Ban mai và ngọn lửa

Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên
Phạm Xuân Nguyên
Thơ Mai Văn
Phấn nhiều những ban mai. Cái nguyên sơ trong trẻo của buổi đầu ngày, khi bóng
đêm qua ánh sáng tới, mang ý nghĩa khải thị, hồi sinh. Cảm hứng thơ Mai Văn
Phấn đi từ ban mai đến những sự nở sinh, phát triển, đến sự hòa đồng, hài hòa
của vũ trụ thiên nhiên con người. Nỗi khát ban mai là nỗi khát thường trực
trong thơ anh.
Từ rất sớm
anh đã có “Kinh cầu ban mai”: Mắt bừng ra lúc rạng đông/ Chân trời hổn hển
phập phồng ngón chân. Anh khắc khoải “qua hoàng hôn” chờ rạng ánh ngày:
Cầm tay gió dắt vào đêm/ Mà hồn xanh lỡ để quên cuối trời/ Dấu chân xin cát chớ
vùi/ Cho ta niệm chắc ban mai lại về.
Có ban mai
là có ánh sáng. Ánh sáng chống lại sự quên lãng, sự chôn vùi, sự tàn úa. Ánh
sáng thức dậy những vùng nhớ, những trăn trở, những tìm kiếm. Con đường thơ của
Mai Văn Phấn là hành trình đi tới ban mai. Anh bắt đầu từ Giọt nắng (tập
thơ, 1992), anh lên tiếng Gọi xanh (tập thơ, 1995), nắng ấm đưa lại màu
xanh sự sống, và như là không thể khác, giữa chốn thánh đường cao cả linh
thiêng của đất trời, anh Cầu nguyện ban mai (tập thơ 1997). Bìa tập Gọi
xanh gợi một cánh đồng nứt nẻ khô hạn. Bìa tập Cầu nguyện ban mai
hiển lộ một khuôn mặt thi nhân trên nền bóng đêm đen khắc khoải trông ngóng.
Ban mai hứa hẹn gì cho anh mà thi nhân khát khao đến vậy?
Lời đáp lại
“Tiếng gọi từ những cánh đồng”: Trong mơ thấy ban mai thành lúa vàng ươm/ Và
dấu chân người gieo thành hạt thóc. Niềm hạnh phúc “Lúc mặt trời mọc”:
Con đã thức dậy trong ban mai của cha. Phía chân trời hừng đông như trẻ thơ bụ
bẫm đang duỗi dài khoái hoạt, vài tia sáng đầu tiên giãi bày niềm hân hoan trên
thềm cửa, rồi đưa những ngón tay mềm âu yếm đỡ con đi. Mộng mơ “Hải Phòng
trước năm 2000”: Bước chân của ban mai hay em đến bên hè, qua lối ngỏ hồn ta
như cỏ ướt.
Và cầu
nguyện là tự thú. Ban mai của Mai Văn Phấn là ban mai trên của cánh đồng. Cánh
đồng là nơi gieo cấy, gặt hái, là tượng trưng của sinh sôi, nảy nở. Nhà thơ tự
thú trước cánh đồng, anh thấy mình là chiếc hũ thóc giống vào một buổi sớm mai:
Ngày mới đến đưa bàn tay nắng ấm/ Để lấy đi những hạt cuối cùng/ Tôi
chếnh choáng rỗng không chiếc hũ/ Đợi những mùa vàng, rạo rực hiến
dâng...
Và sau cầu
nguyện đến nghi lễ nhận tên (tập thơ, 1999). Từ đây nhà thơ đã thành
con của ban mai, người ca hát ban mai, anh được hồi sinh cùng vạn vật và thấy
vạn vật tái sinh trong mình.
Ấy là dấu hiệu sự tái
sinh
Hay bắt đầu những điều trọng đại
Chưa kịp xúc động
Mới mơ hồ nhận ra
Ban mai đã cuốn lấy ta những vòng tã lót
(Khúc dạo đầu)
Cùng rền rĩ trong mê man cơn sốt
Cho tầng lá già lênh đênh chưa kịp mục
Cho bén rễ vào thịt da những mùa ngũ cốc
Nước mắt ban mai trổ những đòng đòng
(Hồi sinh)
Ban mai là
khởi đầu. Với Mai Văn Phấn mọi sự khởi đầu là từ đất, từ cánh đồng, cho những
mùa gieo trồng. Anh biết có “thời vụ” cho đời người, và cho thơ. Khi “cánh
đồng trên đầu vừa mở cho tiếng vọng”, sấm rền và mưa xuống, “mỗi giọt
đều được lau chùi từ thăm thẳm”. Đó là khi “lại vỡ ra bài ca gieo hạt”.
