Tập thơ “Tĩnh lặng /Silence” của Mai Văn Phấn
Bình chú của Tiến sĩ Ramesh Chandra Mukhopadhaya.
Nhà xuất bản Hội nhà văn Việt Nam, 2018.

Manas Bakshi*
(Vũ Việt Hùng dịch)
Ông không phải nhà thơ hay nhà văn,
mà là nhà phê bình nổi tiếng, nhà bình chú cẩn trọng. Tiến sĩ Ramesh
Chandra Mukhopadhyaya được nhắc đến nhiều với khả năng riêng biệt trong việc
đào sâu nghiên cứu sáng tạo văn học, đặc biệt thể loại văn học Ấn-Anh; được
biết đến bởi những đánh giá, phê bình sâu sắc và khách quan của ông. Ông thường
tham khảo một chủ đề với khuynh hướng khám phá và bình chú điều tương tự, từng
bước một, nhờ vậy không có vấn đề chân thực nào bị bỏ sót. Ngoài những thành
tựu học thuật – Thạc sĩ Khoa học xã hội, Thạc sĩ nghiên cứu, Tiến sĩ, mối liên
hệ mật thiết của ông với những người nổi tiếng nhờ đức tính của một “chiến sĩ
trong thế giới thầm lặng của văn chương” là điều khiến cách tiếp cận chi tiết của
ông có tiếng vang và có tính thực tiễn.
Cuốn sách đang được bàn luận bao gồm
45 bài thơ mang tên “Tĩnh lặng” trong
tiếng Việt và được dịch thành “Silence”
trong tiếng Anh của Mai Văn Phấn, do Nhà xuất bản Hội nhà văn Việt Nam xuất bản, 2018.
Mai Văn Phấn sinh năm 1955, đã xuất bản 15 tập thơ, được dịch sang 24 ngôn ngữ
trên thế giới. Là chủ nhân một số giải thưởng, ông là nhà thơ Việt Nam được đón
đợi.
Đúng vậy, thật xuất sắc khi cuốn
sách đồng thời được dịch sang tiếng Anh và tiếng Pháp từ tiếng Việt. Về bản tiếng
Anh, nó được hoàn thành bởi Lê Đình Nhất-Lang và Susan Blanshard. Sinh ra tại
Hampshire, Anh, hiện đang sinh sống tại Úc, Susan Blanshard là “dịch giả-nhà
thơ người Anh cho 8 tập thơ song ngữ đoạt giải”. Bên cạnh đó, bản dịch tiếng
Pháp cùng với hình ảnh minh hoạ được hoàn thành bởi hoạ sĩ và đồng thời cũng là
nhà làm phim Dominique de Miscault.
Về phần mình, với tư cách là một nhà
phê bình, Tiến sĩ Ramesh Chandra Mukhopadhyaya thể hiện lập trường sáng tỏ đối
với câu hỏi về tính chân thực và khả thi của lời bình chú, giữ nguyên ý nghĩa của
tác phẩm, trong khi lời bình đó chỉ dựa trên bản dịch của bài thơ. Ông viết: “Ở
đây cũng cần lưu ý rằng chẳng có ý nghĩa nào là cuối cùng cho một bài thơ. Một
người có thể viết một ý nghĩa (M1) cho một bài thơ. Ý nghĩa đó có thể được diễn
giải tiếp (M2). M2 có thể sinh ra M3. Cứ thế ý nghĩa của ý nghĩa của ý nghĩa
hay bình chú của một bài thơ có thể được bình di bình lại hết lần này đến lần
khác”).
Cũng như âm nhạc, thơ ca cũng có sự
hấp dẫn bao trùm, mặc dù nó có thể được viết bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau, và
được “chuyển tạo” sang tiếng Anh. Tôi dùng thuật ngữ “chuyển tạo” chỉ duy nhất
với ý nghĩa thể hiện sự khác biệt với bản dịch văn học thuần tuý – thứ mà khó
có thể khơi gợi ý tưởng và/ hoặc sự vận hành của ý nghĩ đằng sau sự ra đời của
bài thơ. Phải thừa nhận rằng, ý nghĩa của một bài thơ có thể dễ dàng
thay đổi với sự diễn giải của nó theo nhiều cách khác nhau, nhưng ở đây, sự diễn
giải ấy đưa chúng ta đến gần hơn với thế giới thơ ca đã được khái niệm hóa của
Mai Văn Phấn. Không còn nghi ngờ gì nữa, những bài thơ của ông có sức mạnh để
kích thích cái tôi tiềm thức trong chúng ta, và lời bình chú của Tiến sĩ
Mukhopadhyaya khiến cho sự hấp dẫn của những bài thơ ấy trở nên mạnh mẽ hơn, làm sống
dậy trong chúng ta những dòng ý thức.
