẫn biểu trưng. Nhưng khi nhà thơ xếp chúng gần
nhau, thì hai hình ảnh ấy bất ngờ chuyển động, hoán đổi ngữ nghĩa cho nhau,
vượt qua giới hạn liên tưởng và cảm xúc thông thường. Khổ cuối bài
thơ “Kanji 7”, gồm ba câu thơ
với ba ý nghĩa riêng rẽ, nhưng được Khánh Phương liên kết, tạo dựng một trường
xúc cảm mạnh và xuyên suốt. Chúng hiện thực hóa sự biến chuyển từ thế giới hữu
hình sang vô hình, giới hạn thành vô hạn:
“cỏ mồ lan xanh dưới lưng ân ái
cắn chặt cái hôn
quà của anh từ cõi
khác”.
Trong khổ thơ sau đây, chị dồn nén nhiều hình ảnh trong
mạch cảm xúc nhất quán, bằng cách đan cài những chuyển động của muông thú, cỏ
cây lẫn với hoạt động của con người:
“Gieo tóc anh xuống khu vườn
Mọc lên cây
Chùm trái tóc như
trái phá
Gọi tới ăn
Bầy chim biết nói
tiếng người” (Vết cắt).
Những hình ảnh tóc,
cây, trái, bầy chim trong khổ thơ trên
chuyển động tương hỗ theo quy luật riêng của nhà thơ trong một “khu vườn”, để
dẫn đến kết cục Bầy chim biết
nói tiếng người.
Thơ Khánh Phương
cho người đọc cảm nhận được bản chất và chuyển động của sự vật, hiện tượng trong
thế giới riêng, dị biệt. Thế giới ấy hiển thị ngổn ngang, thô mộc, nhưng lạ lẫm
và tự nhiên. Đó là khoảng không tự do không bị bất kỳ bàn tay nào sắp đặt, can
thiệp, dù các sự vật mang bộ mặt lương thiện hay khăm ác, cứ ngang nhiên xuất
hiện trong thơ chị: “tiếng bò dê kêu trong chuồng..., lượn sóng trắng theo
chân..., áo quần không thời trang..., vết thương tím bầm ở bụng..., ánh mắt có
lửa của chó sói..., cái miệng giá lạnh của tuyết đêm...”, hay “chòm ria, nấm mộ, người ăn mày ở
góc chợ”. Những âm thanh và hình ảnh ấy hiện lên như chứng nhân lịch sử,
“vết bỏng” của những cuộc hỏa hoạn, tao loạn... Đan xen
cùng những hình ảnh gai góc ấy, thơ Khánh Phương còn xuất hiện những bóng dáng
rất đáng yêu, thơ ngây đến nao lòng, như:
“mỗi chiếc lá giấu một con chim” (Cây dâu của chị Hà
Thị Kim Liên);
“Cù ký trẻ nhỏ trong nôi
Cười rúc rích (Gọi...);
Trong hồn tôi xanh
Một chú thỏ nâu tới ngồi...
Hạt cát
Còn run rẩy
Khi nước triều rút xuống
Bình thản trong ánh mặt trời...
Vẻ đẹp là đóa hoa nở không ngừng suốt
đêm đen” (Đọc Chú Đại Bi).
Những hình ảnh này hé
mở từng cánh cửa, có khi rất nhỏ, để người đọc thấy được trái tim nhân hậu, lòng
vị tha, vẻ đẹp tinh khôi trong tâm hồn nhà thơ.
Những hình ảnh
trong thơ Khánh Phương không rậm rạp, đan xen, và thường xuất hiện như một sự
tình cờ. Như bài thơ “Trong
nắng” sau đây, thi ảnh liên tục biến hóa, mở ra nhiều liên tưởng theo câu chuyện
kể chiều chúng ta ngồi bên cửa biển. Rồi cũng ngẫu nhiên chị chạm vào thế
giới của loài hải âu trắng, cả những linh hồn còn lẩn khuất…
Nhà thơ như tình cờ nhậu với món cá xanh xương nướng… đi tiểu trong rừng dương, rồi
bất ngờ đưa câu chuyện sang một không gian-thời gian khác xa lạ, kể về tro cốt chúng ta mai sau bay
trên sóng. Đây chính là “ma thuật” trong thi pháp thơ Khánh Phương. Nó cho người
đọc tri nhận về một thế giới vừa hiện hữu vừa mơ hồ, muốn theo đuổi nhưng rất
khó nắm bắt:
“Chiều rút nước chầm chậm
lộ ra thân thể biển
sau cuộc làm tình”.
