Cuộc trở về tâm không trong tập “Bầu trời không mái che” của nhà thơ Mai Văn Phấn (phê bình) - Dương Kiều Minh
Cuộc trở về tâm
không trong tập “Bầu trời không mái che”
của nhà thơ Mai Văn Phấn

Có lẽ nhà thơ Mai Văn
Phấn trong ý thức của mình không cố ý tự định ra những thách thức thi ca và
thách thức ngay cả với chính mình. Cùng với tập thơ mới ra đời vào cuối năm
2010, Mai Văn Phấn đã liên tiếp ra trước công chúng và giới văn chương ba chiêu
thức mới trong cùng một năm. Trước đó, hai chiêu thức tung ra vào giữa năm là
hai tập thơ “Và đột nhiên gió thổi”, và “Hôm sau ”. Có người còn dụi mắt chưa
kịp nhận diện đó là gì, thì nay lại xuất hiện “Bầu trời không mái che” – một cuộc hoàn nguyên để tái sinh thật ngoạn
mục, một cuộc lộn trở về với bản thể người trong bản thể của vũ trụ:
Anh nhào lộn giữa gió và nước
tôm cá và mặt trời
rong rêu và mây trắng
ký ức và mộng tưởng
(…)
Bên em hành lễ mặt trời
Ngọn thác, bờ sông lớn
Bóng anh trong tiếng nước chảy
(Hình đám cỏ -
Nhịp VIII)
Vũ trụ choàng áo đen lên con
Chỉ hở đôi mắt cầu nguyện
(…)
Co quắp con ngủ trong gió lạnh
Mơ thành bào thai
Cuống nhau nối mặt trời
(…)
Từng chồi chân tay bé xíu
Bật nhẹ trong cơ thể người
Con tỉnh giấc
(…)
Giọng nói rất gần
Dưới bình minh con hãy lột xác!
Hoa quả
Lửa đèn
Âm dương chén nước
Như trườn qua cơn chạng vạng
Rút dần cơ thể khỏi lớp vỏ bọc
Con hớp những giọt sương
(Cửa Mẫu)
Ta nhận thấy một cảm giác mạnh trong cuộc trở
về, theo như các giai đoạn Luận vãng sinh
(tử thư Tây Tạng) thì cuộc trở về này của nhà thơ Mai Văn Phấn nằm ở giai đoạn Sipa-Brado và tiếp sau Sipa-Brado:
Chân trời càng gần
Bóng tối càng trôi khủng khiếp
Nhanh hơn cảm xúc
(…)
Họ đã dừng lại dưới mưa
Bất ngờ phóng thích con
Gần chân sóng
Con biết ơn trận mưa
Sóng to và gió mát
(Cửa Mẫu)
Đó phải chăng là những ảo giác hiện ra từ
cuộc tái sinh. Nơi dưới bình minh con lột
xác, chân trời càng gần, bóng tối càng trôi khủng khiếp nhanh hơn cả cảm xúc.
Hoa quả, lửa đèn, âm dương chén nước, trườn qua cơn chạng vạng, rồi rút dần cơ
thể khỏi lớp vỏ bọc, và một cơ thể sống mới bắt đầu hứng những giọt sương đầu tiên. Trong niềm hoan ca của cuộc phóng thích dưới mưa gần chân sóng,
trong niềm vui của một đời sống mới lại bắt đầu nhào lộn giữa gió và nước, tôm cá và mặt trời, rong rêu và mây trắng,
ký ức và mộng tưởng. Đó phải chăng là cuộc trở về dạng thể nguyên nguyên của một cuộc tái sinh vùng dậy kiếm tìm tự
do. Như vậy, theo như một triết gia đã từng đặt câu hỏi, phải chăng cuộc đời
con người là một phương tiện có thể đạt đến cõi toàn giác và những mức độ cao
nhất của tinh thần được chiếu dọi trong luồng ánh sáng của tính không, trong cái đời sống như những làn nước mang con người
gần đích giải thoát. Vâng, con người cũng như mọi sự sống trên bề mặt trái đất
và trong vũ trụ đều bắt đầu từ nước - khởi
thủy là sự sống bắt đầu được sinh ra và qua triệu triệu năm sự sống luôn
trong quá trình vận động tiến diễn và hoàn tất của mọi cơ thể sống trên mặt
đất.
