Thơ Dương Kiều Minh – "Hơi xuân tràn về từ những cánh đồng" (phê bình) - Mai Văn Phấn
Thơ Dương Kiều Minh – "Hơi xuân tràn về từ những cánh đồng"

Nhà thơ Dương Kiều Minh
Mai Văn Phấn
Một sớm vắng
ùa lên khói bếp
về đây củi lửa ngày xưa...
Dương Kiều Minh
“Vừa giấc mơ dịu dàng đậu xuống” – bài thơ thứ 240 xếp cuối cùng trong thi tập “Thơ Dương Kiều Minh”
(Nxb Hội Nhà văn, 2011) – như tạm khép lại những giấc mơ tuyệt đẹp, lạ kỳ
của chính nhà thơ. Giấc mơ ấy đã nhiều lần đậu xuống trong quá trình vận động,
cách tân và những cảm thức lạ kỳ của ông. Chỉ vừa xướng tên các tập thơ của nhà
thơ Dương Kiều Minh, tôi như nghe tiếng cửa mở vào những không gian mới lạ, tinh khôi:
“Củi lửa”, “Dâng mẹ”, “Những thời đại
thanh xuân”, “Ngày xuống núi”, “Tựa cửa”, “Tôi ngắm mãi những ngày
thu tận”, “Khúc chuyển mùa”, “Thơ Dương Kiều Minh”. Thơ Dương Kiều Minh có một giọng rất riêng trong
dòng chảy thơ cách tân sau 1986 tại Việt Nam.
á
“Củi lửa”, tập thơ đầu tay của Dương
Kiều Minh đã cháy và nổ.
Sức nóng của nó đã phả lên
đời sống văn chương vốn đang khá lạnh lẽo và tẻ nhạt lúc đó. Tập thơ là tiếng
nói riêng biệt, run rẩy với nhiều tầng bậc cảm xúc phức hợp, tựa ngọn đuốc vừa
bùng cháy. “Củi lửa” sẽ thắp sáng cho
những thi tập sau này của ông.
Tập thơ đầu tay thường
đánh dấu điểm mốc quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của các thi nhân. Nó hiển
lộ tinh hoa, và cả hạn chế của người viết, mà sau đó, dù nhà thơ ấy có rẽ sang những
ngả khác, thì khả năng sáng tạo thường được tiên báo trong những trang viết đầu
đời. Ví dụ như những thi tập “Điêu tàn
của Chế Lan Viên, “Lửa thiêng“của Huy Cận, “Thơ thơ”của Xuân Diệu; “Những bài thơ đầu”
của Adonis; “Hai mươi bài thơ tình và một bản tuyệt vọng
ca” của Pablo Neruda, v.v...
Tập thơ “Củi lửa” của nhà thơ Dương
Kiều Minh lại là một ví dụ khác. Đó là cánh cửa rộng, đột mở, đưa bạn đọc vào
một ngày mới ngập tràn ánh sáng, với nhiều ý tưởng bất ngờ và tươi ròng cảm xúc
đến nghẹn thở. Tập thơ được viết bằng thi pháp mới, chắc tay, chau chuốt, đặc
biệt hơn, ở đó không có thái độ ngập ngừng, lưỡng lự như một số tác giả cùng
thế hệ còn chịu ảnh hưởng những quan niệm của thi pháp truyền thống, mà quyết
liệt, đầy tự tin.
Thơ Dương Kiều Minh là
không gian riêng, vì ngay trong nhiều hình ảnh quen thuộc như ô ban công, chùm mùng tơi, bông cúc, rèm
cửa, cô gái mù, tiếng lá, bóng đêm, heo may, dòng sông, chiếc giày, mầm cây… cũng để lại những dấu vân tay và hơi
thở nóng hổi của một nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ, giàu bản sắc. Về tập thơ
này, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã chia sẻ sự đồng cảm của mình một cách tinh
tế và chân xác: “Khi đọc tập thơ đầu tay của Dương Kiều Minh,
tập “Củi lửa”, tôi thấy thi đàn
Việt Nam lúc ấy xuất hiện một giọng nói riêng biệt. Giọng nói ấy tách biệt khỏi
rất nhiều những giọng nói khác đầy tính lệ thuộc. Giọng nói ấy vang lên trong
sáng và quyến rũ, nhưng đầy cô đơn”. Tập thơ “Củi lửa” của Dương Kiều Minh đã tạo một dấu ấn quan trọng, trước
tiên với chính nhà thơ trong hành trình xác
lập những giá trị của lối viết
khác. Tôi từng đọc “Củi lửa”
nhiều lần, trong nhiều tâm trạng khác nhau, và luôn bắt gặp ở đó sự thơ
ngây mê đắm của nhà thơ trước sự khởi sinh, tái tạo của thế giới. Thiên nhiên
và con người hiện lên huyền ảo và thanh khiết, còn nhà thơ, đang trở về thuở bé
dại, ngỡ ngàng nhìn muôn vật muôn loài với tràn trề xúc cảm, yêu thương.