Thời gian trong bài
thơ, phải chăng đã dần trôi sang một thời điểm khác, trái đất đã quay sang một khung
cảnh khác. Những hình ảnh về cuộc gặp gỡ bạn bè trên bãi biển như cũng lùi vào
dĩ vãng. Khi tấm màn của một vở kịch vừa khép lại, thì những hình ảnh kỳ lạ
khác của vở diễn khác lại tiếp tục:
“Sớm mai lấy ra những dây muống biển xanh rì
Cái ôm hôn tạm biệt”.
Thơ Khánh Phương
chuyển động trong không gian mở, bởi mỗi bài thơ của chị là một điểm
“khai phóng” cho giai đoạn tiếp theo. Bài thơ “Thành
phố đại dương” cho thấy, những bí ẩn của đời sống con người và vũ trụ
khi đồng hiện thì mạch thơ chuyển động đa tầng, phức rối, khó nắm bắt hơn. Đây
là bài thơ tổng hòa các thủ pháp sáng tác của Khánh Phương, đồng thời cũng cho
bạn đọc nhìn thấy giai đoạn thơ tiếp theo của chị:
“Lửa rực hồng
dưới biển sâu
Tôi vươn mình
Tóc xanh dài trong nước”.
Cách kết thúc bài thơ gây hiệu ứng bất ngờ cũng là nét
độc đáo trong thơ Khánh Phương. Nó đẩy bài thơ sang một liên tưởng khác với
những gì ta đã gặp trước đó, biến cái vô lý thành có lý, cái lỏng lẻo, dàn trải thành điểm hội tụ. Trong bài thơ “Thành
phố”, nhà thơ kể bâng quơ, lan man nhiều mẩu chuyện rời rạc. Từ chuyện cơn
đau trở dạ của một người đàn bà, những phát đại bác, rồi đột ngột nhảy sang Những đội thuyền được tiếp thêm
nhiều buổi sáng yên tĩnh trước lúc ra khơi, đến chuyện Nhặt được người một chiều lang
thang… Nghe như đã nhàm chán, chẳng muốn nhớ, chẳng muốn quan tâm nữa.
Nhưng bất ngờ ở khổ thơ cuối, hình ảnh người đàn ông và người đàn bà xuyên lấy nhau, mãnh liệt và
hoang dại trong cơn dâng hiến đã đẩy bài thơ sang một chủ đích khác:
“Như nhặt được mối tình
trước cửa
super market lúc 13
giờ đêm
xuyên lấy nhau
cùng anh
lại sinh hạ thành
phố”.
Bài thơ “Chiếc bình
bát”, từ tên bài đến nội dung đều rất giản dị. Đa phần những hình ảnh trong
đó được tác giả thuật lại với giọng điệu chậm rãi, mệt mỏi, như “chán không buồn
nói”:
“Đựng nắm nếp xôi dính tay
vốc đậu phụng, mảnh
cơm dừa
trái xoài chín rục”.
Có lúc lại như một võ sĩ ngái ngủ, rồi bất chợt giật mình
rút thanh gươm ra khỏi vỏ, ánh thép chạm vào bầu không sáng lên:
“Có khi rỗng không
soi bóng bầu trời”.
“Chiếc bình bát”
bỗng hé mở cho bạn đọc nhìn thấy những chi tiết, chuyển động từ đầu bài thơ,
tựa những vật ký sinh chênh vênh trên cõi tạm:
“Có cô bé bỏ vào một trái chanh
nó lăn tới lăn lui
theo nhịp bước chân”.
Đoạn kết bài thơ cho bạn đọc nhìn thấy những chuyển động
dị thường qua cửa sổ quan sát một thế giới thu nhỏ.
