Thơ Giáng Vân trong suốt và tĩnh lặng
(Đọc tập thơ “Đường gió” của Giáng Vân, Nxb Hội Nhà văn, 2013)

Nhà thơ Giáng Vân
Mai Văn Phấn
Không biết nhà thơ Giáng
Vân có tu tập thiền hay không, nhưng khi đọc thơ chị, tôi đã lạc vào một không
gian trong suốt và tĩnh lặng. Khá nhiều bài thơ của chị đưa tôi đến trạng thái thiền
định trong tĩnh lặng, trong chuyển động của
vạn hữu, nhưng luôn tỉnh giác, sáng suốt, thanh bình. Có thể chị cũng không bận
tâm với những nghi thức quán tưởng của giáo pháp nào đó, nhưng thơ chị tựa
chiếc lồng ánh sáng vây quanh tôi. Ánh sáng thanh khiết ấy cho tôi được thấu
thị tâm và cảnh, thiện và ác, mê và ngộ trong cõi ta bà này.
Cầm tập bản thảo thơ “Đường
gió” (Nxb Hội Nhà văn, 2013) của Giáng
Vân, tôi đi về phía vạt cỏ cuối vườn trong một sáng cuối thu. Ít gió, hơi se
lạnh. Hình như tôi đã ngồi xuống một phiến đá phẳng. Mọi màu sắc và chuyển động
trong đó đang hiển hiện, trôi đi như nó vốn có, không khởi phát, ít gây hấn.
Thứ ánh sáng của từ bi, hỷ xả cứ tự nhiên dẫn dắt tôi đi từ bài thơ này đến bài
thơ khác.
Không gian thơ Giáng Vân mở
rộng, thoáng đãng, thường được tạo dựng bằng cảm xúc nhất quán, không ngăn
cách, hay biến đổi đột ngột. Đây là khoảnh khắc
đất trời và con người đều tịnh định:
“Thỉnh chuông chùa ba tiếng
Nghe lòng mình tịnh không”
(Khoảnh khắc).
Những khoảnh khắc thiền thường đến với Giáng Vân
trong khá nhiều bài thơ, tôi coi đó là trạng thái thiền động. Chị ngắm nhìn sự
trôi chảy, sinh diệt, hợp tan của thế giới bằng tâm thế tỉnh táo, trạm nhiên, an
định:
“Ngày cuối năm
Một người bán hoa đứng
góc đường
mời tôi mua
Tôi chọn một bó tầm xuân
lớn để cắm
vào chiếc bình gốm cũ
Tôi đã rất chăm chú làm
việc này
Thay vì
Đi tìm những quên lãng”.
Phải chăng những quên lãng ấy của chị cũng đang hành trình đến một chân trời mới,
hay khởi đầu một hiện thực “nhớ” khác? Trong bài thơ “Biến hoá”, chị đạt được nhiều mức độ tỉnh giác khác nhau, nảy sinh
những đổi thay vĩnh viễn:
“Trong biệt tăm
Tôi thả mình rơi thong
thả
Không gì bực dọc
Chỉ rặt những thứ vu vơ
Tôi
Hóa ra những vụn vỡ nhỏ
Li ti
Hạt giống của loài hoa
cỏ
Có thể nẩy mầm rất nhanh
Một sáng thôi
Làm tràn ngập sự thanh
khiết”.
Nhà thơ tỉnh táo phân thân trong cuộc hòa nhập giữa
đa chiều thời gian:
“Tôi đã bước ra khỏi tôi
Là không trở lại” (Trong ngôi nhà
rộng lớn);
“Tôi thả tôi vào ánh sáng
Ánh sáng tràn ngập
tôi” (Tôi
không là tôi);
hiện thân
trong hành trình của cuộc luân hồi:
“Quá khứ tôi là tương lai kẻ khác
Mùa đã chết trở
mình trong những cơ thể khác”.
Chị nhất thể hóa cái tôi cá nhân – tiểu vũ trụ với
đại vũ trụ, qua cơn gió xuyên
thấu:
“Những cơn gió thổi
Cuốn ta khỏi ngôi nhà…
Những cơn gió thổi
Từ đáy khát vọng” (Những cơn
gió thổi).
Bài thơ “Tự
trôi” là trạng thái của dịch biến, trôi chảy, không bị hạn cuộc… Nhà thơ
bình thản, an nhiên, không còn những hệ lụy, ái dục, khổ đau của thế giới tập
đế và khổ đế:
“Ta nhắm mắt
Tự trôi
Như nước trên sông
Như trăng giữa thiên
hà
Như gió theo gió
Như những số phận rì
rầm trong đêm”.
Sự thể nghiệm nhuần nhuyễn của thiền tuệ trong khổ
thơ này:
“Tự trôi,
Tự trôi...
