Mai Văn Phấn – “Để ta một đóa vô thường trong tim” (phê bình) - Nguyễn Thanh Tâm
Mai Văn Phấn – “Để ta một đóa vô thường trong tim” (*)
(Đọc “hoa giấu mặt” của Mai Văn Phấn – Nxb Hội Nhà văn, 2012)

Nhà phê bình văn học Nguyễn Thanh Tâm và MVP
Nguyễn Thanh Tâm
1. Phía sau Bầu trời không mái che (Nxb Hội Nhà văn, 2010)
Bầu trời
không mái che vừa là một mệnh đề biểu đạt nhận thức về
không gian, được tri nhận trong vùng tư duy và mĩ cảm của Mai Văn Phấn – không
gian mang tính quan niệm. Khi là một mệnh đề, Bầu trời giữ vai trò chủ thể (trong mệnh đề) và không mái che là “tính thể” của nó, nói
lên trạng thái của sự hiện hữu - sản phẩm của trí tưởng tượng trong tư duy nghệ
thuật của Mai Văn Phấn. Có thể xem Bầu trời không mái che tượng trưng
cho tính không giới hạn của sự ý thức, cảm biết về không – thời gian – bối cảnh
của sự hiện hữu. Cũng có thể xem đó là ý niệm về một sự hoang mang khi nhận ra
tính bất toàn, sự rủi ro của thân phận dưới một mái nhà đầy bất trắc. Bởi Bầu
trời không mái che nên con người và thiên nhiên tạo vật phải vật lộn để
kiếm tìm sự an trú. Sự sống thật nhọc nhằn nhưng cũng vô cùng kỳ diệu.
Bầu trời
không mái che đã vượt qua tính chất là một mệnh đề truyền
đạt nhận thức về thực tại để trở thành một chỉnh thể uyên nguyên có cơ năng nội
tại, mang hàm nghĩa phức hợp, vượt lên là một phép chuyển nghĩa (ẩn dụ) để trở
thành biểu tượng. Bầu trời không mái che là một biểu tượng. Khi đó, nó mang nhiều
hơn những nét nghĩa mà bản thân ngôn từ có thể biểu đạt. Bản thân những gì ngôn
từ đảm trách chỉ có tính chất tượng trưng, ám gợi để một sự tri nhận khác thành
hình trong trường mĩ cảm, tư duy khác của sự tiếp nhận.
Mai Văn Phấn
đã đi qua Bầu trời không mái che bằng khát vọng của sự vượt thoát. Từ Giọt
nắng lung linh Gọi xanh về Cầu nguyện ban mai, từ Nghi
lễ nhận tên để định vị trong trường ca Người cùng thời đến Vách
nước, Hôm sau, và đột nhiên gió thổi, Mai Văn Phấn
đã dồn nén trong mình nguồn năng lượng dự phóng để xuyên qua Bầu
trời không mái che. Quá trình tích lũy càng về cuối càng gấp gáp, riết
róng. Hôm sau chính là ngưỡng của tâm thức vượt thoát, là “điểm sôi”
của khát vọng phá bỏ giới hạn, cũng là điểm chất chứa tối đa niềm hoài nghi.
Tâm thức hậu hiện đại trong thơ Mai Văn Phấn rõ nhất ở tập này. Đến và
đột nhiên gió thổi, ta thấy Mai Văn Phấn đã bớt âu lo, căng thẳng, gió
miên miên và nụ cười se sẽ nở trên môi kẻ thám trình. Bầu trời không mái che
hoàn toàn là một sự ra đi, vượt thoát, khởi đầu từ Cửa mẫu với nhiều Nhịp
xuyên qua nhiều Mùa trăng. Dĩ nhiên,
không thể gạt bỏ được mọi ưu phiền, thơ Mai Văn Phấn trên chặng này hãy còn
nhiều thấp thỏm. Thế nhưng, sự hoang mang, hoài nghi (đến mức bi quan u uất như
ở Hôm
sau) quả thực đã giảm rất nhiều. Dường như, kẻ lữ hành đang dấn bước
kia đã nhận ra lẽ vô thường của hóa sinh nên dần lắng tâm vào thế an nhiên.