Và “có ai đặt vào tay ta khoảng lặng im vụn rời như nắm thóc”. Phải tung
nắm thóc rời này theo hướng nào, theo chiều quay nào, trong một không gian nào
thời gian nào, để người không trắng tay? Nhìn xung quanh anh thấy “Trước mắt
ta đâu còn là đường chân trời, mà những chỏm tóc của nhiều người nối tiếp nhau
đang chạy gấp. Họ dốc sức chạy xa hơn khi phát hiện ra những đích khác”.
Nhìn vào mình anh thấy: “Sự e dè thường được bọc kín thành nhân trong hạt.
Dẫu mang nhiều hứa hẹn những mùa xanh, những hiệu quả bội thu tiếp nối, nó vẫn
không tự thoát ra khỏi lớp vỏ dày”. Từ đó anh đi tìm một “giải pháp” cho
mình. Một giai điệu gì quen lắm nhưng giờ đây hát lên anh không còn thấy hào
sảng và lôi cuốn như xưa. Có lẽ phải có một cái gì mới, khác, nếu không sẽ
là một nỗi kinh hoàng. Anh muốn hát bài ca của mình theo cách của mình, muốn
trồng cái cây của mình trên đất của mình, trong một khung cảnh mới. Nhà thơ
hiểu rõ rằng: “Chỉ khi một cánh chim hay tia sáng ngôi sao vô tình bỗng
xuyên thủng lớp vỏ kia bí ẩn, hay hạt giống được chạm vào dịu nhẹ ngón tay của
đợt mưa xuân, lúc ấy mọi trật tự và quan niệm sẽ khác”. Mặt trời cũ muôn
đời nhưng mỗi ban mai mặt trời lại mới. Con người cũng vậy và thơ cũng vậy,
sống lại mỗi ban mai, đổi khác và đổi mới mỗi ban mai. Và Mai Văn Phấn mạnh
dạn, tự tin cùng thơ bước vào ban mai của những tìm tòi, khai phá.
Từ tưởng tượng
Và những niềm khát vọng
Tôi rút những mũi tên
Ra đi tìm đích cho ngày
Từng mũi tên vạch đường bay vun
vút
(Mũi tên
bóng tối)
Đọc thơ Mai
Văn Phấn từ đầu tôi đã có cảm giác thơ anh mới mẻ. Cảm giác đó có lẽ là do ý
hướng tiếp cận hiện đại của thơ anh. Với thời gian, qua các tập thơ anh ra đời,
cảm giác đó đầy lên. Mai Văn Phấn có chung với Nguyễn Quang Thiều nỗi đam mê
kéo căng các con chữ, tạo ra những kết hợp chữ mới, để câu thơ xâu chuỗi các
hình ảnh trong một mạch ngầm liên kết ý tưởng, nhưng thơ Thiều thiên về cảm xúc
để suy tưởng, còn thơ Phấn thiên về suy tưởng để cảm xúc. Và cả hai anh, trong
phần thành công của mình, đều có cốt lõi dân tộc trong dáng vẻ hiện đại.
Ban mai là
của ngày, nhưng ngọn lửa là của đêm. Ban mai quay vòng từng chu kỳ, ngọn lửa
xuyên suốt cả trường kỳ. Ban mai dọi sáng, lửa thắp sáng. Ban mai của đất trời,
ngọn lửa của con người. Lửa, cũng như ban mai, có thể gọi là “từ khóa”
(key-world) của thơ Mai Văn Phấn. Anh đã tìm đến lửa để soi sáng con đường và
bước chân NGƯỜI trên lộ trình lịch sử từ xa xưa đến xa sau. Trường ca Người
cùng thời là một nỗ lực mới, một bứt phá của Mai Văn Phấn. Tôi - nhân vật
trữ tình, sống với người cùng thời, ngoái nhìn người trước, hướng vọng người
sau, chiêm nghiệm những điều đã qua, lường trước những điều sẽ tới, sống tận
cùng mình và hòa đồng cùng nhân quần, vũ trụ. Lịch sử nhân loại trải qua các
nền văn minh và các cuộc chiến tranh, đặc biệt chiến tranh trong thế kỷ XX, đặt
con người hôm nay trước một câu hỏi lớn: phải sống thế nào đây để xứng là
NGƯỜI? Mai Văn Phấn với Người cùng thời muốn đi tìm một lời giải, muốn
đưa ra một lời đáp cho câu hỏi có tính nhân văn sống còn ấy.