Cho phép chúng tôi được lựa chọn ngẫu
nhiên một số bài thơ: Bài thơ số 2. Bài thơ mở đầu với những dòng thơ sau:
Tôi là chiếc bình gốm hở miệng
Thông với bên ngoài
Trong tôi
Vườn ươm hạt giống
Nắng sớm đang tưới
Đẫm từng gốc
Trong bản dịch, điểm nhấn đã được chỉ
ra rằng khi “Chiếc bình nói cho sự vô
cùng”, nó được cho là “Người đàn ông nghĩ rằng anh ta chứa đựng trong chính bản
thân mình vũ trụ vô tận”. Sự quan sát chuẩn xác khi chiếc bình gốm hở miệng
thông với thế giới bên ngoài. Hơn nữa, nó được khẳng định rằng “Theo Phật giáo,
chiếc bình biểu trưng cho sự dồi dào tinh thần của Đức Phật”. Đồng quan điểm với
điều này là lời tiên đoán rằng bên trong chiếc bình, đặc biệt hơn, trong cơ thể,
phải có một khu vườn khác biệt với khu rừng, và không có gì ngoài một tâm trạng
tỉnh táo. Và sau đó, đó là một sự chuyển tiếp.
Những dòng thơ cuối được viết như
sau:
Bên dòng sông
Dưới chân tôi nước rút
Thuỷ triều lên
Tôm cá buông mình
Không bơi
Con thuyền tự trôi không cần ai chèo
Tôi không ngồi được quá lâu
Nước vỗ vào mạn thuyền róc rách
Tiếng chim trên cao
Có ai đưa tay gõ mạnh
Vào thành chiếc bình
(trang 236)
Nhà thơ cho rằng chiếc bình gốm là
một con thuyền, nước vỗ vào nó, những chú chim hót gọi trên bầu trời và cú va
đập mạnh vào thành chiếc bình, có nghĩa là “lớp vỏ cái tôi và sự vô tâm của anh
ta đã bị làm lung lay dữ dội bởi ai đó”; nói một cách đáng kể, trên lý thuyết, chúng ta được nhắc nhở về tục thờ
cúng Mặt trời của Việt Nam, theo bằng chứng từ những chiếc trống đồng Đông Sơn.
Và những tia nắng – nhắc nhở ta về sự tích Rằm Tháng Tám của người Việt.
Bài thơ tiếp theo, số 25, như đã được
làm sáng tỏ, nói về “thực tiễn ngoại cảm, thực tiễn này không ở trong cuộc sống
phàm trần cũng không phải thế giới”. Cho phép chúng tôi khái lược về bài thơ
này:
Từng cánh hoa
Rơi xuống
Hương thơm
Nhẹ tinh khôi
Đóng kín cửa phòng
Không cho ai vào
Không cho nắng xiên
Không gió thổi
Nơi Đức Phật vừa hiện
Trong khoảng cách mong manh
Giữa đài hoa và mặt đất.
(trang 287)
Bông hoa như một bộ phận tái tạo của
một loài cây tượng trưng cho vòng quay sự sống, cái chết và tái sinh. Trong bản
dịch, nó được nhấn mạnh rằng “Vô số những ham muốn thôi thúc chúng ta từ kiếp
này sang kiếp khác, mỗi kiếp người trải qua những dằn vặt về sự sống và cái chết”.
Vô vàn cánh hoa của sự ham muốn rơi xuống nhưng hương thơm của nó cứ lan đi
mãi. Trong không gian thoáng qua, chúng ta cầu xin sự khai sáng nhưng nó không
những không được chứa đựng mà còn không tồn tại. Để làm rõ điểm này, nó được
minh định như sau: “Hằng đêm của sự khai sáng, Đức Phật Thích Ca chiêm nghiệm lại
vô vàn câu chuyện cuộc đời của Ngài trong quá khứ qua cái nhìn chớp mắt. Mục
đích duy nhất của các vị Bồ tát là rũ bỏ hằng hà sa số nỗi buồn của chúng sinh
ngổn ngang trong những tiếng kêu than của cuộc đời”. Đó chính xác là những gì xảy
ra khi ánh nhìn nội tâm mở ra và những xúc cảm nhìn sâu vào trong tâm để cảm nhận
rằng “Tâm trí Đức Phật ở khắp mọi nơi”.