Trước ân huệ của cuộc sinh thành trong cơn mơ
trở về và tái sinh thật kỳ vĩ, nhả thơ nhận thấy vũ trụ choàng áo đen lên con, chỉ hở đôi mắt cầu nguyện, co quắp ngủ
trong giá lạnh, mơ thành bào thai với cuống
nhau nối với mặt trời, trong một cảm nhận từ một sự sống đang dần dần hiện
hữu với từng chồi chân tay bé xíu bật nhẹ
trong cơ thể người.
Có lẽ vì vậy mà nhà thơ đã hân hoan trong
niềm hoan ca của ngày sinh lại, của một cảm xúc tự do giữa một thiên nhiên rộng
lớn mang biểu tượng của đời sống mới, một đời sống đã được tái sinh và hoàn tất
“Bên em hành lễ mặt trời/…/ anh nhào lộn
giữa gió và nước/…/ Ngọn thác, bờ sông lớn/ Bóng anh trong tiếng nước chảy”.
Trong tập thơ mới “Bầu trời không mái che” là
sự dâng đặt cái hứng khởi trở về cuộc tái sinh đầu tiên của sự sống. Một cuộc
tái sinh được nhà thơ thể nhập trong cảm nhận trực giác của cái toàn thể và cái
nhất thể, một cái cá thể không phân chia, không tách rời. Đó có lẽ là cuộc giải
phóng và từ quy của nhà thơ.
Cái ánh sáng của cuộc trở về cái nhất thể
trong cái toàn thể bằng vào giấc mơ tái sinh đã tỏa lan vào cái nhìn của nhà
thơ trong toàn bộ các bài thơ trong tập “Bầu trời không mái che” của Mai Văn
Phấn.
Cái diệu lý của thiên nhiên được bật mở với
những bí mật truyền dẫn qua giác quan thứ sáu của nhà thơ:
Vươn thẳng
Tán cây quang hợp mặt trời
Lá chồng lên nhau hoan hỉ
Bật dậy thở chung dòng nhựa
Máu từ đất đai chạy qua bàn chân
Miệng ngậm hương đêm lồng lộng
Đưa anh đi mất hút bến bờ
(…)
Phủ che lá cỏ
Gió biển ngái mùi lòng mẹ
(…)
… bé thơ vườn trẻ lá rơi rất nhẹ chia nhau làm tiền khôn
ngoan xiên ngang dại khờ đi dọc tiếng nói chân thành làm ta bật khóc
(Hình đám cỏ
- Nhịp VI)
Thật vậy, sự sống của thiên nhiên truyền dẫn
vào sự sống của con người, trong sự hoan
hỉ của dòng nhựa, của lá chồng
lên lá, và nhận thấy máu từ đất đai chạy
qua bàn chân. Ở đâu kia ngoài xa khơi từng làn gió biển ngai ngái mùi lòng mẹ, phía sau khu vườn bé thơ nhặt lá chia nhau làm tiền, làm nhói lên sự xa
xót nỗi niềm thế tục với khôn ngoan xiên
ngang dại khờ đi dọc tiếng nói chân thành làm ta bật khóc.
Mình anh ngõ vắng
Vẫy tay chào mọi khác biệt hôm qua
(…)
Ánh trăng khuya rơi vào chén nước
(…)
Thế giới lặng im
Chỉ lẻ loi tiếng sáo
Dịu hiền em
(…)
Nhặt hạt heo may miết lên toan trắng phác họa hình em
(Hình đám cỏ - nhịp VII)
Một thế giới bật mở trong thinh lặng, ta thấy
nhà thơ đang trở về với bản thể của mình trong một con hẻm chứa đầy những kỷ
niệm xưa cũ, chợt nhận ra ánh trăng khuya
rơi vào chén nước, nơi thế giới lặng
im chỉ lẻ loi tiếng sáo bên dịu hiền
em, rồi nhà thơ với hứng khởi trào dâng đã nhặt hạt heo may miết lên toan trắng phác họa hình em.