Ta trôi đến khi nào
Khi nào ta cập bến?
Ngươi chỉ là cát nhỏ
Một giấc mơ thoảng
qua
Một chút hương rồi
hết
Một ngày trong vạn
năm”.
Bài thơ kết thúc trong trạng thái tuệ tri như thực:
“Thân xác rã tan
Trong đất sâu
Trong những đời sống
khác
Có gì níu ta lại?
Tự trôi
Tự trôi
Hiện hữu trong không”.
Trạng thái tự
trôi, buông thả tự nhiên đôi khi xuất hiện trong những bài thơ khác, nhưng
mang ý nghĩa khải thị, khởi nguồn. Đây là cánh cửa thiên nhiên vừa mở:
“Hãy chảy đi, chảy đi
Ta chỉ đầy lên khi cho
đi
Sự tráng lệ của những
dòng sông lớn
Khởi từ sức mạnh của mạch
nguồn
Sự trầm tĩnh của những
dòng sông lớn
Khởi từ sự bền bỉ…
Hãy chảy đi, chảy đi
Và đừng hỏi” (Lời của nguồn suối);
trạng thái tĩnh lặng của hồ nước, người
ta chỉ có thể nhìn thấu đến đáy nếu mặt nước không bị xao động:
“Im lặng đang tuôn chảy âm thanh
Ah, những âm thanh thần
thánh” (Viết
ở Luangprabang).
Giáng Vân, trong một số bài thơ, như muốn vươn tới
thế giới siêu hình, vượt qua màn vô minh bằng con mắt “thứ ba” xuyên
thấu:
“Linh hồn chúng ta nặng bao nhiêu” (Linh hồn);
“Linh giác đi từ đầu mỗi ngón tay, mỗi sợi tóc
Thoát đi nhẹ như một hơi
thở…
Và
Trên cánh đồng phiền
muộn
Chúng ta bắt đầu nở hoa” (Những cuộc bay của
linh giác).
Chị lý giải bản chất của sự vật, hiện tượng trong
chốn u minh, trùng trùng duyên khởi:
“Đôi khi, tôi thử giải mã những thế giới câm kia
bằng các ký tự trên các khuôn mặt, bộ điệu” (Những buổi chiều).
Chị nhìn thấy một con ruồi chuyển động dưới một
tấm kính trong suốt, để nhận ra tấm kính của mình mà chị không thể vượt qua, chính là ranh giới, cái
hữu hạn của đời sống này, ngăn cách con người với mịt mùng, vô tận.
Đôi lúc Giáng Vân nhìn đời sống hiện hữu từ một hệ
quy chiếu khác, bị tác động bởi những quy luật sống khác:
“Có một ánh sáng khác
Soi vào nỗi hoài nhớ của
tôi
Như mặt trời nhiệt đới
chiếu vào những đường
gân của lá
Nhưng đây là lá của
những ngày xanh tươi
Còn tôi
Một chiếc lá đã mục” (Chiếc lá).
Trong bài thơ “Tôi
chỉ là một giọt nước mắt”, chị đã hoán chuyển trạng thái trong thiền định,
hóa thân thành
“Một giọt nước mắt của trời…
Tôi có thể thấy được em
yếu đuối và tủi hổ nhưng
không thể làm gì…
Tôi thả tôi vào nước hy
vọng sẻ chia
Tụ vào tôi
Giọt nước ngày một lớn
Hãy thử soi vào tôi đi”.
Không gian thơ Giáng Vân khá ổn định, tĩnh lặng và
thanh lãng. Ta đọc được những câu thơ nhói sáng, như:
“Bật tung những chồi xanh
Trên khắp thân, cành.
Những cái cây
Choáng váng vì hạnh
phúc” (Những cái cây);
“Ô bài ca mặt trời
Người ạ
Vẫn sáng rực cả đêm
đen” (Bài
hát)…
Nếu người đọc cố dõi tìm những câu thơ hay để “nằm
lòng” chắc sẽ khó gặp, giống như người đi mò trăng dưới đáy sông. Câu thơ Giáng
Vân thường mang vẻ đẹp giản dị, bí ẩn khi đứng trong khổ thơ, chịu tác động
tương hỗ giữa các câu thơ, khiến bài thơ hoàn chỉnh.
Chuyển động các thi ảnh trong thơ Giáng Vân cũng
thường chậm, giống như đám mây chiều vàng rực đang trôi qua cửa sổ
nhà chị, giống như gió, dòng sông, màu diệp lục… đang trôi qua cuộc đời chúng
ta:
“Hạnh phúc cùng khổ đau
như gió thổi
tựa như ngày mai trôi
tới
đang trôi qua và đang
bay đi” (Bài hát 3).
