Thơ Lê Vĩnh Tài, bản sắc và bản lĩnh
(Đọc tập thơ “đêm & những khúc rời của Vũ” của Lê Vĩnh Tài, Nxb Hội Nhà văn, 2008)

Nhà thơ Lê Vĩnh Tài
Mai Văn Phấn
từ tôi đến miệng tôi
xa quá không sao kêu cứu được…
Lê Vĩnh Tài
Đọc
thơ Lê Vĩnh Tài thời điểm này, vẫn thấy “ngổn ngang” như một công trường với
những tòa nhà cao tầng hoàn thiện và
nhiều hạng mục khác còn dang dở. Như một số tác giả cách tân cùng thế hệ, nhà
thơ Lê Vĩnh Tài khởi trình từ thi pháp truyền thống, một cách gọi khác là “lãng
mạn hậu kỳ”, tiến tới kết hợp những tinh hoa thơ Việt với một số thủ pháp nghệ
thuật phương Tây để thiết lập giọng nói riêng giàu bản sắc sáng tạo.
Lê Vĩnh Tài sáng tác liên tục và đều
tay, nhưng phần lớn tác phẩm chỉ công bố trên mạng Internet hoặc gửi cho bạn
bè. Qua thư gửi tôi ông tâm sự: “Bản thảo
giờ nhiều in chắc không lo nổi chi phí”. Tôi đồ rằng, đấy chỉ là cách nói
khiêm nhường của nhà thơ. Có thể vì nhiều lý do mà Lê Vĩnh Tài không muốn lấy
giấy phép xuất bản, như sự bộc trực, dữ dội trong một số tác phẩm của ông, hoặc
nhà thơ “dị ứng” với sự cắt xén của biên tập...
Trên xa lộ thông
tin toàn cầu hiện nay, tôi cảm giác thơ Lê Vĩnh Tài tựa một cỗ xe chở đầy ắp
hàng hóa đi nhiều nơi, đến được nhiều địa chỉ. Chỉ tính riêng về trường ca,
ngoài “Vỡ ra mưa ấm” (viết năm 2003),
nhà thơ đã công bố thêm năm trường ca nữa trên các website: “Bài trường ca người Mông” (2012), “Bài trường ca Bauxite” (2013), “Bài trường ca cho người đã chết nhưng vẫn
còn sống trong sự thật” (2014), “Bài
trường ca cánh đồng bất nhân” (2014), “Bài
trường ca Tây Tạng” (2015). Còn nhiều bài thơ khác được ông công bố trên
các website, mạng xã hội và báo in. Theo khảo sát của tôi, tính theo đơn vị
chữ, Lê Vĩnh Tài hiện là một trong số các nhà thơ thời kỳ Đổi mới có nhiều tác
phẩm công bố.
Quan sát tác phẩm
của Lê Vĩnh Tài theo thời gian, tôi nhận thấy năm 2008 là dấu mốc quan trọng
trong hành trình sáng tạo của ông. Từ thời điểm này, thơ Lê Vĩnh Tài đã định
hình phong cách, khẳng định được giọng thơ có bản sắc. Nhiều ý kiến cho rằng,
thơ Lê Vĩnh Tài gần đây ảnh hưởng trào lưu hậu hiện đại. Thực tế không chỉ thế,
Lê Vĩnh Tài đã tiếp thu có chọn lọc những giá trị tích cực một số trào lưu,
khuynh hướng thơ ca phương Tây. Ông vận dụng cách thiết lập không gian đa chiều
của Siêu thực và Tượng trưng. Đồng thời, kết hợp có chọn lọc một số thủ pháp
của hậu hiện đại, như phân mảnh, liên văn bản, dung hợp, diễu nhại… Điều quan
trọng là, Lê Vĩnh Tài đã sống và sáng tạo bằng tâm thế và tâm thuật của một
nghệ sĩ, một công dân trước những biến động tiêu cực khôn lường của cuộc sống
đương thời. Ông phơi bày đến tận cùng cái lõi của sự xấu xa, giả trá, ác độc
trước ánh sáng của lương tâm, của công luận. Dù ông biết rằng, sự phơi bày ấy
có thể sinh ra nhiều hệ lụy, hiểm nguy cho chính mình trước khi căn bệnh trầm
kha được chữa lành.