Trong thể giới lặng im của nhà thơ, phả lên
hương vị thật tinh tế và lãng mạn, nơi mình
anh ngõ vắng vẫy tay chào mọi khác biệt hôm qua.
Lặng yên cho nước chảy
Xối xả lâu lạnh toát mình đá
Mùa xuân đấy sao?
Dây hoa leo đường mòn
Tiếng chim dội xuống róc rách
(…)
Đá nhắm mắt an nhiên nước cuốn
(…)
Mùi ổi chín thơm len lỏi trong rừng
(Đá trong lòng
suối)
Trong thế giới lặng yên này của nhà thơ cho
ta cảm giác gần gũi với sức cuốn rũ của những vườn đá cổ Nhật Bản. Ở đây ta
thật không phân biệt được đang hiện hữu kia là đá hay là nhà thơ. Không
biết nữa, chỉ thấy rộn rực mùa xuân dây
leo đường mòn, mùi ổi chính thơm len lỏi trong rừng, và tiếng chim dội xuống róc rách. Đó cũng
là giai điệu xuân “trong hơi ẩm nồng nàn/
Hạt nắng chảy vào em/ Mùa nước về rạng rỡ” (Giai điệu xuân)
Hoặc “Chớp sáng nứt vỏ/ Mùa xuân trào miệng hạt” (Đỉnh gió). Đó
chính là niềm hoan hỉ của bản thể đá
trong lặng yên nước chảy và nhắm mắt cho an nhiên nước cuốn. Đá
chính là bản thể của nhà thơ thể nhập trong trải nghiệm qua dòng xối của thời
gian và của thế tục đang cuộc trở về tĩnh lặng.
Nhà thơ trong thinh lặng tìm thấy mình ẩn
dưới các biểu tượng của thiên nhiên, là đá
trong lòng suối, nơi đỉnh gió,
nhà thơ lại thấy mình là gió:
Nhoài lên mỏm đá sắc
Thân thể gió trầy xước
(…)
Thổi rỗng lòng đồi núi
Ngực gió thả trôi
Vờn trên đất
(…)
Lay giật tả tơi cho đã cơn hưng phấn điên cuồng
Cơn ức chế thèm khát
(Đỉnh gió)
Ở nơi khu vườn
em, nhà thơ thư thái bước lên vạt
nắng tựa như bước lên một con thuyền
ban mai (Vườn em).
Sự thinh lặng đã tỏa ra hơi thở và ánh sáng
từ những câu thơ với những hình ảnh thật đẹp và tinh tế của một sự thuần khiết.
Đấy, “Một con đường thanh sạch/ Thức dậy
làn hương/ (…)/ Con bồ câu đã về/ Mang cả buổi chiều/ Kẹp trong đôi cánh/ Một
buổi chiều khoác bộ lông màu lam/ Cổ và đỉnh đầu khoang trắng/ Cùng bước chân
bé xíu bước lên trăng” (Mùa trăng).
Sự thinh lặng từ lúc nào tỏa đến từ một con đường thanh sạch thức dậy mùi hương,
đã hóa thành con bồ câu mang cả buổi chiều
kẹp trong đôi cánh với bước chân nhỏ
xíu bước lên trăng. Có lẽ cái mùi hương thức dậy từ sự thinh lặng đã bắt
đầu từ “phía cuối con đường/ Nơi bắt đầu
cơn giông/ Dọn lòng thanh sạch/ (…)/ Nán lại bên khe cửa hẹp/ Nhìn gợn sóng lấp
lánh trên dòng sông chảy xiết” (Hình đám cỏ - Nhịp I). Vào thời khắc đó,
nhà thơ “Muốn dừng lại bên đường/ Nằm
trên cỏ/ Trời cao mong leo lên cây/ Nhìn xuống tiếc nuối cát/ Thèm trộn vào cát”
(Hình đám cỏ - Nhịp II). Trong hương trà buổi sớm, nhà thơ cảm nhận được “Từng nóc nhà, đỉnh núi đội sương lên/ Mây
trắng đến quấn quanh ý nghĩ”. Và, sự thinh lặng chảy tràn trong tiếc nuối
nơi vẻ đẹp của đời sống và của thời gian đang hiện hữu “Mở cửa anh nhìn. Không ai níu con đường trôi trong buổi chiều. Không ai
giữ lại hồi còi đang lan trên đất” (Hình đám cỏ - Nhịp IV); “Biển ngoài kia vẫn ngủ/ Bờ cát duỗi chân mây”
(Hình đám cỏ - Nhịp VIII). Đó là quà tặng quý giá của những gì tưởng đã đánh
mất trong ký ức nay lại gặp lại “Anh sung
sướng mở ra/ Gặp ý nghĩ từng quên trong quá khứ” (Hình đám cỏ - Nhịp IX).