Nhưng những chuyển động ấy bất ngờ, khó đoán
trước:
“Chảy tuôn
Và biến tấu không ngừng
Không thể lường được
Đường đi của gió
Không thể lường được
Những cơn bất thường của
sông
Dù ngày mai sông cạn” (Chảy tuôn).
Đôi lúc Giáng Vân như cố tình đứng từ xa quan chiêm:
“Những ngọn gió chết lặng trên cây
Cơn giông không sao tới
được” (Trước
cơn giông);
“Một sợi dây rất mảnh
Nối từ ta đến người
Làm sao để không thất
lạc” (Nhìn từ trên cao).
Thơ Giáng Vân đắm mê, nhưng tỉnh táo và tinh tế. Đó
là sự tinh tế trong quy luật chuyển hóa, biến đổi:
“Người thấm vào tôi
Cũng theo cái cách không
khí thấm vào tôi
Nước thấm vào tôi
Làm mới lại một mùa gieo
trồng
Những thứ cây có hương
vị vừa đủ mê hoặc” (Một ngày).
Tâm trạng cô đơn, lẻ loi thường xuất hiện trong thơ
chị, không buồn bã, day dứt, mà tự nhiên như nó vốn có:
“Cầu đứng một mình với tôi một mình
Gió thổi với mây
trời
Mặt trăng với sóng nước” (Giấc mơ).
Hình ảnh cây
cầu với tôi đều một mình.
Chữ một mình trong câu thơ đầu, như
đã vô tình kéo giãn khoảng cách giữa các hình ảnh, mở ra nhiều góc nhìn đơn lẻ
khác, từ gió, mây, mặt
trăng, sóng… Cũng trong bài “Giấc mơ” có câu thơ cấu trúc khá gợi:
“Tôi đứng giữa cầu, gió thổi gió lay tôi”.
Trong thơ Giáng Vân ít khi thấy các điểm “giao
tiếp” (ở bài thơ này là tôi, cầu, gió) hội tụ vào một tôi như câu thơ trên. Nhân vật tôi đã khiến cả chiếc cầu chòng chành,
chao đảo. Gió trong câu thơ đã lay chị hay chị làm ra gió không biết nữa!
Trong bài thơ “Nợ”,
nỗi cô đơn rợn ngợp, vỡ ra, tựa những mảnh thủy tinh lung linh, sắc nhọn:
“Cô đơn ngợp lên đã thành rừng
Sông chảy lên trời đã
như thác lũ…
Mang mang
Những ký ức buồn
Những mảnh vụn đã không
thể chắp lại
ĐẸP đã vỡ, đã khóc, đã
bay hơi” (Nợ).
Nhiều lúc chị ở trạng thái phân vân, lưỡng
tự:
“Vương nỗi gì trong mắt
Vương nỗi
gì như thể trong tim
Muốn bỏ đi
Nửa muốn đi tìm” (Tháng ba);
thoáng cả những hoài nghi:
“Bài hát cuối cùng của em đã hát
Cho anh cho anh cho anh…
Xin lửa đừng khi
nào tắt” (Không đề);
“Dường như trong mơ tôi khóc…
Vì trong suốt
cuộc đời
Tôi đã sống
Dù không biết mình sống”
(Những giấc
mơ tôi)…
Những biến động trong tâm trạng chị cũng diễn ra chầm
chậm:
“Một ngày thở than
Cùng nhau anh nhé” (Bài hát 2).
từ những đơn lẻ, rời rạc, chậm rãi và buồn bã,
nhưng chúng kết nối, thường là những kết nối xa nhau, tạo nên một thế giới
trong suốt, dịu dàng:
“Thầm thì và dịu dàng đến nỗi
Tất cả thương đau
sẽ lành
Tất cả những
môi thơm sẽ đợi
Cả bình minh cùng
những hoàng hôn” (Gửi…).
Chị đã nhìn
thế giới ấy, như con gái chị
“nhắm nghiền mắt và mơ. Nó tựa
hẳn vào tôi tin tưởng
Như tựa vào cả một
thế giới
Để không ngừng mọc ra
một thế giới khác” (Thơ viết cho con).
Chị lý giải những hệ lụy đời sống thật nhẹ nhàng và
thanh thản:
“Có buồn gì đâu
Tự nhiên
như là hơi thở” (Loa kèn).
Tôi thường nhìn thấy trong thơ chị hình ảnh một
người đàn bà lặng lẽ quan sát, chiêm nghiệm:
“Chảy mãi về trời
Những câu hỏi câm lặng” (Những câu
hỏi câm lặng);
“Bây giờ mới mùa xuân
Mùa xuân cũng còn rất
lâu nữa…
Từ những cánh trắng
Đến tận khi loa kèn chết” (Loa kèn)…
hay hành vi sống, mục đích sống của chị vì một điều
thiêng, như lý tưởng, như tôn giáo, vì
“Trên cao
Những con đường rộng mở” (Một ngày).