Để có thể nhận diện
chính xác về một hiện tượng thơ khá đa dạng và phong phú như Lê Vĩnh Tài, tôi
chọn tập thơ “đêm & những khúc rời
của Vũ”, một trong những tập thơ đặc sắc nhất mà ông đã viết, để tập trung
phân tích và lý giải bản sắc thơ, đồng thời, qua đó nhận chân bản lĩnh cầm bút
của một tác giả trong hoàn cảnh xã hội có nhiều biến động như hiện nay.
Thật
ra, những tìm tòi, cách tân của thơ Lê Vĩnh Tài đã manh nha từ trường ca đầu
tiên “Vỡ ra mưa ấm”, hoàn thành năm
2003. Trong trường ca này đã bắt đầu xuất hiện những câu thơ có cách kết nối đa
tuyến tính trong nguồn mạch cảm xúc
truyền thống:
“như đôi môi em
ta ca hát reo cười trong đó”.
Kể từ đó, nhà thơ Lê Vĩnh
Tài tiếp tục dấn bước trên hành trình cách tân, đổi mới thi pháp, thể hiện rõ
trong những tập thơ tiếp theo. Trong “Bài
thơ tả đám mây” (thi tập "Liên tưởng”), một bài thơ tiêu biểu cho
tinh thần kiếm tìm hệ hình thẩm mỹ mới, chúng ta dễ dàng nhận thấy, cách liên
kết không gian và thời gian, đặc biệt ngôn ngữ thơ của Lê Vĩnh Tài đã đi xa khỏi
thơ truyền thống, khác biệt với chính ông so với những tập thơ xuất bản trước
đó. Không gian trong bài thơ này tựa khoảng trời để ngỏ cho con chim được tự do
mở đường bay về bất kỳ hướng nào:
“những
đám mây màu thiếu nữ nhợt nhạt
nhàn tản rong chơi
nàng vừa nói vừa
cười nhè nhẹ
bộ xương của nàng
là gió
và ngạc nhiên thấy
ta ghi lại lời nàng
làm bài thơ của kẻ
mộng du
sau khi nàng bước
sâu xuống đất
nơi nàng nằm xuống
hơi ấm đã đọng
thành nước mắt
nó lo nàng ngạt thở
nhưng nó không mất
hy vọng
về bầu trời
và ngôi sao và mây
trắng và mơ hồ
và hát
mây xanh...” (Bài thơ tả đám mây)
Đến
tập thơ “đêm & những khúc rời của Vũ”,
những dòng chảy mới trong thơ Lê Vĩnh Tài thực sự được khai mở mạnh mẽ. Người
đọc có thể nhận biết quá trình khai mở ấy trong kết nối điểm nhìn, cách tạo từ
trường cảm xúc, thiết lập giọng nói tự nhiên, hồn nhiên mang tinh thần khoáng đạt
của nhà thơ. Theo tôi, đây là tập thơ đánh dấu độ chín, là đỉnh cao trong quá
trình sáng tạo của nhà thơ Lê Vĩnh Tài.
á
Đặc
điểm nổi bật trong thơ Lê Vĩnh Tài là giọng thơ độc thoại-trữ tình. Giọng thơ này
hầu như xuyên suốt các tác phẩm, từ những bài thơ đến các trường ca của ông, và
ngày càng rõ ràng, mở rộng những âm vực và âm sắc. Đặc điểm này tương đồng với
một số tác giả cách tân cùng thế hệ. Họ thường mở đầu bài thơ bằng giọng tự sự,
giãi bầy về những điều mình chú tâm tìm kiếm hoặc ngẫu nhiên được chứng kiến.