Ta nhận thấy ở cấp độ ban đầu trong cái thinh
lặng dưới ánh sáng của sự tái sinh, của sự quay trở về bản thể, nhà thơ đã trôi
trượt trong dòng trải nghiệm ở một tầng trời rất thấp:
Chiếc lá kia rơi
Mặt đất sẽ trũng xuống
Vọng tiếng chuông xua mây đen
(Thu
đến)
Em ở đâu
Tiếng cắt gió vội vàng
Men khẩu hình anh theo tiếng gọi
(…)
Gần sáng thức dậy
Quả chuông đêm chụp xuống mặt đất
(…)
Em đang xa quả chuông
Boong…
Boong…
Giữa trời một bông hoa cúc
(Hình đám cỏ - Nhịp I)
Cái bông
cúc đột nhiên hiện giữa trời, đó
có lẽ là bông cúc hiện ra từ ánh sáng
của sự giác ngộ, của sự giải thoát trên lối về độc đạo của cuộc kiếm tìm. Theo
sự trôi trượt theo dòng trải nghiệm, nhà thơ nhận thấy sự đơn độc của kẻ lữ
hành, khăn gói trần gian, mải miết đi tìm, ngước lên vòm cao nghe vang vang
những tiếng vọng mơ hồ trước giờ tái sinh:
Chỉ mình con thấy chú chim nhỏ kia rất xa con đường
Xa mảnh vườn, những đàn chim khác
Con lặng lẽ đi qua vầng mặt trời đáy nước
Nhìn hướng bầu trời mở đôi cánh
(…)
Hơi nước bến sông
Không gian đặc thời gian nhầm lẫn
Ngọn khói lên cao
Bình minh bơi trong biển sương
Không phải sương mà đang mưa
Ngọn tháp cao sáng láng
(…)
Con rùng mình một bến bờ
Mặt nước nghẹn nơi không sóng vỗ
(…)
Nhặt viên sỏi vẽ lên mặt đất
(…)
Viết dòng chữ vào ô trống còn lại.
(Cửa Mẫu)
Ô trống còn
lại mà nhà thơ viết vào đó là gì vậy, phải chăng
đó chính là Tâm không, chính là cái
đích của cuộc kiếm tìm không mệt mỏi, cuộc kiếm tìm bản thể, bản thể được tìm
thấy và tiếp tục tái sinh trong thế giới tâm thức của nhà thơ.
Xin trở lại, ta thấy trước giờ tái sinh, nhà
thơ thấy hiện lên ảnh tượng người cha lúc hôn mê:
Cha vừa gượng dậy sau trận ốm liệt, men dần ra cửa, lọt
vào khối vuông ánh sáng
Người cố đưa ngón tay và bảo con cánh cam trên tán lá kia
cha nhìn thấy lần đầu
Con kể những chuyện vô tình lúc cha hôn mê. Chuyện đám
mây lớn thường bay chậm qua nhà mình. Chiếc giếng khơi dâng hơi nước lên cửa
sổ. Chuyện tiếng con chim khách làm mọi người cùng nhìn bát thuốc
(…)
Cha bỗng thều thào hãy dìu cha đi nghỉ
Tiêng lá khô trượt trên mái nhà làm cha và con cùng rơi
nước mắt
(Cửa Mẫu)
Cơn hấp hối của người cha được chiếu dọi
trong làn ánh sáng của tịnh độ. Thế giới mở ra thật mới mẻ tinh khôi như lần
đầu vào lúc người cha lọt vào khối vuông
ánh sáng, với đám mây lớn bay chậm
qua nhà và chiếc giếng khơi dâng hơi
nước lên cửa sổ. Và, cuộc về của người cha là cuộc về của “người đã khuất bỗng về trong hoa nở”,
nơi chân trời mở mãi mở mãi vào khối
vuông ánh sáng.