Hình ảnh thơ Khánh Phương gợi nhiều liên tưởng hoang sơ, bí ẩn. Trong
bài thơ “Tôi thấy”, Khánh Phương hóa thân thành một
cây con mọc trên tường ngôi
nhà sắp đổ. Hình ảnh
“Anh cún con ngoạm thử lá tôi
ngạc nhiên thấy
chảy máu”
đã gợi cho tôi cảm giác được chạm tới cái cốt lõi hiện hữu
và cũng thật mong manh của kiếp người; cũng ớn lạnh, rờn rợn khi nhìn thấy quy
luật sinh-diệt khắc nghiệt của đời sống. Khổ cuối lại gợi cho tôi hình dung một
bông hoa bị sâu đục gần hết những cánh mỏng bấy bớt, nhưng phần còn lại vẫn ung
dung mịn màng tỏa hương:
“Chiều qua
anh xe ủi tới lui
chỗ này
không cán phải tôi
Chúng tôi cùng lớn
dưới mặt trời”.
Cái cây con mà
chị đã tự nhận ấy dẫu non nớt, nhưng đầy kiêu hãnh, tự tin trong mọi hiểm họa luôn
rình rập. Người đọc còn được gặp tâm thế ấy trong khá nhiều bài thơ của Khánh
Phương.
“Hãy ngồi
Cho ban mai thấm
vào thịt da
Ý nghĩa của đời” (Tôi thấy, II).
Đó là thái độ sống của nhà thơ, là cách hướng thiện, lòng
tin cậy mãnh liệt vào những điều giản dị, đẹp đẽ của đời sống.
Thơ Khánh Phương ít lệ thuộc vào hiện
thực diễn ra hàng ngày. Có vẻ như chị không hoàn toàn chú tâm vào việc
phản ánh nó, nhưng một vài hình ảnh dù chỉ thoáng qua, vẫn cho ta thấy một thực
tại khốc liệt, lạnh lùng và đôi khi quá phũ phàng đang hiện hữu:
“Cô gái điếm đợi khách
Trong hành lang cầu
vượt
Người ghiền xì ke
nằm trên đống rác
Đàn muỗi vuốt mắt
cho anh ta (Tôi thấy);
Hoa trắng rơi không
ngừng
Phủ lên điều không
biết
Những người chết
nửa đường tự do” (Chakti).
Khánh Phương luôn tin tình yêu mãi là ngọn lửa sưởi ấm và
hóa giải mọi biến cố của đời sống. Giọng thơ của chị thường biểu cảm chân
thành, cho bạn đọc cảm nhận sự thiêng liêng của tình yêu, một ân phước mà
thượng đế đã ban tặng:
Chị luôn tin tình yêu có thể làm được nhiều phép lạ:
Khi cái hôn em gửi lên môi anh
giữa mặt biển mênh
mông
bỗng mọc lên hòn
đảo
mọc lên cây xanh,
âm nhạc, con người” (Trong rừng Pahang).
Trong bài thơ “Ca
dao”, hình ảnh chàng về với em
vừa dịu dàng, vừa quấn quyện, chảy xiết và hài hòa như dòng nước:
“Như ánh trăng rơi trên lưỡi kiếm, con đường xa khỏi bàn
chân…
Về với em
Như giọt sương tan
dần, phiến đá ấm mặt trời…
Với em
Như tách trà sớm
mai, chuyến xe khuất trong bụi đường, hơi thở người hàng xóm trở bệnh chiều
qua, trái đêm nở ngôi sao xanh, đoàn người đi qua cây cầu gỗ lúc 1h sáng, đụn
khói canh mùa thu, cây bạch dương khắc lên nền trời, giọt nước vạch lá sen, mùi
mưa ẩm”.
Mọi chuyển động trong bài thơ trên đều khơi lộ vẻ đẹp của
thế giới, nó diễn tiến tự nhiên như hơi thở, ánh sáng, như khí trời. Trong câu
thơ cuối, nhà thơ đã thảng thốt khi nhìn thấy ánh hào quang tỏa rạng từ khi chàng về với em. Hình ảnh này từng xuất
hiện từ đầu bài thơ:
“Như một ngày ngả vào lòng đất
hắt ánh lên bầu
trời sáng rực”.
Ánh sáng trong câu thơ đã trùm lên những hình ảnh khác
trong bài, làm cho chàng và em hiện lên thành biểu tượng của tình
yêu mãnh liệt và thủy chung.