Bắt đầu từ
hành động “Nhóm lửa” (chương I): “Những ngón tay que diêm vừa rút ra khỏi
vỏ/ Quẹt lên da trời còn ở rất xa/ Ta cúi xuống cuống cuồng thổi lửa/ Nhận ra
mình là hòn than cháy dở đêm qua”. “Cháy dở” nghĩa là còn ấm nóng, còn năng
lượng, còn trách nhiệm phải cháy tiếp, cháy hết. Lửa đã nhóm, hòn than còn âm ỉ
cháy, phải “thắp lên phần cháy dở đêm qua”. Từ đây “Xin hân hoan với
NGƯỜI CÙNG THỜI/ dưới Thánh đường Ban-Mai-Cao-Cả. Từ đây “Tôi với mọi
người” (chương II): “Từ trong tắt lửa tối đèn/ Từ trong khoảng rỗng không
tên thuở nào/ Bây giờ đất rộng trời cao/ Bàn tay ta cũng lao xao tiếng người”.
Ngọn lửa thắp lên đã bén cháy vào tôi, tôi cháy lên trong ngọn lửa, tôi tự
cháy, tôi là lửa, tôi nhập với mọi người trong hành động phá hủy và dựng xây.
“Cộng hưởng I” (chương III) là tôi về lại những tháng ngày qua: “Đi qua giấc
mơ vụn nát những bờ vùng bờ thửa, có hàng phi lao hát mãi lời ca mang quá khứ
hay tương lai không giới tính. Lồng ngực ta như hộp đàn, cộng hưởng những âm
thanh xoay ngược tháng ngày. Có chiếc cọc mơ dưới lòng sông nảy lá, có nắm bùn
già mơ một lần được trở lại bùn non”. Quá khứ không dứt được hiện tại, như
hình với bóng liền nhau, và đó là “cái có có không không duy nhất mắt ta
nhìn thấy được”. Trong mắt ta nhìn “Nỗi đau phát sáng” (chương IV), nhân
loại đã tự gây bao đau khổ, chết chóc, người với người đã trả giá bao nước mắt
và máu: “Soi vào lịch sử chiến tranh/ Những nền văn minh hủy diệt/ Xin gọi
lay từng cái chết/ Tái sinh cùng những bình minh”. May sao, cuộc đời dẫu
đắng cay, hành trình chân lý dẫu nhọc nhằn khổ ải, nhưng bên ta còn “Đằm thắm
mặt người” (chương V): “Vợ con, đồng chí, bạn bè/ Triền sông cỏ mịn ta về
thảnh thơi… Mắt nhìn gạn đục khơi trong/ Đau không sợ, chẳng ngông cuồng khi
vui”. Mãi mãi nhân gian tồn tại là nhờ “người vin tay người/ nối vào
ngọn bấc/ lửa đời thắp lên”. Trong cuộc chạy tiếp sức của con người về phía
tiến bộ, hạnh phúc, ngọn lửa đã truyền đến hôm nay. “Cộng hưởng II” (chương VI)
là với lúc này và ở đây: “Chân tay ta vừa rút khỏi những huyễn hoặc giấc mơ,
ngón còn tê cứng một đời cuốc cày liềm hái, một đời bàn tay phải lệ thuộc vào
tay trái. Cả hai bàn tay lệ thuộc vào nỗi ú ớ toát mồ hôi của cái chết lâm
sàng, chỉ biết cứng đơ mặc cho cơn bóng đè trùm lợp. Giờ những bàn tay đã tự do
thức dậy, biết cộng lực cho nhau khi bình minh đang đến tái sinh. Đây là
khoảnh khắc lịch sử: “Người cùng thời nhìn rõ đường đi nhờ những nỗi đau hắt
sáng phía sau lưng, hắt sáng gương mặt người đằm thắm. Đã bắt đầu những nghi
thức mới, tự nhiên hơn và tự tin hơn, khi từng hồi chuông dồn nén, dõng dạc bay
đi xô đổ những tháp ngà”. Nhưng liệu con người có kịp nắm lấy số phận mình,
giải phóng cho cái “tôi” của mình được phát triển hết sức mạnh? Mỗi bước phát
triển khoa học kỹ thuật, nếu không khéo, sẽ là một sự kéo lùi về mặt nhân văn
nhân bản. “Mail cho em” (chương VII) là một hồi chuông báo động nguy cơ cái giả
thay thế cái thật, cái máy móc lấn chỗ cái con người, khi khoa học khám phá đến
kiệt cùng vật chất, con người trần trụi biết bấu víu vào đây: “Cầu nguyện
ban mai cho tình yêu sẽ thuần phục được vật chất lẫn phản vật chất theo mã số
đã chọn cả diệp lục máu hồng cùng linh cảm đang liên hồi truyền tới nơi em”.