Xin dẫn chiếu thơ
của một số tác giả khác có cách viết tương tự. Đây là cách mở đầu bài thơ của
nhà thơ Đỗ Doãn Phương, câu thơ đầu tiên vang lên như tiếng chuông mở cánh màn
nhung đêm diễn:
“Từ đỉnh núi khô
cằn
Tôi lao xuống khe trũng
Cuốn cây lá đá theo
Dòng bất an sôi sục” (Lòng hồ 1)
Nhà thơ Lê Ngân
Hằng lại có cách mở đầu bài thơ bằng giọng rất tự nhiên. Trong bài thơ “Khúc nhạc đêm trăng” ta thấy, nhà thơ và
người đối thoại vừa bắt đầu trò chuyện, song âm hưởng những giọng nói vang lên
trong bài thơ cho ta cảm nhận họ đã thân thiết từ lâu. Điểm khởi đầu câu chuyện
cũng chính là thời khắc hiện thực trong bài thơ hiện lên và chạm vào trái tim
nhà thơ, tựa như chiếc công-tắc vừa được bật cho bóng đèn vụt sáng:
“Không nghe thấy vì
đôi tai tầm thường
Chân dẫm lên vũng đêm đẫm gió
Hương trong vườn đâu đâu chẳng rõ
Có thể vườn nhà có thể vườn hoang
Có thể vườn trời từ sâu sâu thẳm
Có thể trăm năm...” (Khúc nhạc đêm trăng)
Song ở Lê Vĩnh Tài,
cách khai mở bài thơ lại có điểm dị biệt với các bạn viết. Cũng tạo được giọng
điệu hồn nhiên tưng tửng, nhưng thơ của Lê Vĩnh Tài cho tôi cảm nhận, hiện thực
đời sống hiển lộ trên văn bản mới chỉ một phần nhỏ của những mặt khuất lấp mà
tác giả từng chứng kiến, nếm trải. Khổ đầu bài thơ “đêm & những khúc rời của Vũ”
gợi cho ta hình dung một con đường đèo, chỉ thoáng hiện một khúc quanh trong
sương mù. Nó chính là ánh xạ của đời sống sinh động và phồn tạp đang diễn ra:
“không cần phải bay
chúng ta không muốn làm chim trời mà
cần giải thoát
cần bỏ trốn
cái chết không sao đuổi kịp” (đêm & những khúc rời của Vũ)
Nội dung câu chuyện
có khi được Lê Vĩnh Tài “phong kín”, rồi mở dần ra cho bạn đọc thấy một mê cung trong
đó. Điều đặc biệt tôi muốn nhấn mạnh là, cái mê cung ấy không hề xa lạ, mà
ngược lại, gần gũi, thân quen qua cách xử lý ngôn ngữ của nhà thơ.
“cuộn len rối tung
một mê cung
trong giấc ngủ tôi thấy cuộn len lăn
như cỏ
sự bện chéo vào nhau của sợi dọc sợi
ngang
như sợi rơm chú chim sâu đan chiếc tổ
sau đó đẻ những quả trứng.” (bài
thơ về cuộn len)
“sau một tin
nhắn vay thi thoi
ướt đẫm câu nói mớ
đêm không ngựa không yên cương mà phi
nước chảy
đuổi theo nhau ngày tháng có nhau
đuổi theo nhau không còn nhau nữa” (bài thơ người tuổi ngựa)
Giọng điệu độc
thoại-trữ tình trong thơ Lê Vĩnh Tài uyển chuyển, kết hợp với cách nói tự
nhiên, như buông lơi, như thả trôi… Nhưng thực chất, chúng đã được ông chắt lọc
kỹ lưỡng, mang đến cho bạn đọc cảm giác như chứng kiến cơn gió lớn ùa về, hay
thủy triều đang lên nhanh, tuy những con sóng hiện lên không lớn, song cứ liên
tục dập dềnh, có lúc lại như lặng lẽ chảy trôi… Và thơ Lê Vĩnh Tài tựa những
thước phim cho ta thấy hình ảnh con sông kia đang chở nặng phù sa bồi đắp cho
bãi bờ, làm màu mỡ những cánh đồng mà nó chảy qua:
“hát lên tim vỡ
một tiếng chim bạn nghe thấy gì không
bạn không lo âu gì nữa
bàn tay xoè ra ánh sáng (bài thơ hót lên như tiếng chim);
quê hương ôi Người vỡ ra mưa ấm
ta cùng Người đến bên bờ sông đầy cỏ
lấy vạt áo ta lau gượng nhẹ cho Người
ta lặng ngắm Người hạnh phúc
bài trường ca dâng lên Người”. (Bài trường ca cho quê hương của một trăm năm
trước).