Ra đi, vượt
thoát kỳ thực là một hành trình trở về. Phía sau Bầu trời không mái che là
ký ức tinh thần đã bị con người bỏ rơi, quên lãng trên mê lộ của văn minh. Mai
Văn Phấn trở về, đem tặng chúng ta đóa vô thường gọi tên là hoa
giấu mặt.
2. Hoa giấu mặt hay bản thể tính của sự trở về
Nếu Bầu
trời không mái che còn cồng kềnh, ngổn ngang biết bao vật liệu, biết
bao nỗi niềm và không khỏi gợi lên cảm giác nặng nề thì hoa giấu mặt an nhiên,
lặng lẽ, hướng sâu vào cảnh giới của siêu nghiệm. Khăn áo và đồ lề - những vật
chất trì níu bước chân kẻ lữ hành đã được lược nhẹ, chất thơ lắng vào hình hài
giản dị của thơ ba câu.
Sự kín đáo
của ý - tình là chất thơ, là hương sắc của hoa giấu mặt. Đặc trưng nổi bật nhất
của thơ hai câu, ba câu (trong đó có cả haiku của Nhật Bản) chính là tứ thơ.
Phải có một tứ thơ chụm và sáng mới mong có thể hoàn kết một thi cảm trong vài
ba câu thơ ngắn. Làm sao để có thể có được tứ thơ sáng và chụm? (tôi không muốn
dùng từ tập trung, bởi trường ngữ nghĩa, trường liên tưởng của sáng gợi tôi về
đặc tính chụm – những phẩm chất thuộc về “yếu tính” của sáng tạo thơ trữ tình
nói chung, đặc biệt là hai câu, ba câu, haiku. Đồng thời dùng từ chụm tôi có ý
định nói về một thái độ - giải trừ kiểu tư duy, mĩ cảm lan man, nông gần, rất
thiếu tổ chức, biểu đạt một cảm trạng hời hợt trong sự sống đời của chủ thể
sáng tạo). Tứ thơ là hình hài của ý và tình. Sự tổ chức ý – tình trước hết
trong mĩ cảm và tư duy của thi sĩ được gọi là cấu tứ. Tứ là sản phẩm của cấu
tứ, là hình hài ban đầu của chất thơ và được khai triển, nuôi nấng trong suốt
mạch thơ làm nên thi phẩm. Ý là sự khám phá, sự lóe sáng, khải thị về mặt tri
thức. Đó là thời khắc mong manh chủ thể nhận ra ý niệm về sự sống, vũ trụ và
nhân sinh. Cốt lõi để phát sinh ý chính là phải có một vốn sống, vốn văn hóa,
sự trải nghiệm sâu dày đến một giới hạn nhất định, đủ cho ta có thể thấu
suốt/cảm biết sự sống đời trong một khoảnh khắc của sự hiện hữu. Tình vừa là
gốc vừa là dưỡng chất để tu sức và vun đắp ý. Ý phải chín và tình phải đầy. Ý
tình không tách rời nhau trong quá trình khơi tạo mạch thơ và hoàn kết thi
phẩm. Dĩ nhiên, chúng ta đều hiểu rằng, ý tình trong một thi phẩm không bao giờ
là sự hoàn kết. Nó luôn luôn “trinh nguyên”, luôn là sự khởi đầu cho bất kỳ
hành trình thể nghiệm và lý hội qua những chân trời khác nhau.
Trở lại với
đóa vô thường của Mai Văn Phấn. Anh đã đi một chặng thật xa ngược chiều của văn
minh kỹ trị, để khảo tìm ký ức bị lãng quên của con người. Ký ức tinh thần làm
nên bản thể của con người đã bị đánh mất, bị vương vãi/cướp đoạt/trao đổi/mua
chuộc/thỏa hiệp dọc hành trình số kiếp đi tìm sự an trú – càng đi càng rời xa
khỏi căn tính ban đầu, càng tìm càng tha hóa. Nhìn về hành trình thơ Mai Văn
Phấn, nhất là ở bốn tập cuối (Hôm sau, và đột nhiên gió thổi, Bầu trời
không mái che, hoa giấu mặt) ta nhận thấy điều này. “Dây neo trần gian”
giữ nguồn thi cảm của Mai văn Phấn khỏi trượt vào vũng sâu của sự chán chường
và hủy diệt chính là tính thiêng – hạt nhân duy trì, cân bằng và làm nên độ
chụm của ý tình. Trong tận cùng hoang mang, thơ Mai Văn Phấn vẫn không mất đi
niềm tin, gợi lên từ những giá trị thiêng liêng nuôi nấng yếu tính của con người.