“Ngỡ vừa qua giấc mơ
hoang dại
cậu bé tìm lại đồng xu đánh mất ngày xưa
đáy bể ngâm trong vắt
ồ một vầng trăng vừa được vớt lên” (Cám dỗ).
Nổi trội trong “Củi lửa” là sự tinh tế và
huyền nhiệm. Đây cũng chính là phong vị riêng của tập thơ. Trong những tập thơ
sau này, mạch thơ Dương Kiều Minh vạm vỡ, bung phá ra nhiều hướng khác nhau,
nhưng vẫn luôn giữ được nét tinh tế trong kiến tạo hình ảnh và biểu đạt cảm
xúc. Đoạn thơ trích từ bài thơ “Trong mưa”
là một minh họa cho cảm xúc tinh tế trước thế giới tinh khiết, trong lành của
ông:
“Trong mưa có một ngôi
đền
và mưa từng ngón buông mềm mái tây
và mưa từng ngón ngón gày
len len run rẩy bàn tay gượng gàng” (Trong mưa).
Nhà thơ, như một họa sĩ
tài hoa, vẽ cho ta một bức tranh kỳ ảo và sống động đến từng chi tiết:
“Mặt trời lung linh khu
vườn mẹ
Bức tường ánh sáng...
Điều gì dào lên trong những hạt li ti” (Hy vọng).
Đó là những ban mai vừa
lộng lẫy tái sinh, những đồng cỏ đầm sương chợt hiển hiện như trong cổ tích:
“Đâu phải nữa con búp
bê bằng cỏ
Con đường hoa vối rụng đầy
Ban mai đổ về xa vắng
đồng cỏ đầm sương lóa ướt dưới trời” (Bản giao hưởng
đồng quê).
Dương Kiều Minh chọn cho
mình một góc khuất im lặng để sống và viết. Ông quan sát, ghi chép và chậm rãi kể những câu chuyện đời theo ngôn
ngữ của riêng mình. Những chiếc ô tô, ngôi nhà, ô cửa, hoa loa kèn được nhà thơ đặt trong một khung
cảnh tạo nên hình ảnh phố đêm gần gũi và rất đỗi dịu dàng:
“Chiếc ô tô màu xanh lá
cây
những ngôi nhà màu xanh
lá cây
ô cửa chớp bình hoa loa
kèn đỏ” (Thành phố buổi đêm).
Bài thơ “Củi lửa”, chủ điểm của cả tập thơ, như
một chớp mắt để thức giấc bàng hoàng. Nó mở ra những hình ảnh thân quen, ấm
nóng như ta vừa được ôm ấp, được chạm tay vào. Và giữa tầng tầng hình ảnh, lớp
lớp câu thơ là khoảng trống, một nét đặc sắc trong thi pháp thơ Dương Kiều
Minh:
“lăng lắc tuổi xuân
lăng lắc
niềm thôn dã
bếp lửa ngày
đông”.
Những hình ảnh tuổi
xuân, thôn dã, bếp lửa ngày đông đứng
cạnh nhau tưởng như rời rạc, phân rã, nhưng chúng được kết dính, đan bện lại
trong một trường cảm xúc mạnh mẽ và nhất quán. Ta sẽ cảm
nhận được ánh sáng thanh khiết, ấm áp tỏa ra từ chính những khoảng trống đó.
Đọc thơ Dương Kiều Minh, ta ngỡ như ai đó liệng viên sỏi xuống lòng hồ yên tĩnh
khiến những vòng tròn đồng tâm trên mặt nước cứ lan đi.
“Bên những hoàng hôn loang lổ gò đồi
mùi lá bạch đàn xộc vào giấc ngủ
con về yêu mái rạ cuộc đời”.