Dòng nước ấy trong
thơ Lê Vĩnh Tài đã thấm sâu, tràn vào những góc tối, từng ngóc ngách của đời
sống này, và cuốn đi cả bụi bẩn, rác rưởi và uế tạp trong đó. Tôi tưởng tượng
một nghi lễ thanh tẩy đang diễn ra trong thơ ông:
“dường như chiều
nay
chúng ta quên mất cuộc đời nhiều cánh
cửa
cùng đóng lại ước mơ
lẽ ra phải kêu lên nỗi đau của rừng đã
cháy
chúng ta cứ hát ca ban mai lá ướt
những chân mây thật nhiều gió và buồn”.
(bài thơ về sự cả nể).
Từng bài thơ của Lê
Vĩnh Tài trải ra trước mắt người đọc hiện thực xã hội đương diễn ra hàng ngày
đầy sống động và nghiệt ngã. Thơ ông mang tính thời sự cao. Tứ thơ thường được
nhà thơ lấy cảm hứng từ những sự kiện cụ thể xảy ra tại Việt Nam và
những điểm nóng trên thế giới. Tôi có cảm giác, dường như những va đập trong
đời sống thực tế dội vào Lê Vĩnh Tài và tạo ra những khoảnh khắc ấn tượng trong
thơ ông:
“như xác xơ lơ thơ
ác mộng
như mầm chồi
hết mẫu giáo đi vào lớp một
hết đại học đi vào nước mắt
nhưng đứa trẻ còn lênh đênh trên phố
tờ vé số gay gắt sa mạc
trôi lang thang vỉa hè”. (nằm vạ…)
“mỗi sáng dậy thổi
mùi khói bếp
mẹ dựa lưng vào mùi bóng tối
mùi củi cháy mùi cơm sôi
những bông hoa ngập nước lâu ngày
mùi nặng trĩu
ngày xưa sức người mùi sỏi đá...
những hạt cơm mùi thủng đáy nồi”. (những ngày mưa mưa mãi không thôi...)
Đọc "đêm & những khúc rời của Vũ",
người đọc được chứng kiến tài nghệ của “bác sĩ” Lê Vĩnh Tài khi thực hiện
những cuộc “đại phẫu” đời sống xã hội, nhân thế. Mỗi người như gặp lại chính
mình, gặp lại những tình huống, trạng huống mà mình từng bươn trải, vượt qua…
Bằng những “vết mổ”, “đường chỉ khâu” quyết liệt, dứt khoát mà cũng đầy nhân bản, “bác sĩ” Lê Vĩnh Tài đã
cắt bỏ những khối u, phần hoại tử và cả những mảng cơ thể bị thương tật để cứu
lấy lương tâm, lương tri con người. Song, những đường rạch đại phẫu trong tập
thơ này mới là giai đoạn khởi đầu dấn thân của một công dân-thi sĩ. Thơ Lê Vĩnh Tài ở
giai đoạn sau và gần đây thể hiện thái độ phản kháng ngày càng dữ dội, bộc trực.
Điều đó thể hiện rõ bản sắc và bản lĩnh nghệ sĩ của ông. Nhà thơ quan niệm sáng tạo
chính là hành trình đi tìm tự do, công bằng, hạnh phúc cho con người và vì con
người. Tinh thần ấy được thể hiện rõ trong những bài thơ và năm trường ca ông viết
gần đây.
Hiện thực đời sống
thường hiện ra sắc lạnh, thô ráp và khá gai góc trong những tác phẩm của Lê
Vĩnh Tài. Không mượt mà, trau truốt như một số thế giới thơ khác, chính sự thô
ráp, cộc kệch ấy với tôi lại là ấn tượng mạnh mẽ nhất của thơ ông. Có những chi
tiết, sự kiện được nhà thơ phơi ra ánh sáng, hoặc truy lật đến tận nơi cư ngụ
cuối cùng của nó. Điều đặc biệt là, chi tiết, sự kiện ấy lại được biểu đạt bằng
ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh và sắc thái biểu cảm. Qua ngôn ngữ ấy, tôi
cảm nhận được trái tim nhân hậu, bao dung của nhà thơ:
“đêm làm ướt chiếc
yêng
của mẹ
hai cánh đã ướt của con chim Phí ngày
mưa
run lên khi về tổ ấp lên những quả
trứng
hơi lạnh làm ung các chú chim con
đang ngủ ngon trong nhà mồ tập thể”. (dịu dàng như một gợi nhớ của đêm).