Hãy đọc Hôm sau để thể nghiệm niềm bi quan, đọc và đột nhiên gió thổi, Bầu trời
không mái che để thấy thi nhân còn tha thiết và tin tưởng lắm vào khả
năng trở về. Đến hoa giấu mặt, đã thấy hiện hữu một con người, một bản thể:
Vũng nước nhỏ dưới chân
núi
Soi
Tận đỉnh
(Nhìn)
Tôi rất tán
thành với quan điểm của TS. Chu Văn Sơn khi ông cho rằng thơ ca đương đại đang
thực hiện một hành trình, hành trình trở về với cái tôi bản thể. Ông đặt ra một
hệ suy luận: nếu cái tôi thời thơ mới là cái tôi cá thể, cái tôi thời thơ ca
cách mạng là cái tôi tập thể/đoàn thể thì cái tôi của thơ đương đại là cái tôi
bản thể. Cái tôi cá thể soi mình vào mọi người – cái ngoài ta (ngoại vật và tha
nhân) để nhận ra mình còn cái tôi bản thể soi mình vào các giá trị phổ quát để tri
nhận bản lai mục diện của mình. Soi mình là một thể nghiệm, là một thao tác
thuộc về “ý hướng tính” của chủ thể. Richter đã nói một ý rất hay nhưng cũng
thật đáng sợ rằng: “Đứng trước gương, tôi sợ hãi tự nhủ: Ta muốn nhìn trong
gương xem ta giống cái gì với đôi mắt nhắm nghiền” (Nguyễn Hữu Hiệu, Con
đường sáng tạo, Hồng Hà xuất bản - 1973, trang 32). Gương đại diện cho
những giá trị phổ quát, nó bình đẳng khi mọi người đến và soi mình vào. Ai có
thể nhắm mắt để thấy mình trong gương? Chỉ là khi ta có đầy đủ dũng cảm để đối
mặt với giá trị phổ quát của con người, ứng chiếu đời mình vào đấy, nhận ra ta
có khi chẳng giống mình chút nào. Cá thể là con người trong sự phân lập với tha
nhân, còn bản thể là cái gốc của con người. Và như thế, “yếu tính” của hai “hiện
thể” này sẽ không đồng chất.
Bản thể tính
của hoa
giấu mặt chính là sự trở về với niềm an nhiên của sự sống nguyên sinh
trong lòng đời hôm nay. Không hủy diệt thực tại tha hóa và trở về tiền sinh,
tiền sử như Đinh Hùng thuở Mê hồn ca (1943), Mai Văn Phấn đi
tìm những mảnh vỡ của ký ức tinh thần, những tàn dư của giá trị nhân bản trong
cuộc mua bán, đổi chác với văn minh của con người. Thi nhân năn nỉ muôn loài
đừng rời bỏ con người. Đám lá run rẩy ngoài song cửa, con nhện ngủ mơ trên sợi
tơ, đàn chim đập cánh lúc hoàng hôn, đàn cò đậu trên bình minh nham nhở của vụ
gặt, con trâu say ngủ, mạ chưa cấy, hương trăng trong đêm, ban mai hoa nở,
miệng chim non, lửa trong trái chín, tôi đứng giữa hai mùa, vầng mặt trời nhấp
nhô theo chân thiếu nữ lội qua suối (những ý thơ của Mai Văn Phấn),… là chất
sống mới tỏa ra từ đóa vô thường của Mai Văn Phấn. Ý tình dịu và kín đáo, lắng
sâu nhưng có khả năng lay thức mãnh mẽ. Cảm thức về sự vô thường hiện lên khi
ta đứng giữa những khoảng khắc của thời gian, gió cứ thổi qua cạm bẫy và con
thú, làn hương len qua những mũi gai, bước chân sột soạt trên lá – dường như ai
mách lẻo cho quỷ dữ về sự phòng bị của con người hay quỷ dữ đã rón rén ra