Những hình ảnh ấy chính
là sự giao thoa giữa hiện thực đời sống và thế giới kỳ ảo, của giấc mơ này đang
mơ về những giấc mơ khác nữa. Bài thơ có khổ kết rất độc đáo:
“Một sớm
vắng
ùa lên khói bếp
về đây củi lửa ngày xưa”.
Hình ảnh sớm vắng nhói lên như nốt cao nhất trong một
nhạc phẩm không lời, làm phát sáng, làm âm vang đồng hiện những diễn tiến hình
ảnh, rồi chốt lại trong câu thơ cuối. Đó là trạng thái sâu lắng của cảm xúc,
lôi cuốn ta vào thế giới của mặc tưởng trang nghiêm, khiến tâm hồn rộng mở, tinh
khiết. Thi pháp này còn được triển khai trong nhiều bài thơ ở những giai đoạn
sau, tạo nên phong cách đặc trưng riêng chỉ có trong thơ Dương Kiều Minh. Đó là
ban mai trong tiếng ho húng hắng của mẹ:
“Những
ban mai như thể đầu tiên
ào ào đổ
lấp lánh dòng ánh sáng
mẹ húng hắng ho…
mưa bụi dưới thềm” (Ban mai).
Đó là giọt sương treo trên cành trúc, một
biến tấu đột ngột nâng cảnh huống thực lên cõi cao vời của tâm tưởng:
“Rượu đây
Bạn đấy
Ta nâng cốc chạm làn gió đầu đông mang bí ẩn khởi lên xao động trong
ngần tựa giọt sương treo trên cành trúc” (Bên cuộc rượu mùa thu).
Đó là bức tranh tương phản giữa đổ nát và thanh xuân thổi bùng sinh khí mãnh liệt:
“ấy ngọn
lửa bùng dậy
ngọn lửa cất giữ tháng năm xa cách
ngọn lửa dìu các triều đại trườn qua đổ nát
những thời đại thanh xuân”.
Đó là cách ông quán tưởng trong khoảng không
tĩnh lặng của bài thơ “Không ai gọi tôi
trở dậy vào buổi cuối thu”. Ở đó mỗi hình ảnh sự vật đều mở ra một khoảng
không lạ lẫm, riêng biệt. Cả bài thơ như cánh cửa lớn mà phía sau là vô vàn
những cánh cửa nhỏ đan xen với những lối đi. Hãy cùng lắng nghe nhà thơ Dương
Kiều Minh gọi hồn sự vật:
“số phận
giống câu thơ vừa viết xong, bị xóa
bản nháp bài thơ gió nhấc lên tựa một lá bùa”.
Ở đây ta thấy Dương Kiều Minh như hạt sương
nép vào vạn vật làm cho chúng trở nên mát lành, trong suốt. Và nhân vật tôi trở nên tỉnh táo trong một biến ảo
rất lạ ở khổ kết của bài thơ:
“Không ai gọi tôi trở dậy
vào buổi cuối thu
tôi nằm viên mãn – chiếc lá vàng dưới hàng song thụ
Nếu mẹ tôi mà biết
Liệu mẹ tôi trách cứ các người” (Không ai gọi tôi
trở dậy vào buổi cuối thu).
Sự biến ảo này cũng là cách gọi mời, kích thích sự sáng tạo
tiếp theo của người đọc, tùy thuộc vào mặt bằng văn hóa và trải nghiệm riêng
của họ.
á
Sau tập thơ “Củi lửa”, nhà thơ Dương Kiều Minh luôn
chú tâm khai triển thi pháp đã minh định từ tập thơ đầu tay này. Ở những tập
thơ “Dâng mẹ”, “Những thời đại thanh xuân”, “Ngày
xuống núi”, “Tựa cửa”..., thơ ông
vẫn giữ được giọng trong trẻo, thơ ngây ban đầu. Đây là một mùa vàng đầy bàng
hoàng, như thể thế giới vừa bắt gặp trong cái nhìn đầu tiên:
“Mùa vàng, mùa vàng
những ký ức không bao giờ lặp lại
ta còn nguyên sơ hơi thở tự do” (Những thời đại thanh xuân).
Còn nữa, là giai điệu và
tiết tấu của đời sống vừa rộn rã vừa thanh bình:
“Bài Ca Niềm Vui Sống
ấy tiếng chuông cuối chiều dóng dả
cơn lốc cuốn theo đám bụi nô đùa
hai đứa trẻ dắt nhau chân trời xa tít” (Khúc dâng Mozart).
