Dấu chân trên hành trình tuyệt mù

Nhà thơ Trần Tuấn
Mai Văn Phấn
bước chân chúng ta chậm hơn sự dừng lại
Trần Tuấn
Dừng lại, là vận tốc tức thời bằng
không. Vậy sao lại có khái niệm chậm hơn
nó? Đó có lẽ là câu hỏi thông thường của một người “bình thường” ở cõi thực.
Nhưng với cõi thơ Trần Tuấn, đấy có thể lại là câu hỏi ngây ngô của kẻ viễn
hoặc cận thị, kẻ mù màu... Vậy hãy khua cây gậy dò đường của bạn lên đi, sẽ
thấy, bên dưới, bên cạnh hay phía trên mặt đường kia còn nhiều mặt đường khác
nữa. Và thấy bên trong, đằng sau, hoặc xa hơn giọng nói kia còn có những âm sắc
mang thông điệp khác nữa. Đọc “chậm hơn
sự dừng lại”, tập thơ thứ ba
của nhà thơ Trần Tuấn, tôi nhận thấy, không phải một thế giới mà nhiều thế giới
với những chuyển động phi lý, hỗn cực đang ẩn giấu, giao thoa làm nên một cõi
thơ khác lạ.
“trên con đường mù u
trôi tuyệt mù”.
Đó là câu mở đầu tập thơ của
Trần Tuấn, dẫn
lối cho tôi thung dung đi vào xứ tuyệt mù
này. Điểm chạm đầu tiên, dễ nhận thấy, là thế giới phân cực trong “chậm hơn sự dừng lại”, vừa quen vừa lạ.
Quen, vì nó vẫn được soi tỏ bằng ánh sáng trần thế, minh bạch và phơi mở trong
hệ quy chiếu được đo bằng tần số, hình khối, kích thước thông thường. Lạ, vì
cốt lõi của nó đã bị bóc tách khỏi nó, bị cắt trụi chùm rễ từng nuôi dưỡng nó.
Nó trở nên cô lẻ, trơ trụi trong một không gian không có điểm đặt, không thể
xác định. Nó tồn tại như đơn độc, chuyển động xuyên thấu qua những đồ vật khác,
cuộc đời khác, thế giới khác. Những hình ảnh sau đây trong bài thơ cô đơn cô độc cho người đọc thấy được
tính phân cực của từng đơn vị hình ảnh trong “chậm hơn sự dừng lại”:
“hạt bụi cô đơn với hạt bụi
ngón chân cô độc với bàn chân
… con
chữ cô đơn với hàng chữ
… ánh sáng cô độc với ngọn đèn
… nước cô đơn trong giọt nước
muối cô độc với đại dương…”
Tính phân cực này đã làm cho
những tứ thơ Trần Tuấn hiện sáng trong không gian mở rộng, mặc dù chúng được
quan sát dưới một lăng kính khác thường, tôi tạm gọi đó là những góc nhìn
nghiêng.
“Cây cầu thang cũng đang bước đi
ra ngoài thế kỷ
khỏi mặt đất đang lún dần, tan chảy.” (tiếng bàn chân trên cầu thang).
Góc nhìn nghiêng trong
thơ Trần Tuấn cho ta thấy những cái hỗn mang và phi lý trong tập thơ và trong
chính tiêu đề của cuốn sách, “chậm hơn sự
dừng lại”, bỗng thành hợp lý. Cái chậm
của đơn cực này được so sánh với sự dừng
lại của đơn cực khác hay đa cực. Ở phía khác ấy, sự dừng lại, có thể đang tồn tại, phát sinh trên cùng một bản thể với
những chuyển động của cái chậm lại đó.
Tiêu đề này mang nội hàm tất cả đều chuyển động, dù có thể được miêu tả trong
trạng thái bất động. Còn những chuyển động kia đang đi về đâu, kết cục thế nào
xin tùy độc giả ước đoán.