“trước khi buổi
sáng vào bờ
những đợt sóng dừng lại một khoảnh
khắc
ngay cạnh bên tôi
như thể giấc mơ suốt đêm xoay loang
loáng
nan hoa nước mắt
mắt tôi khu rừng nguyên sinh
mắt bão mịt mù hơi nước”. (những căn nhà bây giờ nền cát trắng).
Trả lời câu hỏi của
nhà thơ Nguyễn Đức Tùng “sự
xúc động đến từ đâu?”, nhà thơ Lê Vĩnh Tài trả lời: “Có xúc động lung linh tơ trời làm ta ngân
lên tiếng kêu nao lòng. Có xúc động bầm dập làm ta kêu lên như bị cháy nhà… Khi
chúng ta cảm thấy sự xúc động, hay cái gì tương đương với sự xúc động, có lẽ
chúng ta đang ưu tư về thân phận con người chăng?... Con người ta được sinh ra
không phải do ý chí của mình quyết định và thế giới mà ta đang hiện hữu trong
đó đang ngày càng trở nên xa lạ và bất an hơn”.
Sự bất an của đời
sống, của thế giới hiện lên hầu khắp trong những bài thơ của ông. Trong bài thơ “xa quá không sao khóc được…”, tôi cảm nhận được nhà thơ đang run
lên trước những nỗi đau của cõi nhân sinh:
“ôi ngón tay,
dưới lớp da mỏng
máu của tôi đang chảy
tôi lấy sức mạnh ở đâu để kháng cự
tôi cứ buông xuôi”.
Những câu thơ như thể hiện một trạng thái
buông xuôi, như “lả đi”. Nhưng không, đó chính
là quá trình thu nạp năng lượng để nhà thơ bật dậy mạnh mẽ trong khổ cuối của
bài thơ này:
“này đêm không muốn
dứt
hãy để ngày ấy lụi tàn những cơn hấp hối cũ kỹ
ông già sắp sửa tan nát
xoay tròn trôn ốc khi mua vé ra khỏi
đường hầm
lờn răng mỏi gối
muốn nói tất cả
tại sao?
tại sao?
tại sao?
chúa ơi
con không máu lạnh
xin đừng im lặng
nữa”. (xa quá không sao khóc được…)
Đoạn thơ sau đây
khắc họa một hiện thực sống đang diễn ra qua những hình ảnh sắc nhọn, khô
khốc nhưng thấm đẫm nước mắt:
“thơ ngất xỉu khi
ngang qua cây cầu sập
còng lưng chảy máu mẹ nghèo
thơ ngất xỉu khi ngang qua hàng hàng
núi đá
[ở đâu có núi đá ở đó có công trường
ở đâu có công trường ở đó có tai nạn]
và trẻ con nước mắt trong veo”. (những câu thơ như gió rã rời).
Trong tập
thơ "đêm & những khúc rời
của Vũ", Lê Vĩnh Tài đã sử dụng hình ảnh con mắt rất linh hoạt,
biến ảo lạ lùng:
“buổi sáng, tôi
không biết có còn gương mặt. Mắt và môi đã thành xa lạ….
… Đã gươm đao trong mỗi mắt nhìn”. (buổi sáng).
Ở đây, nhà thơ biến
con mắt và nước mắt thành những nhân vật sống động trong cuộc chìm nổi mưu sinh
và chống chọi với mọi hiểm họa của đời sống xã hội để tồn tại:
“nước mắt xếp
hàng vào cửa tự do
không ai mua vé”. (ở Lebanon...);
“nước mắt tràn trên mặt
tôi quên mất mình còn gương mặt không
biết mình còn là người hay không”. (xa quá không
sao khóc được…);
“đôi mắt hú còi báo động
vô ích mênh mông”. (bài thơ về sự cả nể);
“những ánh mắt nhìn theo như thủy triều rút xuống”. (bài thơ hót lên như tiếng chim);
“một bên máu một bên nước mắt/ ngước nhìn bờ bên kia…
… hai mắt mẹ mây mù mưa bão”. (dịu dàng như một gợi nhớ của đêm);
“có gì đâu mà khóc
ngủ đi nước mắt
dài và xanh sương mù”. (ngủ đi, nước mắt)…
Hình ảnh con mắt
trong thơ Lê Vĩnh Tài khá phong phú, đa dạng. Nhà thơ thường biến con mắt trở
thành điểm nhấn trong giọng độc thoại-trữ tình của ông. Giọng thơ của Lê Vĩnh
Tài không giống như tiếng suối chảy, mà tựa những bước sóng cơ dao động lan
truyền trong môi trường, ta vẫn gọi là sóng hình Sin. Những bước sóng này có
biên độ dao động, chu kỳ, tần số và tốc độ tương đối đồng nhất và điều hòa. Đó
chính là nét đặc trưng của thơ Lê Vĩnh Tài. Trong một khổ thơ của ông thường
xuất hiện trọn vẹn các bước sóng cơ bản. Ví dụ, một bài thơ có năm khổ thơ, có
thể nhìn thấy trong đó năm bước sóng. Điều này rõ hơn trong năm trường ca viết
gần đây của nhà thơ. Cách tạo bước sóng này đem đến cho người đọc cảm giác chảy
trôi, tự nhiên, gần với vô thủy vô chung như bản chất của vũ trụ.