Những bài thơ về sau,
nhà thơ đã dần tiết chế sự trong trẻo, thơ ngây, để thế vào đó tâm trạng tỉnh
táo đầy chiêm nghiệm thế sự:
“Ồ khát sao
cơn khát thuở nhỏ
cơn khát thuở khai thiên lập địa
cơn khát ruổi dài theo mộng ước ta” (Những thời đại
thanh xuân).
Có thể nói, thơ Dương
Kiều Minh phần lớn tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của thơ ca phương Đông
kim cổ. Ông thường mượn thiên nhiên, cảnh vật để nói về cái hữu hạn, mong manh
chìm nổi của kiếp người:
“Ta hát về người niềm
tưởng nhớ
Sóng nước phù sa
Tháng năm ruồng bỏ
Ta chiếc lá cơ may trôi dạt lên bờ” (Sông Hồng).
Ánh sáng của văn hóa,
minh triết, đặc biệt là của thi ca phương Đông, càng tỏa rạng trong những giai
đoạn sau này, từ tập thơ “Tôi ngắm mãi những ngày thu tận” đến tập thơ “Khúc
chuyển mùa”.
“Tôi ngủ thiếp trong bài
thơ Đường
sương dăng
dầy bến bãi
Vành trăng động mắt người con gái
bức rèm buông tòa lâu đài Tàu” (Bộc bạch).
Ông nặng lòng vương vấn với những thi liệu quen thuộc của thơ ca phương Đông
nhưng biết mở những chiều kích bất ngờ của liên tưởng và suy niệm trong thi tứ,
chữ của ông bình dị nhưng có sức ám ảnh, tuy đôi khi biểu lộ sự quẩn quanh,
phức rối của cảm xúc. Sức vươn của mạch thơ luôn khỏe khoắn, nhịp điệu tự nhiên
và tự do.
“Năm giờ sáng nước chảy
tràn trên mái
tựa hồ số phận ấn định
thinh không buông tiếng chuông nhói ngực” (Vô đề).
Tôi chợt hình dung thấy
một kẻ sĩ thời nay đang tự vấn bằng giọng trầm, đều đều, cất lên trong
quầng sáng lung linh và thanh khiết.
Khác với tập thơ đầu
tay, nhiều hình ảnh dung dị trong thơ Dương Kiều Minh sau này được hiển lộ trong
những chiều không gian khác. Câu thơ sau khiến ta hình dung Dương Kiều Minh có
lúc muốn hiện thân thành nhà tư tưởng hơn là một nhà thơ:
“Ôi, mưa đông, mưa đông!
Cơn mưa lướt qua cuối chiều mang theo bao giấc mộng
Một hạt mưa ghé sát nói nhẹ: Thân xác này thật ra
đã được tạo bằng tư tưởng” (Mưa đông).
Tập thơ “Khúc chuyển mùa” là ngôi nhà để
Dương Kiều Minh trở về sau những chuyến du hành. Ở đây, ta gặp lại sự trẻ trung
và điềm đạm, sâu sắc và thơ mộng:
“Lô xô những quãng đời
Dựng men theo bờ nước
Giật mình cơn mơ đêm trước
Hiện về tuổi trẻ của ai” (Chúng tôi gặp nhau ở bên kia hồ nước).
Nhưng lần này, hình ảnh
ruộng đồng, thôn dã tái hiện trong thơ ông mang vẻ đẹp và âm hưởng hoàn toàn
khác trước:
“Đã lâu rồi không đi qua
những cánh đồng sương sớm tươi mùi cỏ xuân những lá mầm vươn dậy mãnh liệt
Vọng đến
tiếng kèn buổi chiều giữa xuân trỗi dậy nỗi niềm xa vắng” (Tự sự bên mùa).
Cánh cửa một mùa xuân chín mở ra trước mắt nhà thơ Dương Kiều
Minh với âm điệu và hình ảnh mới, bền bỉ, với nguồn năng lượng thấm sâu tỏa
rộng hơn:
“Niềm xuân thúc giục
Niềm xuân mách bảo
Niềm xuân vươn dậy cõi mênh mông tĩnh lặng
Bóng lớn cây dã hương cổ thụ vươn cao giữa trời đất
trong rạng rỡ ngày mới
Thổn thức làn ánh sáng tỏa lan hơi thở xuân về” (Giao thừa).