Tiếp đến là thế giới hoán
chuyển, hóa thân. Trong tập thơ của Trần Tuấn, tôi cảm nhận có con mắt của hệ
quy chiếu khác từ thế giới xa lạ luôn dõi theo, tác động và chi phối mọi chuyển
động trong đời sống chúng ta. Trong bài thơ “đợi nước đang sôi”, nhà thơ
“thấy mình được pha trà
được rót
vào cái chén cũ
nghi ngút khói
hương vị thân thể
cứ thế
đang ngồi uống tôi”.
Con mắt “xa lạ” này xưng tôi, cái tôi thi sĩ, nhưng nó tồn tại
bên ngoài cơ thể, bản thể của Trần Tuấn, có lúc lại như đồng hành với thái độ
bình tĩnh và lạnh sắc:
“chạy trên dòng sông chảy ngược
sông lao vào người
xuyên qua tôi
trôi không dấu vết” (trên dòng nước hồi xuân).
Vẫn bài thơ ấy, nhưng nhân
vật tôi kia có lúc bịn rịn, nao nao
với thế thái nhân tình:
“thả bộ dưới lòng sông
trong u ơ mùi vị của gió
ướp qua nhiều ánh sáng
thời gian mắc lưới lòng sông
thấy mình già đi rất nhanh
trong ma sát mịn màng kiếp khác”.
Vậy những thế giới tiếp nối,
chồng lấn, giáp mối trong “chậm hơn sự
dừng lại” có đường biên không? Có, và khá đa dạng. Cái ranh giới ấy thường
mong manh và chỉ xuất hiện khi bắt đầu một chuyển động:
“nằm trong cơn mơ
tôi co một chân
định bước qua vũng tối
rồi mờ dần nhẹ dần
chân bước
sang một cơn mơ nào khác” (tôi có sợ tôi không?).
Thế giới thơ Trần Tuấn
thường có lớp nang, dịch chuyển chậm, tuần tự. Trong bài thơ “đứa bé, đống củi và thị trấn” có ba nhân
vật, nhưng khắc họa đủ diện mạo của đời sống, ở cả hai cõi âm dương.
“thị trấn trôi theo dòng sông đất
đống củi trôi trong thị trấn
đứa trẻ trôi trong đống củi”.
Những hình ảnh trong bài thơ
xuất hiện tựa một đoạn phim câm quay chậm trong lời kể trầm tĩnh, từ tốn, có
phần mệt mỏi của nhà thơ. Tôi tưởng tượng ba nhân vật vừa nói được lồng vào
nhau tựa một thân cây có ba đường vân gỗ, ba lớp vỏ. Cái cây này chôn chân trên
mặt đất, ngỡ được đứng yên, nhưng thực ra nó vẫn quay cùng trái đất với mọi
thời tiết, mùa màng. Những tấn trò đời luôn diễn ra quanh nó, trong nó, diễn cả
với những linh hồn ở bên kia thế giới. Hình ảnh đứa bé được nhà thơ vẽ ra trên phông nền mờ nhòe làm ta ngỡ như nhìn
thấy nó qua một tấm kính đã ố mốc, bị hấp hơi nước:
“thị trấn đang mỗi ngày lún
dần xuống
… những đứa bé chết non
… bóng nó đang nằm trên đống củi
già đi”.
Nhân vật đứa bé còn xuất hiện đôi lần trong những
bài thơ khác của tập thơ này. Nó là biểu tượng của sự sơ sinh, chớm nở, nảy mầm
của hạt giống ước mơ. Nó mang hình tướng bấy bớt và run rẩy trong xứ tuyệt mù, trong lẫn lộn sáng tối, thổn
thức và mộng mị. Trong bài thơ “ngó lên
xã tắc hai hàng mù u”, nhà thơ viết:
“những đêm thằng bé mơ
trên con thuyền mù u
trôi tuyệt mù”.
Hoặc trong bài “và một đường đạn bay”, hình ảnh đứa bé hiện ra bơ vơ nhìn con chim không
lối thoát. Trong không gian hoang lạnh, con chim nằm trong tầm ngắm – đích đến
của viên đạn:
“thằng bé không thể kêu lên báo động
họng nó đang ươm mầm một hột mù u”.