Lê Vĩnh Tài đã sử
dụng tài tình con mắt như một từ khóa,
và một số hình ảnh khác đặc trưng của ông (đêm,
giấc mơ, khuôn mặt…) để làm lệch đi những bước sóng và chuyển động đơn
trong thơ ông. Dĩ nhiên nó cũng làm “lệch” nhịp sinh học của người đọc, mở ra
nhiều liên tưởng lạ lùng khi tiếp cận văn bản.
á
Trong
đa số những bài thơ của Lê
Vĩnh Tài, đặc biệt trong tập thơ "đêm
& những khúc rời của Vũ", cách đặt tên bài có nhiều khác biệt so
với thế hệ thơ trước đó. Trước đó, tên bài thơ chính là thần thái, hồn cốt của
tác phẩm, hoặc thông qua nội dung để hiển thị mục đích mà tác giả hướng tới. Riêng
với cách đặt tên bài thơ của một số nhà thơ thế hệ Đổi mới sau 1986 ở Việt Nam,
trong đó có Lê Vĩnh Tài lại có những điểm khác và phong phú hơn.
Cụ thể như trong
tập thơ "đêm & những khúc rời
của Vũ", nhà thơ có thể chọn một ý thơ bất kỳ trong bài thơ để làm
tiêu đề. Ví dụ, tên bài thơ “đơn giản chỉ
là người ngồi bên”. Bài thơ kể về một giấc mơ vào một thời điểm nào đó
không xác định. Trong giấc mơ ấy, nhà thơ thấy người ngồi bên với
“ngôn ngữ nhạt
màu
chia cắt giấc mơ thành bậc thang”.
Rồi từ tiêu đề như
nhặt được, như cố ý ghép vào ấy đã mở ra những điều vô tình tương tự làm bạn
đọc ngạc nhiên đến sững sờ:
“đôi khi tiếng vang
cây đàn đột nhiên tắt
đôi khi muốn nghe một tiếng thì thầm
đôi khi hai vì sao sa xuống
mắt em đau đớn. Lặng câm
cây nến còn bốc khói...” (đơn giản chỉ là người ngồi bên).
Có lúc Lê Vĩnh Tài
đặt tên bài thơ bằng cách mượn lối ví von dung dị của những làn điệu dân ca,
đồng dao, ca dao, như: “bài thơ hót lên
như tiếng chim”, “chỉ còn giấc mơ là
mù sương và thường trực”, “những câu
thơ như gió rã rời”, “những ngày mưa
mưa mãi không thôi”, “Dịu dàng như
một gợi nhớ của đêm”… Cách ví von này không mới, nhưng trước đây thường
được các nhà thơ vận dụng trong phần nội dung thay vì dùng để đặt tên tác phẩm.
Nhà thơ Lê Vĩnh Tài
còn có cách đặt tên bài thơ khá lạ và thú vị. Đó là chộp bắt một hình ảnh
thoáng hiện, thậm chí thu nạp ánh xạ của nó để đưa lên làm tiêu đề. Như tên các
bài thơ sau: “thơ à...”, “qua cửa sổ, tôi nhìn thấy một con hẻm”,
“hay là gió làm em nước mắt…”, “Và buổi chiều có thể là thơ mộng”… Trong
bài thơ “xa quá không sao khóc được…”,
nhà thơ không nói về khoảng cách “xa quá” từ tôi đến mắt tôi… trên
gương mặt không còn nước mắt, hay lý do tại sao không thể bật khóc, mà
những hiện thực cay đắng và đau đớn đã được ông phô bầy trong từng đoạn thơ:
“sống sẽ còn gì
tôi nghe tiếng kêu trong quán nhậu
này tôi đột nhiên được giải thoát
vỉa hè đắng cay trên miệng
không cần ai mủi lòng
đừng cố nữa
những chai bia tiếp thị toát mồ hôi”.