Con người sẽ được giải thoát khỏi nguy cơ trên nhờ có trái tim, “trái tim giải
thoát” (chương VIII) giúp con người giữ được phần người, tinh chất người trong
bản thể mình, nhịp đập trái tim là khúc ca mới nguyện cầu cho con người: “Một
trong hai lại rằng lành/ Tự tin tới cả mong manh cánh chuồn/ Nhện sa quấn quýt
hương thơm/ Trái tim mở một cánh buồm ban mai”. Khúc ca mới đó vang lên
cộng hưởng với người sau, “Cộng hưởng 3” (chương IX) ở những nền văn minh cao
nhất cũng là nơi con người được tự do hoàn thiện mình nhất, quá trình này liền
mạch sau trước và bao giờ cũng được mở ra từ ánh ngày: “Không gian tựa chiếc
bình cổ khổng lồ mang những đám mây thời gian rạn nứt/ Và ban mai đến/ Lũ trẻ
ùa ra từ chiếc bình kia/ Hân hoan chạy tới bến xưa/ Vẽ hình hài thế kỷ sau trên
mặt cát bây giờ”. Liên tục, tiếp nối bàn chân con người đi lên phía trước,
người cùng thời là biến thành cùng thời, là sống trong không-thời gian đồng
hiện của tất cả những “đã là, đang là và sẽ là”. Ngọn lửa qua mỗi chặng lịch sử
được tiếp thêm năng lượng soi sáng “phía trước bàn chân” (chương X) đi tới một
ngày mai: “Lòng tốt của người cùng sự hài hòa tự nhiên rồi sẽ thấm nhuần mưa
xối vào miệng những khoảng không đang hanh hao cơn khát, làm tan loãng mọi giấc
mơ chai cứng, vụn tơi thành từng mạch mát lành”.
Lửa, từ khi
ở tay người, đã thành lửa người. Nhưng lửa chỉ soi tỏ bóng đêm chứ không xóa
được bóng đêm. Lửa phải dắt con người đến được bình minh, ban mai, nếu không
lửa chỉ mới là đốt cháy, chứ chưa thể thắp sáng. Lửa người phải nhập cùng lửa
trời. Khi đó một nhân loại mới ra đời, con người được tái sinh, cuộc sống luôn
mới mẻ tinh khôi như lẽ tuần hoàn tự nhiên: Và thấy trong tiếng chim/ Một
ban mai vừa nở/ Một bọc trứng vừa nở/ Trong chiếc nôi sương mờ.
Cấu trúc bản
trường ca là một cấu trúc hệ thống có nhiều tầng lớp, trục tuyến đối xứng đối
ứng nhau. Trục dọc (lịch đại) gắn ba cộng hưởng (các chương III-VI-IX) theo
tổng phổ thời gian lịch sử và tâm cảm con người. Trục ngang (các chương I-II,
IV-V, VII-VIII) gắn kết nhau theo chủ đề tư tưởng. Mạch ngầm cơ sở của cảm xúc
thơ là diễn tiến quá trình văn minh nhân loại từ mông muội đến khai sáng, từ tự
nhiên đến nhân văn. Chương X kết thúc là hợp lực, tổng thành của cả hệ thống,
nó nối theo trục dọc về thời gian, theo trục ngang về vấn đề. Các lớp lang chặt
chẽ như vậy cho thấy Mai Văn Phấn chuẩn bị rất kỹ cho việc viết trường ca. Người
cùng thời của anh là trường ca cấu tứ theo ý, không đặt thành cốt truyện,
lấy sự đồng vọng vang hưởng của chủ đề làm mạch dẫn dắt cảm xúc. Thể trường ca
cho phép dung hợp nhiều lối thơ, Mai Văn Phấn không bỏ qua khả năng này, anh sử
dụng cả thơ lục bát, thơ văn xuôi, thơ ngũ ngôn, thơ đồng dao. Anh mạnh dạn cho
cả kỹ thuật hiện đại vào thơ như chương VII là một bản Mail viết liền
mạch không chấm phẩy, in riêng một kiểu chữ, và có dòng đề “Gửi vào mã số
nbn276 1965”. Có thể tạm gọi đây là dạng “thơ mail”, nó có khả năng mở rộng
liên tưởng thơ nhờ ở những cách đọc khác nhau trên cùng một văn bản.