Trong bài thơ “cái chết”, nhà thơ viết về cơn tự tử tập thể của những đứa trẻ con,
đó chính là
“cuộc săn cuồng loạn dồn đuổi chúng ta
ra khỏi đường biên ra khỏi vô biên
không còn chung nhau
chia nhau một thế giới và nhiều thế giới
dù đó dễ như là cái chết”.
Trong đa dạng thế giới thơ
Trần Tuấn, sự chết được xuất hiện với tần suất cao, sống động nhất. Những linh
hồn, dòng ký ức còn sót lại đã quay về tra vấn, muốn chế ngự cái thế gian mà chúng
đã từng khuynh đảo. Chính nơi ấy, chúng đã nếm trải mọi đắng cay, được hưởng
lợi lộc quyền uy, từng lừa lọc, bị lừa lọc, từng lục vấn, bị lục vấn, từng truy
sát, bị truy sát…:
“mới hôm qua đang hôm nay đương lúc này
luôn bị nhốt
trong trạng thái thông thường là chết”. (đò máu).
Cái chết, hình ảnh hiện lên
trên chuyến đò máu ấy đã dựng lại một
phần bức chân dung lịch sử. Phải chăng lịch sử hay chính những chân dung âm bản
đời sống đang diễn ra trước mắt chúng ta?
“chỉ chúng ta những kẻ
mang hình hài cơn u mê giãy giụa
ngày mỗi ngày
xòe tay ra
chôn vào đó nấm mồ”.
Hình tướng cõi chết trong
thơ Trần Tuấn mang rất nhiều dáng vẻ. Chúng là những hoa vân tay từ bàn tay của
những xác chết, là
“những con chữ tan hàng lồng chạy
bứt khỏi bãi rác sách mù tối chất cao (chữ),
là
những đám đông mù lòa hò hét
bủa lưới vây lòng hồ thối ngạt
qua rừng đạn dùi cui
chết chết chết”. (rắn).
Nhà thơ Trần Tuấn đã chia sẻ với nhà thơ
Nguyễn Ngọc Hạnh: “Tôi làm thơ như viết truyện
ngắn, có đầu, có cuối. Tôi viết trong những lúc không tỉnh táo nhất. Tôi làm
thơ trong bóng tối, trong những lúc lơ mơ, vô thức... Tập thơ mới này, tôi viết
nhiều về cái chết. Chúng ta sống không thể thiếu cái chết được. Tôi chọn cách
đối diện với cái chết...”.
Cái chết trong “chậm hơn sự
dừng lại” được Trần Tuấn phục dựng bằng nhiều bút pháp độc đáo, lạ lùng.
Đôi khi cái chết hiện ra tuyệt vọng, thảm khốc, làm đảo lộn thế giới:
“ngộ độc tập thể địa cầu
từng con người rụng như chiếc lá không còn mặt
đất bên dưới
quê hương tôi rụng xuống như chiếc lá không còn
mặt đất
bên dưới
tôi ngã xuống như hạt phấn hoa già”. (cái chết).
Nhiều khi cái chết được nhà
thơ khắc họa bằng nét bút sắc lạnh với thái độ trầm tĩnh, ví dụ trong các bài
thơ “khoét vòng sọ não”, “thở”, “cái chết”… Khi cái chết được tác giả miêu tả lạnh lùng, tự nhiên
bao nhiêu, thì chúng càng trở nên kinh hãi, ám ảnh bấy nhiêu.
“một lỗ đen đang hút lấy toàn bộ hơi thở tôi
tôi đã chuyển sang thở bằng ý nghĩ”. (thở);
“Kê súng bắn xuyên qua thái dương
người thợ săn vừa kêu thảng
thốt
– dậy đi thôi
không phải mơ mà chúng ta đang
chết”. (bóng tối);
“cái chết thành con mồi của
cuộc săn giấc mơ
hay giấc mơ – con mồi của cuộc săn cái chết” (cái chết).
Trong “chậm hơn sự dừng lại”, cách tạo dựng không-thời-gian đa phương, đa
cực chính là đặc trưng thi pháp thơ Trần Tuấn. Tôi xin dẫn nguyên văn bài “ký ức”, một trong những bài thơ tiêu
biểu cho phong cách của nhà thơ để làm rõ thêm nhận định này.
ký ức
trong ký ức già nua
cánh đồng vẫn đang đi ngọn cỏ vẫn đang đi
nhưng chậm hơn sự dừng lại
có những giây nghìn lần thức giấc
có những đời không một lần mở mắt
nỗi hoan lạc đớn đau của sự trở về
không bằng đôi chân người mà tự đôi chân thời
gian quay tìm lại.
Bài thơ với tiết tấu chậm,
hình ảnh sáng rõ và ít có những chuyển động hỗn độn. Ở đây ký ức vào vai nhân vật chính, xuất hiện duy nhất một lần. Bài thơ
này giống như phần lớn các bài thơ khác của Trần Tuấn, thường có tính truyện,
giọng tự sự chậm rãi, khoan hòa. Sang câu thơ tiếp theo, câu thứ hai của bài
thơ, hai hình ảnh cánh đồng và ngọn cỏ đã đưa bạn đọc sang một không
gian, thời gian khác. Không gian này được lồng trong không gian của ký ức trước đó, nhưng cánh đồng và ngọn cỏ chuyển động với nhịp điệu khác, vận tốc khác. Sự chuyển
dịch này tựa một người nhẹ nhàng tự rút cánh tay mình khỏi ống tay áo và làm tay
áo rỗng không. Hành động ấy khiến ký ức
sâu hun hút khi nó đã già nua, ở đây,
người đọc có cảm giác ký ức ấy gần như dừng lại. Do có sự chuyển động lệch pha
giữa hai thế giới trong hai câu thơ liền kề, nên câu thơ thứ ba đã xuất hiện để
lý giải cho hiện tượng lạ lùng trên: “nhưng
chậm hơn sự dừng lại”. Câu thơ mang hồn cốt của cả bài thơ,
trở thành tiêu đề cho tập thơ này. Đoạn
thơ tiếp theo là những hình ảnh được tác giả liệt kê nằm trong mạch tự sự. Những giây, những đời, nỗi hoan lạc đớn
đau có thể ví như những đốm lửa được nhà thơ thắp lên trên ranh giới mờ
nhòe của hai không gian, hai thế giới đã được mở ra từ đầu bài thơ. Đặc biệt,
hình ảnh nỗi hoan lạc đớn đau đã làm
cho nhân vật thời gian tự quay về tìm
lại chốn cũ bằng chính đôi chân của nó. Bài thơ kết cấu với nhiều không gian
xa, rời rạc được giáp mối lại, nhưng mở cho ta nhiều liên tưởng mới lạ về cõi
nhân sinh. Cho ta cảm nhận về ý nghĩa đời sống trong những hiện tượng tưởng
chừng thoáng qua, cả sự mục ruỗng của những điều ngỡ như bất tử.
Cách tạo dựng hình ảnh từ đa
chiều không-thời-gian đã đánh dấu sự thành công của Trần Tuấn, nó trở thành đặc
trưng thi pháp thơ của ông qua tập thơ này. Để duy trì được lối viết ấy, tác
giả luôn giữ được phong độ ổn định với những ý tưởng mới mẻ và cảm xúc mạnh.
Cũng có đôi bài trong tập thơ, theo thiển ý của tôi, có thể mở rộng các chiều
không gian xa hơn. Xin ví dụ bài thơ “nhai
đêm”, ở đây bạn đọc vẫn chờ đợi, vẫn thèm được tác giả dẫn đi thêm một chặng
nữa.
Cụm từ chậm hơn sự dừng lại còn được tác giả sử dụng trong phần lớn những
bài cuối tập thơ. Mỗi lần nó xuất hiện như đánh dấu từng bước sóng trên dòng
trôi vào xứ tuyệt mù.
“gió vẫn thổi
nhưng chậm hơn sự dừng lại” (gió);
“bước chân chúng ta chậm hơn sự dừng lại” (mùa);
“nước –
chảy chậm hơn sự dừng lại
qua gương mặt chúng ta
gương mặt chúng ta đã dừng lại quá lâu” (nước);
“hay theo chiều ngược lại
trên thời gian
hành hương về rừng già
và chậm hơn sự dừng lại” (những ngón chân di động);
“cuộc săn
chậm hơn sự dừng lại” (chữ);
“cái chết
chậm hơn sự dừng lại” (cái chết).
Trong bài thơ thi thể như là một vật dụng, nhà thơ
xưng tôi chứng kiến cuộc viễn du về
xứ tuyệt mù của con thuyền mù u. Đây là thời khắc nhà thơ tỉnh dậy
trên con tàu hôn mê đã mất liên lạc với
sự chuyển động. Mọi dịch chuyển trong bài thơ này đều lệch pha, lệch thời
gian theo quy luật thông thường. Ở đây, nhà thơ nhìn thấy con tàu đang trôi kia
bằng
“hình ảnh của những thân cây mù u trầm mặc trên rừng
bằng chiếc
đinh sắt người thợ rèn chưa kịp rút ra khỏi lửa”.
Như
vậy ở một thế giới khác, nhìn từ hệ quy chiếu khác, những thân cây mù u, chiếc
đinh sắt dịch chuyển chậm, chiếc la bàn rỗng chưa được hoàn thiện, cánh buồm
mới chỉ là những sợi bông lơ đãng trên
đồng. Tất cả đều chuyển động chậm
hơn khát vọng của con người. Những hình ảnh này cho chúng ta rất nhiều liên
tưởng gợi mở. Phải chăng
để có được một đời sống, một thế giới hài hòa trong an lạc, hạnh phúc, con
người cần những chuyển động khác, với nhịp điệu và vận tốc khác?
Đọc “chậm hơn sự dừng lại” tôi nhận thấy Trần Tuấn không chuyên tâm sử
dụng các thủ pháp của trào lưu hiện đại. Tứ thơ của ông thường được thiết lập
bằng ngôn ngữ trần thuật dung dị và không quá sa đà vào cách nói của siêu thực, tượng
trưng. Dung lượng hình ảnh cũng được ông tiết chế tối đa, chỉ đủ để “mở khóa”
vào không gian thơ vốn huyền hoặc của ông.
“thị trấn
như thiếu phụ
đang mỏng dần
nhẹ dần
trôi theo chiếc khăn choàng” (gió).
Tôi ấn tượng và thích thú
với cách tự sự này, bởi nó được biểu đạt tối giản mà vẫn diễn tả được những
trạng thái mơ hồ, đan xen nhiều ý tưởng mới lạ. Thủ pháp giễu nhại, liên văn bản
của hậu hiện đại cũng được nhà thơ sử dụng hợp lý, sáng tạo trong tập thơ.
Trong loạt bài mang tiêu đề “rằng thì là
mà, là..., hay những bản tin rời”, cụ thể như “một con đường nở mãi chiều ngang”, “nhà của chủ nhiệm Thì Là đã ở giữa đường”, “chuyện Rằng”, “đạp lên mắt
ngã vỡ mặt”, thì tính phiêu du, mộng mị đã được nhà thơ tiết chế, thay vào
đó là những hình ảnh của đời sống được phô bầy ngổn ngang, lộn xộn, bất chấp
mọi quy ước. Ở đây, tác giả sử dụng cách nói phóng dụ, tưng tửng để khắc họa
một góc của đời sống đương thời, nhếch nhác và kệch cỡm.