á
Trong thơ Lê Vĩnh
Tài, ta bắt gặp khá nhiều thủ pháp nghệ thuật của các trào lưu hiện đại và hậu hiện đại. Trong bài
thơ “đêm & những khúc rời của Vũ”, Lê
Vĩnh Tài tạo những hình ảnh mang dấu ấn tượng trưng để thiết lập một không gian
đa chiều với nhiều hướng tiếp cận:
“ngày tụi mình ngồi
với nhau, Vũ ơi có người con gái
lặng lẽ leo lên leo mãi lên những ngón
tay
gảy những tổ khúc muộn phiền
vào chiếc ly của đêm toàn nước
đất nước ơi, lớn lên!”
Điều khá thú vị
trong tập thơ này là, tác giả đã chuyển một số bài thơ tự do sang văn bản thứ
hai ở thể lục bát. Như một số nhà thơ cách tân khác, Lê Vĩnh Tài cũng là một
trong những “cao thủ” của sân chơi 6-8 truyền thống này. Người đọc có thể
thưởng thức tài nghệ của ông trong những câu thơ sau đây:
“một hối tiếc một
long lanh
sớm ngày đã rối tung thành đêm đen
một người rách áo rồi em
một người lại giấu cuộn len đâu rồi...”
(bài thơ về cuộn len)
Đặc biệt trong tập
thơ “đêm & những khúc rời của Vũ”,
nhà thơ Lê Vĩnh Tài đã tạo ra một kiểu xếp chữ riêng trong câu thơ, đoạn thơ để
tạo cho bạn đọc ấn tượng lạ mắt khi tiếp cận văn bản. Ấn tượng này giúp bạn đọc
liên tưởng tới nghệ thuật thị giác (visual art) hay còn gọi nghệ thuật
trực quan, được vận dụng trong mỹ thuật, kiến trúc, nhiếp ảnh, điện ảnh, thiết
kế thời trang, thủ công mỹ nghệ... Ở đây, những ký tự được nhà thơ Lê Vĩnh Tài
sắp xếp không đơn thuần để tạo nghĩa, mà vị trí cũng như độ giãn khoảng cách
của mỗi từ, kể cả những dấu trong tiếng Việt đều được tham gia tạo hình. Sự sắp
xếp ấy mang lại cho ta những giá trị biểu cảm mới, mở thêm biên độ tưởng tượng
về một không gian thơ hấp dẫn và lôi cuốn.
“thế thì cho tôi
hỏi
anh có còn hy vọng nữa k->
h-> ô-> n-> g?”
(thế là chịu thua)
“tràn lan những lá cờ trắng
chỉ câu thơ tìm mọi cách
trồi lên
t r o ^ i l e ^ n…
t r o ^
i l e ^ n…
t r o ^
i l e ^ n…”
(thơ à...)
Xoá nhòa ranh giới
giữa ngôn ngữ thơ và khẩu ngữ đời thường cũng là một thủ pháp mà một số tác giả
cách tân thuộc thế hệ Đổi mới thường vận dụng. Với Lê Vĩnh Tài, ông sử dụng thủ
pháp này với kết hợp linh hoạt giọng điệu diễu nhại để tạo ra những tình huống
bi hài, khá thú vị:
“có người chết vì
hạnh phúc
vì yêu…
dù người ta chết vì bệnh không có tiền mua thuốc nhiều hơn”.
(xa quá không sao khóc được…)
Thủ pháp này của Lê
Vĩnh Tài rõ ràng làm gia tăng khả năng biểu đạt của ngôn ngữ thơ hiện đại. Điều
đó cho thấy, nhà thơ có thể sử dụng bất kỳ cách nói nào, kể cả cấm kỵ để đạt
tới mục đích cao cả của sáng tạo. Nhà thơ Lê Vĩnh Tài từng quan niệm: “Làm thơ là một việc tự nhiên và “tuôn chảy”
vô cùng, nhiều thứ cùng đến và cùng chồng mờ lên nhau cùng một lúc”.