Điều thiêng đó đã cho chị gặp được may mắn, hạnh
phúc, giao cảm với những người thân yêu của mình ở thế giới khác:
“Thỉnh thoảng, mẹ ơi
Con mơ
Những chiếc lá từ trời” (Mẹ thả từ trời).
Trong trầm lặng và cô tịch, đôi khi chị cất tiếng
hát. Lời ca mơ hồ song âm điệu da diết:
“Ôi, những con ngựa
Sớm mai
Chết dịu dàng trên thảm
cỏ
Chết những mắt buồn
Vô hạn” (Bài hát cho những
con ngựa);
“Người yêu dấu ơi
Yêu và đừng muộn
phiền
Những cọn nước quay
và quay
Những cuộn chỉ quay
và quay
Vầng mặt trời quay
và quay…
Như em dệt tình yêu
cho anh
Những sớm mai
Dìu dịu” (Những ý nghĩ).
Động từ quay
lặp lại nhiều lần trong khổ thơ như một “con lắc đơn” đang giao động. Mỗi nhịp
của nó đã dệt nên biết bao điều kỳ diệu từ bàn tay dịu dàng của chị.
Không gian chị tạo dựng không biệt lập với thế giới
bên ngoài, trong bài thơ “Ghi trong cuộc
triển lãm”, Giáng Vân đã mượn ánh sáng quá độ của căn phòng để khắc họa
chân dung đời sống rất dữ tợn, gai góc:
“Những khuôn mặt đập thẳng vào thị giác
Cơn buồn nôn của thời
đại
Vũng bùn cho tất thảy
chúng ta quá chật hẹp
Để có thể múa may, gào
thét,
(Làm ra vẻ) điên loạn”
Mạch thơ Giáng Vân trôi chảy tự nhiên, có những mê
đắm, nhưng tỉnh táo, minh tuệ. Chị là họa sĩ vẽ tranh bằng ngôn từ, với những nhát cọ dứt khoát:
“Đồng đất mầu nâu ngái
Còn tôi mầu xám tro”
(Ngẫu cảm).
Tuy vây, thỉnh thoảng ta cũng gặp những câu thơ
luận đề khô cứng, gượng ép. Ngôn ngữ trong thơ chị tinh lọc, giản dị, giàu hàm
nghĩa, nhưng cũng có những câu thơ dễ dãi nhịp điệu và khuôn sáo.
Xuất hiện cùng thời với thơ Nguyễn Quang Thiều,
Nguyễn Lương Ngọc, Dương Kiều Minh, thơ Giáng Vân đã tạo đuợc không gian thơ riêng,
trong suốt và tĩnh lặng, góp phần làm phong phú, đa giọng dòng thơ cách tân sau
1986 tại Việt Nam. Thơ chị là thế giới của những giấc mơ, mở cửa giấc mơ.
“Chúng ta chỉ có thể bay trong mơ
Để tuyệt giao với nhơ
bẩn” (Viết
tặng họa sĩ Trần Trọng Vũ).
Câu thơ ấy có thể coi là tuyên ngôn thẩm mỹ thi ca
của Giáng Vân. Chị từng bay trong nhiều trạng thái, từng tạo ra nhiều khoảnh
khắc in dấu trong tâm não người đọc, nhưng tự do nhất, đẹp nhất là chị đã bay
một mình trong những giấc mơ – giấc mơ của người tỉnh táo và tinh tế, quán
tưởng sâu trong tâm không ở các
trạng thái thiền. Phải chăng, đó là cái đẹp nhân bản cũng như sự bình an và
phúc lạc nội tâm của con người.
11/2012
____________________
Tịnh
định (hoặc định tịnh): Trong Phật giáo, thuật ngữ “Định” chỉ
trạng thái định tĩnh hoặc nhất tâm (xuất phát từ sam-a-dha).
(Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%8Bnh); “Tịnh” chỉ sự trong sạch
an ổn, trong thiền học là trạng thái thiền.
(Tham khảo: https://phatgiao.org.vn/chu-tinh-trong-doi-song-hien-dai-d44033.html).
Tuệ
tri như thực (Tiếng Pali: yathābhūtaṁ pajānāti): tuệ tri rõ như thực, như thực rõ biết. Tuệ
Tri (pajānāti): là sự nhận biết rõ
rệt [bằng quán sát], thay vì hời hợt trong quán sát và nhờ cậy vào ký ức.
Nguồn: https://thaoluantrungbokinh.wordpress.com/vai-thao-luan/tac-y-tue-tri-tuong-tri/
Bìa tập thơ "Đường gió"