Trường ca Người
cùng thời có những chương đọc thích. Chương IV Nỗi đau phát sáng là
một chương lay động. Nó là chỗ bản lề để cảm xúc thơ vận động từ cái ngày qua
đến cái ngày sau, do đó nó hiện thực, thấm thía, do đó nó có thơ. Người cùng
thời ngẫm nghĩ về cái giá con người phải trả cho những lầm lạc của mình qua một
dãy dài những cái chết trên trường kỳ lịch sử. Mai Văn Phấn rất hay ở chỗ anh
tạo được một khung cảnh đầy ý nghĩa: tội lỗi con người bị phán xét trước đất
trời:
Mặt trời lên
Một vị quan tòa
Từng nỗi oan
Dẫn ra từ bóng tối
Từng cái chết
Dẫn ra từ bóng tối
Mặt đất uy nghiêm
Minh bạch
Nhân từ
Những câu
thơ ngắn cắt dòng tạo được cả ấn tượng thị giác. Điệp khúc Một người để nước
mắt rơi/ Mặn mòi lan khắp mặt người yêu thương là một nỗi xa xót. Những cái
chết ngày đang qua, ngày đang lại, xoáy lên bao câu hỏi. Lầm lỗi một thời nỗi
đau không nhãn mác/ nghèo khổ được tấn phong không chỉ nỗi đau một thời.
Câu thơ Nhân loại đi chếnh choáng dưới mặt trời hay, như một tiếng
nấc. Tiếc ở cuối chương này giá tác giả cứ để nguyên hai câu lục bát điệp khúc
thì tập trung sức nặng của cả chương hơn, thêm lên đầu hai câu nữa vừa gượng
(về ý) vừa không hay (về tình). Chương II Tôi với mọi người, chương V đằm
thắm mặt người, nhuần nhị, lắng đọng. Đó là những chương ngòi bút Mai Văn
Phấn chân thực, tự nhiên, anh thể hiện được điều muốn nói bằng những câu thơ
thật. Còn đôi chỗ khác trong trường ca ý của anh chưa nhập được vào thơ, tức là
anh chỉ mới diễn ý không thôi, ví như “Tuân theo luật mà dồi dào cá tính.
Cái Tôi tận cùng dẫn tới cái Ta”. Trên đây tôi có nói chương X kết thúc là
hợp lực, tổng thành của cả hệ thống trường ca, đấy là xét theo cấu trúc của nó,
còn như ở đây tác giả đã viết chương này như một tổng kết, gói gọn lại những ý
triển khai ở chín chương trước. Theo tôi chương cuối này lặp, chưa tương xứng
với toàn bộ bản trường ca. Nhưng đây là một trường ca đọc có hứng thú, hứng thú
nhất là hướng thơ bứt về phía hiện đại của một lối viết. Hiện đại là gì, trong
thơ? Nói cái hôm nay bằng ngôn ngữ và cách nói của ngày hôm nay. Và đã là hôm
nay thì nó khác ngày qua và không giống với ngày mai. Do đó, nó lạ với chính cả
hôm nay. Nếu thành công nó thành cái mới. Nếu không thành công nó chỉ là cái
lạ. Nhưng lạ hay mới, trước hết nó phải khác. Thơ Mai Văn Phấn có cái khác đó.
Mai Văn Phấn
làm thơ dưới luồng sáng linh thiêng dẫn dắt của ban mai và ngọn lửa. Anh tin
vào sự hồi sinh, phục thiện, hoàn nguyên của đất đai bầu trời, của cỏ cây hoa
lá. Cố nhiên niềm tin mãnh liệt của anh là ở sức sống luôn tươi mới của con
người. Thơ anh tìm tòi cách tân theo hướng đó. “Nghi lễ nhận tên” là bổn mạng
anh nhận: Tung lên bọt nước đầu ghềnh/ Và tăm sóng thở lặng thinh đáy hồ/
Trổ mầm những khoảng vu vơ/ Hay con cò trắng ngẫn ngờ bay lên. “Người cùng
thời” là trách nhiệm anh mang: Lửa theo hưng thịnh bao đời/ Tro than gieo
vãi về nơi cấy cày/ Chiêm mùa mọc mộng chân mây/ Cánh chim vun xới ấp ngày vào
đêm. Ngẫu nhiên tôi lại kết bài bằng những câu lục bát của anh. Mà thật ra
có ngẫu nhiên không nhỉ?
Hà Nội, tiết trùng dương
1999
P.X.N
(Báo Văn Nghệ số 34,
1999. Lời tựa tập “Thơ tuyển Mai Văn Phấn” (Nxb. Hội Nhà văn, 2011)