á
Nhà thơ Lê Vĩnh Tài
đã xuất bản tám tập thơ: “Hoài niệm chiều
mưa” (Nxb Thanh niên 1991), "Hạt
thóc và Hoa dại" (in chung với Uông Ngọc Dậu, Hội Văn học -Nghệ
thuật Đắk Lắk, 1993), "Lục bát
Phượng yêu” (in chung với Phạm Doanh, Hội Văn học - Nghệ
thuật Đắk Lắk, 1994), “Và nỗi nhớ đã
bắt đầu với gió” (Nxb Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh, 2004), trường ca “Vỡ ra mưa ấm” (Nxb Văn nghệ Tp. Hồ Chí
Minh, 2005), “Liên tưởng” (Nxb Văn
nghệ Tp. Hồ Chí Minh, 2006), “đêm &
những khúc rời của Vũ” (Nxb Hội Nhà văn, 2008), “Thơ hỏi thơ” (Nxb Thanh niên, 2008). Ông sinh 1966, tại Tp. Ban Mê Thuột, tỉnh
Đắk Lắk. Vùng đất Tây Nguyên hùng vĩ với bề dày văn hóa trầm tích từ ngàn đời
đã tạo cho ông nguồn cảm hứng sáng tạo liên tục và mạnh mẽ. Từ trường
ca "Vỡ ra mưa ấm"
trước đó, bạn đọc được chứng kiến một Tây Nguyên vạm vỡ và kiêu hãnh hiện lên
trong thơ ông:
“Tây Nguyên mênh
mang tận cùng máu chảy
mẹ dạy ta nhìn thấy
một bông lúa rẫy
cũng khát như người
giấu ngọt bùi sau
lần trấu mỏng
Tây Nguyên mênh mang tận cùng sự
sống
chàng Đam San yêu con
gái Mặt Trời”.
Mặc dù
trong tập thơ "đêm & những
khúc rời của Vũ", nhà thơ ít nhắc tới từng địa danh cụ thể cùng những
hình ảnh đặc trưng vùng đất này, nhưng ta dễ dàng cảm nhận một bóng dáng và
tinh thần Tây Nguyên trong những câu thơ phóng khoáng, khỏe khoắn của
ông:
“như hợp nhất
trời và đất
đàn bà và đàn ông
uống và không khát
một hối tiếc
một nước mắt”. (bài thơ về cuộn len).
Bóng dáng và âm
thanh Tây Nguyên cũng thường được nhà thơ tái hiện khá đa dạng và phong phú
trong những tác phẩm sau này.
Lê Vĩnh Tài mang
trên vai sứ mệnh của kẻ sáng tạo. Ông từng tâm sự: “Tôi nghĩ bất cứ một người làm công việc sáng tạo nào cũng đều mang trên
mình sứ mệnh. Sứ mệnh của thơ là một tiếng kêu lạc giọng, đau đớn làm dấu hiệu
của nỗi đau đã gây ra nó. Sứ mệnh của nhà thơ là làm sao cho tiếng kêu ấy phải
là âm thanh ngôn ngữ của mình”.
Ông đã thể hiện tài năng và bản lĩnh một con người sáng tạo trên hành trình đổi
mới và cách tân thi pháp trong điều kiện không mấy thuận lợi. Tôi biết, ông
phải đối mặt với nhiều luồng dư luận trái chiều và không ít những ý kiến phản
bác, dị ứng trước những giá trị mới lạ của mình. Tuy nhiên, các tác phẩm của Lê
Vĩnh Tài đã góp phần hình thành những khuynh hướng sáng tác mới làm thay đổi
diện mạo thơ Việt Nam đương đại. Thơ ông đang độ chín trong quá trình tích luỹ,
trải nghiệm, thăng hoa cảm xúc... Ông đã và đang bền bỉ và tự tin hoạch
định cho riêng mình một hướng đi và bản lĩnh trong
sáng tạo để khẳng định một bản sắc thơ độc đáo, phong phú hơn. Nhân đây, tôi
muốn dẫn câu thơ “máu thắm đỏ giấc mơ thi sĩ” trong bài “xa quá không sao khóc được…” của Lê Vĩnh
Tài để khép lại bài viết này.
4/2016