Ở khía cạnh khác, thơ
văn xuôi là một thế mạnh của nhà thơ Dương Kiều Minh. “Sực nhớ núi đồi” là một trong những bài thơ văn
xuôi đầu tiên tiêu biểu, và ở đây nét ung dung, tự tại, cảm xúc tươi non được
kiềm chế lại. Mạch thơ trải rộng, câu thơ được kéo dãn với góc quan sát bao
quát, giàu liên tưởng.
“Tôi chợt nhớ núi đồi
những đêm tĩnh lặng trong trẻo, ngôi sao xanh ánh sáng bị làn hơi ẩm tách ra
thành nhiều sợi tinh khiết...
Đêm đêm những nàng tiên
cánh mỏng bay là là trên những cánh rừng và dòng sông hắt ánh sáng dìu dịu bờ
dốc thoai thoải.”
Những hình ảnh trong bài
thơ rất thật, có lúc tưởng như sao chép chi tiết của đời sống nhưng vẫn đậm
tình cảm riêng biệt của người viết:
“Tôi mở ý tưởng thơ mộng
chỉ thấy hình ảnh thế giới khô cằn. Mùa đông đến dài dặc, mùa xuân hiện gương
mặt tiều tuỵ căn nhà chen chúc cũ nát.”
Có thể, trong bài thơ
văn xuôi đầu tiên này, hiệu ứng ngôn ngữ và hình ảnh chưa cao, một số câu thơ
còn mang âm hưởng của văn xuôi, chưa tạo được khoảng trống mơ hồ giữa các câu
thơ và cũng chưa tạo được nhiều bất ngờ. Bài thơ này, không thấy in trong tập
thơ “Thơ Dương Kiều Minh”, nhưng theo tôi, đã đánh dấu sự
chuyển biến trong thi pháp thơ của tác giả. Ở những bài thơ văn xuôi sau này,
xét một cách tổng thể, mạch thơ ngày càng vạm vỡ, tự do, khoáng đạt hơn và đó
cũng chính là cốt cách phong vận của ông. Nhiều bài thơ của Dương Kiều Minh tựa
cơn gió lớn bất chợt ùa về cánh đồng rộng mênh mông, đem đến cho ta cảm giác
phóng túng, ngang tàng:
“Giữa thinh lặng mênh
mông tiếng gió từ phía sông Đáy duổi qua con đê kéo ngang cánh đồng trước nhà hòa
cùng tiếng côn trùng tiếng xào xạc cây lá tạo nên những giai điệu kỳ bí của đêm
tỏa ngát hơi thở bí ẩn thiên nhiên và vũ trụ” (Gửi bạn đêm cuối
năm).
Không gian trong thơ văn
xuôi Dương Kiều Minh là những hình khối, những quần thể tượng đài độc đáo, gợi
ta nhớ tới những biến tấu từ bảy mô-đun của điêu khắc gia Điềm Phùng Thị, mang
đậm phong vị và triết lý phương Đông. Nó bí ẩn dựng lên bức tường cao ngất,
tiếp nối, dọc ngang, gây choáng ngợp. Nhiều hình ảnh vừa mới thoáng hiện đã nhanh
chóng đan lồng với những hình ảnh khác lớn hơn, dị biệt hơn:
“Ai vẫn đứng kia buổi
cuối chiều giông gió, phố xá bời bời, hồn chia hai ngả. Vẫn ở đó ao đầm gò bãi,
hiện về đây hiu hắt núi đồi. Niềm thương cảm quanh quất bao năm dâng ngùn ngụt
núi rừng chập chùng dòng sông vách đứng” (Tựa cửa).
Trong không gian này,
cùng với cảm xúc là những chiêm nghiệm về vũ trụ, trải nghiệm về nhân sinh. Mỗi
hình ảnh trong đó, tưởng chừng đơn lẻ nhưng đều chứa đựng những ý nghĩa phổ
quát và nhiều gợi mở. Chiếc lá sen khô
trong câu thơ sau mang một vẻ đẹp của nhiều trạng thái cảm giác, mở cho ta
liên tưởng khác về thiên nhiên, đời sống:
“Sự kiêu hãnh giờ chỉ còn
dấu vết kỷ vật. Những chiếc lá sen khô đội mưa tìm lại mùa thu đầm Vạc. Những
âm thanh trong trẻo vang động đâu đó trong trời đất ngân trên cây thiên cầm
thuở ấy” (Những chiếc lá sen
khô).