Những bài thơ của Mai Văn Phấn không
chỉ hấp dẫn mà còn rất đáng để nghiền ngẫm. Cuốn sách mở ra những sắc thái khác
nhau của một bản cắt ghép với những hình ảnh gợi mở, góc nhìn cảnh vật Việt Nam
và thế giới bất ngờ trong biểu hiện nên thơ của tâm tưởng và cảm xúc của ông.
Nó cũng nói lên rất nhiều xu hướng văn chương và hương vị văn hoá Việt Nam.
Lấy ví dụ như bài thơ số 30, khi nhà
thơ viết:
Con bướm màu đỏ
Lạc lõng
Bay tung tăng
La cà
Đậu xuống đỉnh cây
Không
Nó không lạc lõng
Nó được giải thích chi tiết như sau:
“Màu đỏ trong văn hoá Việt Nam mang ý nghĩa hạnh phúc, tình yêu, may mắn, hoan
hỉ v.v. Tương tự, trong bài thơ số 33, nhà thơ viết:
Dâng cha
Hương trà thơm đậm
Hương hoa ngâu ngoài vườn
Mồ hôi cha bay ngang
Nâng chén sành
Tay cha khô ráp
Trong lòng tay tôi.
Cú chạm mang tính hình tượng trở nên
rung động. Nó còn chỉ ra “tục thờ cúng tổ tiên ”khi nghi thức pha trà là một phần
không thể thiếu trong văn hoá Việt. Còn
hơn thế nữa, người ta có thể đọc ra cách thi ca được hình thành trong nghi
thức pha trà đầy tính ẩn dụ ấy. Vậy có thể coi đây là bài thơ đưa ra một tuyên ngôn về
thi ca”.
Roland Barthes đã tập trung vào hai
loại hình văn chương – văn chương thông thường và văn chương phê bình. Loại đầu
tiên đưa ra văn liệu thông thường cho độc giả nói chung, có thể phục vụ cho mục
đích giải trí. Nhưng loại thứ hai cần nghiên cứu cụ thể cung cấp phạm vi cho việc
giải mã và dịch thuật để nó có thể được hiểu một cách đúng đắn. Không nghi ngờ
gì nữa, lời giải thích của Ramesh Mukhopadhyaya mở ra những không gian mới trong nhiều
cách làm để nắm bắt những gì Mai Văn Phấn muốn biểu đạt theo cách của ông. Sự phác họa
trong bản dịch tiếng Anh của 45 bài thơ của Mai Văn Phấn đưa chúng ta tới gần
hơn những họa tiết của Việt Nam thông qua bức chân dung của sự thanh sạch tâm hồn.
Một ví dụ nữa sẽ làm cho nó trở nên
rõ ràng hơn. Cho phép chúng tôi được tiếp tục với một bài thơ ngắn nhưng rất hấp
dẫn: bài thơ số 41:
Phác lên giấy
Từng nét chì mảnh
Nét rủ xuống làm lá
Đưa lên là hoa.
Những nét chì biểu thị những hoạt động
của thế giới lạ thường được hoàn thiện trong chính nó với lá và hoa. Bài thơ “gợi ý về chân lý Duyên khởi như thế đó. Bông hoa giúp cho quá trình thụ phấn,
từ đó mới sinh ra cây. Những chiếc lá sản ra thức ăn cho cây từ đó nảy nở những bông hoa. Sự bí ẩn của cuộc sống và hiện tồn hiếm khi được giải mã bằng một
cách đơn giản hơn!”. Khi nó được diễn giải, lúc đó chúng ta có một cái nhìn
khác về cuộc sống và cảm nhận thú vị về văn chương thuần Việt. Nói cách khác,
thơ Mai Văn Phấn khi được hình dung qua một bản dịch thích hợp mở rộng cho
chúng ta bằng một cái nhìn sâu rộng vào thơ ca Việt Nam hiện đại có thể gây ấn
tượng trong ta thời gian dài.
Nếu như điều này đáng được nhắc đến,
khi chