Dòng thác ánh sáng trong thơ Ko Hyung-Ryul (phê bình) - Mai Văn Phấn - Nguyễn Thị Thu Vân dịch sang tiếng Hàn / 고형렬의 시집 “태양의 폭포”에 대한 묵상 - 나가는 말 - 마이반펀 시인 - 응웬티투번 옮김
Dòng thác ánh sáng trong thơ Ko Hyung-Ryul
(Lời bạt tập thơ song ngữ Việt - Hàn “Thác mặt trời” của Ko Hyung-Ryul)

Mai Văn Phấn
Nguyễn Thị Thu Vân dịch sang tiếng Hàn
Thơ Ko Hyung-Ryul tràn ngập ánh sáng, vẻ
đẹp của nhân ái, lòng vị tha cao thượng. Vẻ đẹp ấy được hiển thị trong sự thanh sạch của nước, của khí
trời, thẳm sâu lòng đất, lòng biển, của bản tính tự nhiên, hồn nhiên của cỏ
cây, muông thú, côn trùng… Chúng rạng lên, soi tỏ nhau, tan hòa vào nhau tựa
những giọt nước, hạt nắng kết thành dòng thác ánh sáng, chuyển dịch mạnh mẽ,
liên tục. Chúng tạo thành hấp lực mạnh như ánh cực quang, những trận mưa sao băng như thác đổ từ những hình ảnh liên tiếp tương tác,
đan gối lên nhau trong tập thơ "Thác mặt trời" của ông.
“Ẩn sâu trong cây
Sự chấn động và dòng chảy một cấu trúc khác” (Lắng
nghe hoa than khóc).
"Thác mặt trời" cho tôi hình dung tác giả là một người đàn ông
lịch duyệt và kín đáo. Vẻ mặt ông luôn thanh thản với đôi mắt ưu tư, nhìn chậm,
giấu sau gọng kính. Thơ ông ưa đọc chậm, thật chậm. Nếu thoạt dừng ở một vài
hình ảnh trong đó, người đọc dễ tưởng chúng đang trong trạng thái tĩnh lặng,
hay ngưng đọng. Nhưng khi đọc cả bài thơ, tập thơ, ta thấy ngỡ ngàng như lạc
bước vào một không gian sống động, quen mà lạ. Quen, với tôi, vì gặp một không
gian văn hóa phương Đông, thân thuộc từ kiến trúc ngoại thất đến trang trí nội
thất. Lạ, có thể cả xa lạ, bởi tôi đã gặp trong đó những liên kết hình ảnh mới
mẻ, khác biệt và cả những sắc màu chưa từng nhìn thấy. Sắc màu màu ấy chính là
linh hồn của ánh sáng. Ánh sáng trong tập thơ này được tỏa rạng từ trái tim thi
sĩ Ko Hyung-Ryul.
Thủ pháp nổi bật
trong "Thác mặt trời" cần
nhắc tới trước tiên, là tác giả liên tục tạo ra những chuyển động bất ngờ. Sự bất ngờ
ấy thường được đặt trong những kết nối xa, hoặc những tình huống rất khó đoán
định. Chính sự bất ngờ ấy đã làm tăng tốc mọi chuyển dịch trong thơ ông và làm
biến đổi mọi sắc màu trong đó.
“Sân ga và con chim tu hú” là một bài thơ tiêu biểu cho
lối viết này. Những hình ảnh trong bài
thơ, như cổ họng, con ễnh
ương, lễ động thổ, chiếc máy xúc, chiếc xe tải, miệng hố, dàn dây thép, xi
măng, chiếc cầu thang, lồng ngực, nhà chung cư, ruộng đồng… đều là những
hình ảnh đứng xa nhau, đơn lẻ trong đời sống sinh hoạt. Nhưng ở đây, chúng đã kết
nối với nhau bằng ánh sáng đặc biệt. Và, những thi ảnh bất ngờ xuất hiện trong
một mạch thơ khó đoán định gây cho người đọc cảm giác ngỡ ngàng, hồi hộp như
nhìn theo đường bay của một cánh chim, một mũi tên. Tiếng kêu khóc của con chim
tu hú vọng lên từ khổ thơ đầu, và sau đó, tác giả cho nó biến mất khi kết thúc
bài thơ, thực sự đã mang đến nỗi ám ảnh về một thiên nhiên tươi đẹp hoang dã
ngày càng bị quá trình đô thị hóa xâm thực.
Để những chuyển
dịch trong bài thơ gây được bất ngờ và đột biến, Ko Hyung-Ryul đã kiến tạo
những khoảnh khắc đặc biệt trong từng bài thơ, tựa như người chế tạo ra những ổ
khóa riêng để ta có thể tự do bước vào không gian huyền hoặc, kỳ lạ của ông.
Những ổ khóa ấy chính là nước trong chiếc can ở độ cao 25cm (“Nước
trên bàn”), âm thanh của tiếng nhổ cỏ giữa ánh mặt trời (“Mặt
trời lặn trên cánh đồng lạc Ko Hyung-Ryul”). Có lúc, ta như
vô tình nhặt được những vì sao nương náu trong đám cỏ, và thật kỳ lạ
“Có chú châu
chấu đang duỗi thẳng chân, vắt lên ngôi sao và chết.” (Anh ấy, người đặt chân đến vương quốc của cỏ).
Đọc "Thác mặt trời", ta ngỡ những chuyển
động trong đó được Ko Hyung-Ryul cho chạy qua một chiếc phin lọc khổng lồ. Nó
cho bạn đọc cảm nhận về một dòng thác ánh sáng lung linh và trong suốt:
“Giống
như đứa con gái bước đến cạnh trăng và chợp mắt ngủ giấc buổi sớm.” (Hòn đảo nhỏ Marsli N.O thương nhớ).
Dòng thác của thơ
Ko Hyung-Ryul thường chảy xiết, tác tạo những vương quốc cho mỗi sự vật, cho
từng không gian riêng của ông. Và cũng thật lạ kỳ, có lúc vương quốc ấy như chỉ
mình ông được bước vào và chiêm ngưỡng.
“Dập dềnh
Ta đã đến vương
quốc của nước, gió, ánh nắng, ánh sao, và của cỏ” (Anh ấy, người đặt chân đến vương quốc của cỏ).
Thơ Ko Hyung-Ryul
đôi khi hiển thị những vết cắt sắc ngọt để người đọc nhìn thấy cốt lõi sự vật.
Tuy những khoảnh khắc ấy không nhiều, thậm chí hiếm hoi, nhưng đó chính là sự
tiết chế, tối giản, làm nên thi pháp độc đáo của ông. Thủ pháp này góp phần
khơi thông dòng chảy ánh sáng, đồng thời cũng hé lộ phần nào những bí mật tạo nên
sự cuốn hút trong tập thơ.
“Tôi nằm tựa lưng vào trục
quay cực
điểm
Ném con dao về phía bầu trời” (Indonesia buổi xế chiều).
Bóng đêm như
“miệng một ngọn núi lửa phun trào của
một hành tinh nào đó” (Sự kì quặc của một ngọn núi nào đó không thể
quên được).
Hay
“Khoảng giữa trưa khi màu xanh và
màu đỏ thẫm quằn quại đan xen” (Khung
cửa mưa tuôn).
Đôi khi nhà thơ cảm nhận như có ai đang hiện hữu trong chiếc ấm điện đang sôi
(“Hôm nay, ai đó trong chiếc ấm
điện đun nước”). Đây thực sự là hình ảnh độc đáo, có sức thôi miên rất
mạnh.
Thủ pháp thiết lập
không gian trong thơ Ko Hyung-Ryul là sự kết hợp chặt chẽ và hài hòa giữa các
thi pháp hiện đại với tinh hoa truyền thống trong thơ Hàn Quốc. Ta dễ nhận ra
cách thiết lập không gian đa chiều, xoay đảo các chiều thời gian trong một mạch
thơ, bài thơ của ông. Cách xoay đảo giữa quá khứ, hiện tại và vị lai đã mở rộng
thêm đường biên của tưởng tượng với đa tầng cảm xúc.
“Đóa hoa nở trong chiếc lỗ kim khâu
đã không hề cất tiếng” (Không thể quay trở lại từ bến tàu
ngày hôm qua).
Hoặc trong bài “Thơ
của con sâu bướm lộn xộn”
cho thấy sự liên tưởng táo bạo và phong phú của nhà thơ đã mở cho ta một không
gian lập thể với đa chiều đều tràn ngập ánh sáng:
“Chỉ có tế bào của tôi
Đã trở thành chất lỏng trong con sâu
bướm rồi đang vụt bay lên
Ai đó đã lấy trộm bóng tối trong tim
và mang đi mất”.
“Có một vầng trăng liêu xiêu trồi
lên trên mặt đất hàng ngày” (Mũi lao
ngày ngày lao tới).
Thủ pháp liên thông và xoay đảo các
chiều không-thời-gian được nhà thơ sử dụng triệt để trong bài thơ “Thứ mãi chẳng thể đến”:
“Từ khi cổ họng bị khô khốc vì
cơn khát nước
Những bậc thang và công tơ điện đã
đứng dậy
Và có một chiếc thang máy đang đi
lên trên đỉnh núi”.
Cấu trúc thơ Ko Hyung-Ryul gợi cho ta liên tưởng đến
lối kiến trúc nhà ở hiện đại kết hợp truyền thống, gọi là kiến trúc "Hàn ốc" (Hanok) của Hàn Quốc. Theo kiến trúc "Hàn ốc", ngôi nhà là
nơi giao hòa giữa thiên nhiên và con người. Tính hài hòa và phù hợp với cảnh
quan môi trường của những ngôi nhà Hàn Quốc cũng gần với kiến trúc của Việt
Nam, dĩ nhiên đặc điểm khí hậu và địa lý của chúng ta có nhiều nét khác biệt.
Từ những liên tưởng đó, tôi thấy thơ Ko Hyung-Ryul khá gần gũi với thơ thế hệ
các nhà thơ Việt nam sinh cùng thời với ông. Tôi đồng ý với nhận định của dịch
giả Nguyễn Thị Thu Vân: “Thơ Ko
Hyung-Ryul trình hiện đầy ngẫu hứng đa tầng những cung bậc cảm xúc khi nhà thơ
lang thang đến những miền đất, đầy mộng tưởng của xứ Đẹp. Đó có thể là nơi từng
hiện hữu trong đời sống sinh tồn hay cả trong mê mị ẩn sâu trong tâm tưởng thi
sĩ. Thơ ông đậm tính triết học, phồn sinh giá trị nhân văn trong cuộc mưu sinh
tồn tại của cõi người và những mối tương giao vạn hữu”.
"Thác mặt trời" của Ko Hyung-Ryul
làm tái hiện sinh động trước mắt tôi một địa chỉ văn hóa, nơi nhà thơ Nguyễn
Quang Thiều và tôi đã từng đến đó dự Liên hoan Thi ca và Văn học Hàn Quốc- ASEAN (“Korea-ASEAN Poets Literature Festival") vào cuối năm 2010. Giờ
đây "Thác mặt trời" đang
đưa tôi trở lại dãy núi Seoraksan, nơi có đỉnh Daecheong-bong cao ngất với đa
dạng cảnh quan kỳ thú. Dãy núi này gối đầu lên thành phố Sokcho – quê hương
tuyệt đẹp đầy mê hoặc của nhà thơ Ko Hyung-Ryul. Những bài thơ của ông cho tôi
gặp lại dòng suối trong vắt chảy qua những hòn đá cuội trắng, một khu vườn yên
tĩnh, một cây cao không biết tên đã trụi lá, những chùm quả màu đỏ còn treo
trên đó trong suốt mùa đông.
Nhà thơ Ko
Hyung-Ryul đã từng đến Việt Nam và thơ ca đã biến ông thành một công dân thân thiện
của Hà Nội. Nơi đây ông như gặp lại một Hàn Quốc của ông trong xa xăm quá vãng,
đang sống động trở lại, bận bã và gần gũi, lấm láp và mến yêu vây bọc lấy ông:
“Giờ tôi đang bước đi qua con đường tối
Đến một ngôi nhà nhỏ của ánh sao, và khi tôi quay lại, tôi chính là một con
người trong vũ trụ, một con người Hà Nội” (Những chiếc xe máy phủ sắc vàng cam).
Tôi cảm động biết
ơn ông đã dành tặng tôi bài thơ đáng yêu này!
“Trong nước
không có xương, không não và không nội tạng
Nhìn rõ tận tường,
sao lại sóng sánh được thế kia
Có phải chăng là
ngọn lửa trong lòng địa cầu đang truyền đến” (Nước trên bàn).
Ko Hyung-Ryul nhắc
nhiều đến nước. Nước tồn tại ở hai dạng, tĩnh và động. Nhà thơ đã khắc họa rõ
thần thái của nước, cũng là gam màu chủ đạo làm nên sắc thái ánh sáng trong tập
thơ "Thác mặt trời".
Tôi xin dành lời
kết bài viết nhỏ này để cảm ơn nhà thơ Ko Hyung-Ryul đã trao gửi tập thơ "Thác mặt trời" cho Nhà xuất bản Hội
Nhà văn, thông qua Giáo sư Tiến sĩ Bae Yang Soo, người bạn thân thiết của nhiều
nhà văn, nhà thơ Việt Nam. Xin cảm ơn dịch giả Nguyễn Thị Thu Vân, người đã
dành thời gian và tâm huyết cho bản dịch. Với tôi, đây là bản dịch hay, chính
xác và cuốn hút. Thơ Ko Hyung-Ryul có kết cấu đa tầng, hiện đại và hài
hòa, gần với kiến trúc "Hàn Ốc". Ông đã tạo nên giọng thơ độc
đáo, có sức lôi cuốn mạnh. Tôi tin độc
giả Việt Nam sẽ hào hứng đón nhận tập thơ này.
11/12/2018
(Rút từ tập thơ song ngữ Việt - Hàn “Thác mặt trời” - 태양의 폭포, NXB Hội Nhà văn, 2019)

Từ phải sang: Nhà thơ Ko Hyung-Ryul, Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, MVP, Seoul 2010
나가는 말
고형렬의 시집 “태양의 폭포”에 대한 묵상
마이반펀 시인
응웬티투번 옮김
고형렬의 시에서 눈부신 태양의 빛과 고결한 이타심의 아름다움이 가득 찬다. 이 아름다움은 물의 순수한 형상, 맑은 공기, 그리고 풀과 나무, 동물, 곤충의 순수한 본성에서 찾을 수 있다. 그리고 이 형상들은 빛나고 또 서로 비추며, 물방울과 햇빛들처럼 용해되어 한 태양의 폭포를 만들어 내고 강렬하고 연속적으로 움직인다. 그 이후 거대한 압력이 되어 생생하고 투명한 시가(詩歌)의 세계가 열린다. 응웬티투번 박사(번역작가)의 “태양의 폭포” (문인회출판사 2019) 번역본을 통해서 고형렬의 시를 낭송하면 그 폭포는 힘차게 쏟아지고, 만물을 정화시키며 회생시키는 힘을 느낄 수 있다.
“