*
* *
Như phần đầu tôi đã đề cập, tập thơ mới “Bầu
trời không mái che” của nhà thơ Mai Văn Phấn được bao phủ bởi không gian và ánh
sáng từ cuộc trở về tĩnh lặng đến cái đích của Tâm không và tái sinh ở một đời sống mới với tinh thần “Vẫn hiểu nhau dù quên tiếng nói/ Đã yêu.
Hiến dâng. Đã sống”.
Trong cuộc trở về đầy hứng khởi và đam mê
nhưng cũng không ít những khó nhọc của sự công phu hướng nội theo lối hành lang
hun hút dần về với ánh sáng tịnh độ mênh mông của cõi tâm không.
Bông hồng sớm nay mình anh thấy
Tiếng chim hót tỉnh giấc
Tạ ơn con đường dẫn anh đi
Mây trên cao
Lá cây rơi
Cả những gì chưa hiện hữu
(…)
Tiếng chim qua đỉnh đầu
Vào cơ thể anh lúc đang tịnh độ
Xua đi cho lòng yên lặng
Sao về được tâm không
(Hình đám cỏ - Nhịp I)
Ôi, tâm
không. Trên thế gian cũng như vũ trụ mênh mông rộng lớn này, chỉ những gì
rỗng không mới có thể chứa tải và sinh sôi mà thôi. Tâm không tức là bầu trời, là biển cả. Chỉ có Tâm không mới chất chứa và sinh nở. Những câu thơ cùng được sinh ra
từ tâm không đó thôi, tâm không mới đủ sức thu chứa những ý
nghĩa của thiên tạo và nhân tạo cùng những dư ba của kiếp người.
Tôi đọc những vần thơ của nhà thơ Mai Văn
Phấn trong những ngày giá lạnh tê buốt của một mùa đông thật khắc nghiệt, những
ngày cận cuối năm, sớm dậy nhìn ra bãi trống phía trước mưa bụi mờ mờ trong
tiếng chuông sớm từ bên kia sông vọng lại, phả lên hơi thở mang hương vị mùa
xuân rất gần. Chuẩn bị gấp tập thơ “Bầu trời không mái che”, tôi nhận thấy mình
vừa trải qua một cuộc thám hiểm vào thế giới của những câu thơ tích chứa tính
ẩn dụ và biểu tượng. Và, tôi chợt giật mình, rằng hình như ở đâu đó trong tập
thơ, nhà thơ Mai Văn Phấn còn kịp cài yểm kỳ vọng về thi ca, nó thay lời bộc
bạch gửi gắm những ước ao trăn trở trong cuộc tìm tòi thể nghiệm đầy khổ công
và nhọc nhằn của nhà thơ:
Muốn viết câu thơ tự nhiên
Như đi trên đất
Ừ phải, thơ ca từ bao đời nay luôn thể nhập
làm một với ước vọng của con người, thơ ca luôn bám riết mặt đất, giao hội và
sẻ chia niềm vui nỗi đau cùng hạnh phúc nơi trần gian của những kiếp người, để
rồi vươn vút lên trời xanh tỏa rợp cõi nhân quần. Vâng, thơ ca đã và đang sánh
bước cùng với con người tiến đến cuộc “Hành
lễ mặt trời” vậy.
Hà Đông, 19/1/2011
D.K.M
(Tạp chí Nhà Văn, 4/2012)