đi?… Thi nhân cố gắng hàn gắn, phục dựng
sự sống hòa đồng giữa con người và muông vật như là chứng quả cho niềm hoài
vọng được trở về - một sự sám hối. Ta có thể tìm đâu trong nền văn minh cứng
lạnh sắt thép, bê tông, nóng rẫy những con đường ngày hạ, những đêm lịm im
tiếng gió, triền miên những tranh đoạt và lừa mị này bóng dáng lũ sẻ nâu trên
mái, con ong bên nhụy hoa, con chim sâu chuyền cành và cánh sen ngay ngắn rơi
xuống bùn,… Có thể, tất cả vẫn hiện hữu, nhưng con người đã khước từ/đánh mất
hoặc không có cơ hội để sẻ chia những khoảnh khắc sống ấy. Con người tự biến
mình thành kẻ cô độc trong chiếc hộp sống nhân tạo. hoa giấu mặt tỏa ra hương
thơm nhắc nhủ con người về sự hiện hữu của sự sống diệu kỳ, linh thiêng. Con
người đã rời bỏ sự sống ấy để lao vào cuộc truy tìm chính điều mình đã rời bỏ: Hừng đông/Miệng chim non/Hớp những đám mây
(Ngày mới); Chén trà/Nhấp một
nửa/Nắng trên tán lá còn ướt (Ban mai thanh sạch), Mùa đông/Dính chân con chim/Cất cánh lúc rạng sáng (Con mắt nghiêng - 45), Trong rừng sâu/Con ếch lơ láo/Nhìn tôi (Con
mắt nghiêng - 46),… Đóa vô thường nở trong tĩnh lặng, niềm an nhiên của sự
sống uyên nguyên, nhất thể trở về trong mỹ cảm của Mai Văn Phấn giúp ta có được
trạng thái “thanh lọc” (katharsis) cần thiết cho sự hiện hữu của mình.
Tại sao Mai
Văn Phấn lại chọn thể thơ ba câu cho sứ mệnh trở về của mình? Không thể nói
rằng thơ ba câu của Mai Văn Phấn không có chút dưỡng chất gì từ Haiku của dân
tộc Phù Tang, sự gợi tứ về mặt thể thơ từ Lê Đạt (Thơ hai câu). Mai Văn Phấn ý
thức rất rõ “tiền kiếp” của mình. Anh chọn thể thơ ba câu nhưng rất tự do trong
việc dùng chữ. Không câu thúc vào 17 âm tiết với bố cục 5-7-5 như Haiku, cũng
không nhiều thao tác tư duy chữ nghĩa như Lê Đạt, thơ ba câu của Mai Văn Phấn
tìm về sự an nhiên của chữ, sự lắng sâu của ý, sự tiết chế của tình. Nghĩa là
anh đã “giảm trừ” đi rất nhiều để chất thơ hiện lên trong hình hài vừa vặn nhất
của nó. Sự tinh giản đến mức tối đa về chữ đặt ra yêu cầu phải có tứ thơ thật
sáng, thật chụm: Tiếng sét/Lay bông
huệ/dịu dàng (Con mắt nghiêng - 27). Đó là một thi phẩm trọn vẹn. Đặc tính
của haiku, hai câu và ba câu là nét ưu thắng về mặt tứ. Ngôn từ, thi ảnh để
biểu đạt tứ phải là sản phẩm của một cơ chế “tuyển lựa” và “kết hợp” thật minh
nhiệm. Hầu như không có sự diễn giải, chỉ có niềm an nhiên giữa tịch lặng để
cảm biết về sự sống lay động trong những khoảnh khắc vi diệu của thời gian. Kẻ
bận lòng khó thấy được những chiếc gai đang thu lại, chúng không đâm vào nhau,
nơi ấy làn hương len qua (Trong bụi gai).
Kẻ mưu cầu không thấy gió vô hình, vô tướng hồn nhiên thổi trên những cạm bẫy (Thế đấy). Kẻ vội vã không thấy bông huệ
lay trong ánh chớp (Con mắt nghiêng).