Bài thơ “Tiếng đàn”
là cách chị phục dựng câu chuyện xưa về tình yêu. Ngay từ khổ thơ đầu:
“Tình em
giọt sương nằm
trong lá sen
mặc gió lay giật”
cho thấy vẻ đẹp lạ kỳ của tình yêu, nhưng cũng thật chênh
vênh, dễ tan vỡ. Các hình ảnh hiện lên trong bài thấp thoáng nét “cổ trang”,
nhưng được bài trí hiện đại, cho bạn đọc cảm giác được sống trong không gian
đương thời, rồi bất chợt chìm sâu vào xa xưa cổ tích. Chị sử dụng ngôn ngữ giàu
tính biểu cảm, nửa hư nửa thực khó nắm bắt:
“Hãy nằm nghỉ nơi đây
mái nhà ta
trong tiền kiếp
mặt trời sẽ vén lên
ngực chàng
mảnh chăn ấm của em”.
Khánh Phương có nhiều bài thơ, câu thơ độc đáo
về tình yêu. Trong bài “Thơ viết cho
anh ngày bệnh”, chị viết:
“Biển nuốt mất nửa thân anh
thức dậy em cầu
nguyện ngày lên.”
Người đàn bà trong thơ chị đã yêu để hóa thân, tan chảy:
“Em còn một nửa người đàn ông
nửa kia là biển
đổ vào em những
sóng…
Anh chệnh choạng
bên rìa sóng
Đêm xuống không ai
biết mình ép làm một”.
Chị yêu để đồng nhất, để thoát xác và hòa nhập với cái vô
cùng trong một cõi khác. Và đây là phút giây chị viên mãn trở về trái đất:
“Đem cái hôn chúng mình xuống mặt đất
Gió thốc
Sáng lòa”.
Ta
còn bắt gặp ánh sáng tinh khôi này trong nhiều câu
thơ khác của Khánh Phương. Thơ tình của chị không hoàn toàn mới lạ, nhưng thu
hút người đọc ở sự trong sáng, và luôn trở thành một trong những cái cớ để bộc
lộ những tiêu chí đa dạng của cái đẹp, nhân cách và nhân tính.
“Vậy mà mình yêu
Như cơn gió đêm bão
Không còn chốn lùi…
Giấc mơ
ta bước sang nhau trộn vào nhau cái hôn
vô biên
trên những đứt gãy vỏ trái đất” (Chuông buổi sớm).
Thơ Khánh Phương đa giọng điệu, mạch thơ thường
chuyển động chậm rãi. Có lúc nhà thơ biểu lộ nhẹ nhàng như những lời tâm sự
chân thành, cho bạn đọc đủ hình dung tình tiết của câu chuyện, rồi ngay sau đó,
chúng tuôn chảy vào những không gian tưởng tượng, đầy ắp mộng mị. Bài thơ “Trong rừng Pahang”, chị bình tĩnh sắp đặt
một khung cảnh bằng giọng văn kể, những hình ảnh và tình tiết giản đơn như ta
vẫn thường gặp:
“Sương đêm dâng tới cửa sổ tầng bảy
nhòa trắng những
ngọn đèn”.
Nhưng ngay sau những hình ảnh quen thuộc như bất động
kia, nhà thơ đột ngột mở ra liên tưởng mạnh những con đường không dấu tích
trên cao, và sau đó, chị đã bình tĩnh lý giải ý nghĩa của điều kỳ diệu ấy:
“Anh yêu
chỉ tình đôi ta
mới làm nên điều đó”.
Những tình tiết sương,
cửa sổ, ngọn đèn trong câu thơ trên được nhà thơ chắp cánh, bay bổng cùng
với những con đường trên cao trong khoảng không rộng lớn và thanh
tĩnh.
Thơ Khánh Phương hát lên bằng nhiều cung bậc. Tôi nói chị
“hát”, vì những thi ảnh của chị thường biến thành thanh âm, giai điệu dội vào
tâm trí người đọc.
“Chúng ta đợi mặt trăng lên và nó đang xuống
Đàn muỗi bay đi hút
đêm và sự sống từ đêm
giản dị như cái
chết” (Viết cho Thuý).