Dương Kiều Minh thường
chủ ý làm cho những chuyển động của hình ảnh thơ chậm lại so với quy luật thông
thường. Trong khi đó, những nhà thơ cách tân cùng thế hệ với ông thường đẩy tốc
độ hình ảnh đi nhanh hơn, tạo khoảng cách lớn, làm phân rã, đột ngột thay đổi
quy luật chuyển động của chúng.
Nhịp điệu được tiết chế
chậm lại trong thơ Dương Kiều Minh đã tạo một hiệu ứng khác biệt. Nó diễn tả
một thái độ sống, thái độ ứng xử trước nhân thế, cho ta thấy được tâm trạng
lưỡng cực của một người vừa yêu vừa chán ngán sự đời:
“Sương muối giăng mù
trời, lòng người lửa đốt. Mười hai tháng trôi qua chớp mắt. Mọi việc chậm chạp,
trì trệ gần như ngưng đọng. Mình như con ếch ngắm bầu trời hiếm hoi trong đêm,
dường như có điều gì bất ổn nơi từng đám sương từ từ trút xuống chộn rộn mờ
ảo.…
Ngang cõi nhân gian huyền ảo cô lạnh, kia ai cầm
ngọn lửa phất qua” (Ghi ở buổi cuối
năm).
Bàn tay ai cầm ngọn lửa phất qua cho thấy thái độ vừa chằm bặp vừa lơ
đãng, vừa trách nhiệm vừa buông bỏ, thờ ơ trong biến ảo khôn lường của đời sống
thực tại. Bằng cách kìm nén này, Dương Kiều Minh đã sáng tạo nhiều bài thơ văn
xuôi thành công. Trong bài thơ “Tìm sen ở
Quan Sơn”, ta nghe thấy giọng nói chậm rãi cất lên, vừa uể oải vừa minh
triết:
“Chiều xuống, thoáng
mưa ngâu nhè nhẹ. Bên rặng phi lao, những em bé gái đeo giỏ mò cua bên cầu Dậm.
Núi non hồ nước phủ làn hơi mưa, một vài trái núi bị đẽo gọt loang lổ lộ ra
trắng toát”.
Cảnh vật ở đây đang diễn
ra như vốn có, buồn tẻ nhàm chán, hay chộn rộn, mơ hồ… còn tùy ở cảm nhận của
người đọc, nhưng cái vẻ trắng
toát lộ ra khi một vài
trái núi bị đẽo gọt loang lổ đã
tạo một hiệu ứng kinh hoàng, khi chính bàn tay con người phá hủy vẻ đẹp nguyên
sơ của thiên nhiên. Đọc đến câu cuối, ta thấy tất cả những hình ảnh vừa gặp từ
khổ thơ đầu đã không còn ở vị trí cũ, mà hoảng hốt, xáo trộn để làm nên một
trật tự mới.
Nỗi cô đơn hiện lên khá
đa diện trong thơ Dương Kiều Minh. Chúng di chuyển trong tịch liêu, vương vất chút
luyến tiếc:
“Sự ưu tư buổi cuối chiều
đòi hiện trên trang trắng. Bóng tối theo hơi lạnh thấm dần xuyên qua lùm cây,
mái nhà, ô cửa
Cơn khát dục vọng thiêu cháy làm biến dạng những
khuôn mặt
Lại đã để lại phía sau mùa lũ, dòng sông vào đông
để lộ những vạt đất bồi, những con chim rẽ giun từ đâu đến mải mê thản nhiên
quên cả chiều đã xuống
Vẫn lùm cây này, vẫn bờ gạch lát, câu chuyện đã là
của thế kỷ trước” (Những con chim rẽ giun bên vạt sông chiều).
Hình ảnh người mẹ tỏa
sáng suốt các tập thơ của Dương Kiều Minh, như biểu tượng của nguồn cội, là nơi
nhà thơ nương tựa lúc cô đơn, nơi cố hương tiễn biệt và nơi để quay về. Bất cứ
câu thơ nào nhắc tới mẹ, mơ hồ chạm hình bóng mẹ, đều vang lên trong tâm hồn
nhà thơ rưng rưng tiếng chuông cầu nguyện, niềm khắc khoải khôn nguôi, nỗi nhớ
quay quắt, da diết… Một vệt nước trên tán lá, một tiếng hát và bước chân, tiếng
mẹ gọi trong khói lam chiều là những giấc
mơ dịu dàng của nhà thơ:
“Cơn mưa đêm để lại vệt nước trên tán lá
khóm đại hồng môn
Bài ca duổi theo bước chân trẻ thơ con đường dọc bờ
rào ô rô chạy men đồng bãi
Ai như tiếng mẹ gọi ngôi làng khói tỏa xa xa” (Vừa giấc mơ dịu dàng đậu xuống).