Kẻ vô tình không thấy xót xa khi có người phơi rơm lên ngôi mộ một đời lam lũ (Vô tình),… Tứ thơ biểu đạt chất thơ là
lõi mạch của bài thơ. Tuy nhiên, với thể thơ rất kiệm lời này, tư duy và mĩ cảm
trong tổ chức tứ thơ (cấu tứ) gần như trùng khít với bài thơ. Nghĩa là bài thơ
chỉ là sự hiện hình của chất thơ trong mĩ cảm và tư duy ở dạng uyên nguyên
nhất. Thật khiên cưỡng nếu chúng ta đi giải thích tứ thơ của thơ haiku, hai
câu, ba câu. Sẽ mất nhiều ngôn từ hơn nó vốn có và phá vỡ thế ngưng đọng, tịch
lặng vốn là không gian “mĩ niệm” của thể thơ này. Hãy im lặng để chất thơ lan
tỏa. Im lặng là điểm hội tụ của ưu tư, suy nghiệm - tư tưởng. Nơi ấy, tính thể
của sự sống hiện lên diệu kỳ trong mỗi “sát na”. Có lẽ, đó cũng là lý do để
haiku, hai câu, ba câu, hay những câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ hiện hữu. Nói
như Martin Heidegger: “Hữu thể của hiện thể bao hàm trong ưu tư” (Hữu
thể và thời gian, Trần Công Tiến dịch, Quê hương xuất bản, 1973, trang
5).
Đóa vô
thường đã nở trong ngày thi sĩ trở về. Niềm ưu tư hẳn đã hướng về phía diệu kỳ
của sự sống, an nhiên và tĩnh lặng. Những tưởng đã là như thế, nhưng con người
vẫn có những nẻo quen rất khó từ bỏ. Dĩ nhiên, anh hoàn toàn có thể biện hộ đó
là sự ưu tư về cái xấu, sự mặc niệm cái đã gột bỏ trên hành trình tới im lặng.
Nhưng không, trong Con mắt nghiêng của anh, ta lại đau đớn gặp lại những ký ức
hoài nghi, bi thảm của thân phận: Trong
hội trường/Con nhặng/Đột nhiên cất tiếng (65), Lá cây động/Ra mở cửa/Thủ sẵn cái búa (75), Vẫn chìa khóa ấy/Hôm nay/Không thể mở (86),… Đó là tàn dư của những
ưu tư cũ lạc trong hương đóa vô thường mà thi sĩ mang về. Có thể lý giải điều
này từ những ám ảnh, từ sự âu lo những giá trị phổ quát có thể lại bị lãng
quên, bị tước đoạt, bị nhấn chìm, tha hóa hay khỏa lấp. Thế nhưng, vẫn thấy hụt
hẫng, ngại ngần và lưỡng lự: Mùa
đông/Dính chân con chim/Cất cánh lúc rạng sáng (45). Không thể gột bỏ trong
tôi những ưu tư về Mai Văn Phấn. Còn điều gì phía sau hoa giấu mặt? Anh đã thực
sự trở về?
3. Những hoài vọng xa xôi
Sự chờ đợi
đem đến cho con người niềm tin và hy vọng. Ngay từ Hôm sau với niềm bi quan,
hoài nghi sâu sắc, Mai Văn Phấn vẫn gợi lên nhiều hy vọng. và đột nhiên gió thổi qua
Bầu
trời không mái che, Mai Văn Phấn kể với ta về một loài hoa có tên là hoa
giấu mặt. Bông hoa mà thi sĩ mang về sau hành trình xuyên qua bầu trời
tỏa ra niềm an nhiên, kỳ diệu của sự sống, duy trì bằng tính thiêng là căn cốt
của hy vọng trong suốt hành trình tinh thần của Mai Văn Phấn. Trong niềm hạnh phúc
của ngày về, bất chợt ta lại thoáng thấy những dư âm của Hôm sau. Làm sao để trở
về khi chân ta đã đi quá xa!
N.T.T
(http://www.cuabien.vn/ Tạp chí Cửa Biển, 6/2012)
___________
(*) Ý của
Trịnh Công Sơn