“nguồn tin riêng cho biết, cách đây khoảng chục năm ông này
đã tìm cách bẩy bằng được một gia đình chính sách nằm trước mặt mình đi chỗ
khác chơi”. (nhà của chủ
nhiệm Thì Là đã ở giữa đường);
“loại vai rớt này rất lạ
như có thể Rứt Thịt Làm Mắt, khiến Râu Thành
Lông Mu, Rốn Thọt Lên Mồm, Rối Tinh Long Mạch”. (vai rớt lạ RTLM).
Đôi khi nhà thơ mượn cách
nói phản đề của dân gian hiện đại để bóc mẽ cái xấu, cái giả dối được che đậy
bằng sự tử tế, bằng những mỹ từ:
“thế nên dân ở Rằng mới có kiểu nói với nhau
thằng ấy nói thế (có mà) tin bằng mắt
con ấy từ thiện (có mà) bằng mắt”. (đạp lên mắt ngã vỡ mặt).
Xin lưu ý, rằng, thì, là, mà là những từ đệm trong
tiếng Việt. Tác giả đã sử dụng chúng làm tên gọi người, gọi miền đất nhằm mục
đích giễu nhại, gây hài, hoặc cố ý đánh tráo những khái niệm nghiêm ngắn với sự
bông phèng, tầm phào trong đời sống giả dối, ô hợp. Ý tưởng liên thông trong
chùm bài “rằng thì là mà, là” được
tác giả xây dựng như một vở kịch, mà những từ đệm chính là các vai diễn. Điều
lạ lùng đến phì cười là,
“nhưng rốt cuộc chẳng ai biết
có một cái lưỡi đang đi mãi dưới lòng đất từ
Rằng đến Thì Là đến Mà
đôi khi
luồn cộm cứng trong quần” (vai rớt lạ RTLM).
Vở kịch của những từ đệm mà
chúng ta được xem đã tới cao trào. Đó là một màn diễn với phông cảnh hỗn độn,
bát nháo với những diễn viên bôi mặt trắng đen nhòe nhoẹt chạy qua sân
khấu:
“nhà cửa ở Rằng cái này ủ lên cái kia
trường ủ
lên chợ, chợ ủ lên chùa
người
ủ lên nhau như cây cải
héo muối” (chuyện
Rằng).
Chỉ riêng tiêu đề tập thơ đã
thể hiện nội lực sáng tạo mạnh mẽ cùng quan điểm thẩm mỹ của nhà thơ. “chậm hơn sự dừng lại”, phải chăng là
khoảnh khắc bất kỳ trên hành trình tuyệt
mù mà nhà thơ đo được bằng chiếc đồng hồ “đặc dụng”. Hoặc có thể, đó lại là
một kết cục, khi những chuyển động trong thế giới thơ Trần Tuấn dừng lại đột
ngột, như một thành phố bất ngờ bị đóng băng đông cứng. Sự đóng băng khi ấy
dành cho cả những khát vọng, ẩn ức, ước mơ…, mà nó từng điều khiển những hình
tướng, mọi chuyển dịch. Xứ tuyệt mù
mà nhà thơ hướng tới, theo tôi, có thể là ánh sáng mơ hồ mà nhà thơ mong đợi
cuối đường hầm, là thất vọng sau những hy vọng, rồi lại thất vọng. Là sự phân
rã, hội tụ, và được sắp xếp lại trong một trật tự khác.
Những chuyển động trùng
phức, hỗn tạp ấy đã vẽ ra đường biên thơ Trần Tuấn, trong đó, dấu chân thời
gian của nhà thơ luôn có mặt khắp mọi nẻo, mọi ngóc ngách trong không gian thơ
của ông. Những hình ảnh đặc trưng trong đó luôn mang dấu ấn, được dịch chuyển
bằng đôi chân thời gian theo hệ quy chiếu của riêng ông. Đó là hệ quy chiếu
không-thời-gian của
“con đường
đang rút dần
khỏi những bàn chân của đoàn hành hương
cho đến khi họ
không còn mặt đất”.
18/10/2017
Nguồn: Báo Đà Nẵng cuối tuần,
16/09/2017
https://baodanang.vn/channel/6062/201709/tho-2570859