Đoạn thơ trên cho ta hình dung chị đứng hát thầm một mình
trong bóng tối, mọi hiện hữu khi ấy như tạm dừng lại trên ranh giới giữa tĩnh
và động, sáng và tối, xuất và nhập,… Trong bài thơ “Hiện thân”, câu thơ nơi thân thể chúng ta chạm nhau thăng
hoa trong tiết tấu nhanh, gấp gáp như tiếng gió rít qua cánh đồng rộng, làm cho
tất cả cây lá trên đó như rạp xuống:
“làm thành thứ ánh sáng không ai chịu nổi
sức nóng
không gì chịu nổi”.
Bài thơ “Lá”
là một tiêu biểu cho cách “hát” của Khánh Phương. Mở đầu là tiếng lá:
“Bay lên cao cùng nắng
không trung triệu chiếc cầu vồng
Chìm xuống vực sâu/ mang theo trái tim
em”.
Đó là thần thái của chiếc lá đang ngự trị trên trái đất. Lá
vô tình, nhưng cũng hữu tình che chở con người. Và trái tim chị đã hóa thành
trái tim lá, biết đau đớn, rộn ràng
trước mọi biến động của thiên nhiên, đời sống. Kết thúc bài thơ là khúc ca run
rẩy, đắm say khi “môi anh” xuất hiện với nhiều tầng nghĩa:
“Ghé môi anh
Uống
soi gương vào lá
ly thuốc mang em đi xa”.
Những bài thơ của Khánh Phương trong “Thành phố đại dương” được hoàn thiện và
ổn định hơn so với tập thơ “Hai bầu trời”.
Vẫn cách liên tưởng lạ, tạo dựng không gian rộng và mở nhiều lối tiếp cận, ngôn
ngữ hiện đại, giàu biểu cảm, đa nghĩa…, nhưng thơ Khánh Phương đã định hình rõ
phong cách, gây ấn tượng hơn trước. Đó là cách liên tưởng táo bạo, gây cảm giác
mới lạ, được sáng tạo trong cảm xúc mạnh. Nếu trong tập “Hai bầu trời”, chị sử dụng nhiều thể loại thơ (tự do, thơ-văn-xuôi,
haiku, tân hình thức…) với cách chuyển dịch ngôn ngữ gần với Siêu thực, Tượng
trưng…, thì đến tập thơ thứ hai này, chị đã thoát khỏi những khuynh hướng ấy.
Chị chú ý biểu đạt bằng ngôn ngữ giản dị, tinh lọc, và chúng được đặt trong
những ngữ cảnh đặc biệt để diễn tả rõ nét những chuyển động hỗn mang của hiện
thực đời sống, của tâm thức:
“Xe hủ tiếu vết bỏng đêm sương
những bậc thang không dẫn ta đi
lưng chừng bóng tối
Sao ngăn lòng đừng khiêu vũ
gió thổi bay hết áo anh” (Hoa).
Đặt tên bài thơ cũng là một thủ pháp quan trọng. Nó gọi
ra phần còn khuất lấp, mơ hồ của nội dung bài thơ, hoặc gợi cho người đọc những
liên tưởng khác nữa. Đọc thơ Khánh Phương, tôi vẫn muốn, giá như tên một số bài
thơ có thể gợi mở hơn. Tôi thấy chưa thật thỏa mãn tên một số bài thơ mà chị đã
đặt, như: “Viết cho Thắng…”, “Viết cho Thúy”,
“Nhớ”, “Thành phố I, II, III”…
Khánh Phương sáng tác thơ không nhiều và cũng ít xuất bản.
Một lẽ, do tính cách chị lặng lẽ, muốn trốn tránh nơi đông đúc, lẽ khác, thơ ca
chỉ là một trong nhiều vỉa tầng sáng tạo của chị. Khánh Phương là cây bút viết
lý luận phê bình khá sắc sảo, giàu cá tính. Ngoài ra, chị còn viết văn xuôi,
viết chân dung, phóng sự, làm báo… Ở lĩnh vực nào chị cũng tạo được dấu ấn
riêng. Cũng vậy, với thơ, chị là cây bút dám khước từ sự quen nhàm, bằng lặng, để
tạo ra những cây “trái tưởng tượng” của riêng mình.
8/2013