Chiếc
giày trên lớp
lá thu trong câu thơ sau
diễn tả tâm trạng hụt hẫng, cô độc của nhà thơ bên phần mộ mẹ:
“Trên cánh đồng mẹ nằm cô
quạnh
Mẹ hằng mong tôi khôn lớn một ngày
Đâu đó bên hàng song thụ
Trên lớp lá thu còn một chiếc giày” (Không ai gọi tôi trở dậy vào buổi cuối thu).
Tình cảm ấy lúc như tơ
nhện giăng trên mặt hoa mỗi sớm:
“ổ mầm đậu hòa lan mẹ ủ
lên mỗi sớm
Có mùi sương mùi nước
tuổi thơ ăm ắp buồn” (Bướm trắng);
lúc như bóng mẹ hiện về
ấm áp, bao dung:
“Mẹ chẳng trách. Mẹ lần
lần run rẩy
nghe tiếng tôi thốt lên phía hiên nhà” (Bên những sợi tơ
ánh sáng).
Từ tập thơ “Tôi
ngắm mãi những ngày thu tận”, nỗi đau bệnh tật đôi khi được nhắc tới càng
đẩy ông vào cô quạnh. Trong cơn lẻ loi ấy, nhà thơ thường cất
tiếng gọi mẹ; tiếng gọi ngắt quãng, bập bẹ thơ ngây như thuở ông còn bé bỏng
trong vòng tay âu yếm của Người:
“Mẹ ơi,
mùa xuân gấp gấp, con nghe thấy ngõ quê tinh khôi rải ướt xốn xang bước chân
thôn nữ gánh nước ngày cuối năm, cây đào trụi lá nở những bông hoa đầu tiên,
hơi xuân tràn về từ những cánh đồng” (Mẹ ơi, mùa xuân gấp gấp).
á
Những bài thơ cuối cùng
của tập “Thơ Dương Kiều Minh” đã
mở thêm những chiều kích khác trong suy tưởng và cảm xúc, là sự tìm đến, cũng
là cuộc trở về của nhà thơ với vẻ đẹp giản dị và hiện đại. “Hơi
xuân tràn về từ những cánh đồng”. Câu thơ ấy như ánh sáng luôn soi chiếu
suốt hành trình thơ ca Dương Kiều Minh, là đích đến phía chân mây, là “nhân đức
tin” cho ông vượt qua mọi thử thách, khó khăn để gặt hái những thành công ngoài
mong đợi. Dương Kiều Minh cùng với các nhà thơ cùng thế hệ đã làm cuộc “vượt
thoát” ngoạn mục, góp phần quan trọng vào cuộc cách tân thơ Việt trong những
thập niên qua. Tôi chọn câu thơ trong bài “Tự sự bên mùa” của
Dương Kiều Minh để kết thúc bài viết, như một lời cầu chúc cho linh hồn nhà thơ
được thảnh thơi ở cõi vĩnh hằng:
“Tỉnh dậy, đã đầu hạ
Âm nhạc reo vang những con đường rộng thênh xa hút
ngang qua những nẻo quê, một miền quê bỏ lại”.
3/2012
_____________________
Tên các tập thơ của Dương
Kiều Minh: “Củi
lửa” (Nxb
Tác phẩm mới – Hội Nhà văn, 1989); “Dâng mẹ” (Nxb
Văn hoá, 1990); “Những thời
đại thanh xuân” (Nxb Văn học, 1991); “Ngày xuống núi” (Nxb
Văn học, 1995); “Tựa cửa” (chưa
xuất bản, 2001); “Tôi ngắm
mãi những ngày thu tận” (Nxb Hội Nhà văn,
2008); “Khúc chuyển mùa” (chưa
xuất bản, 2011); “Thơ Dương Kiều Minh” (Nxb Hội Nhà văn, 2011 – bổ sung 2 tập thơ
chưa xuất bản).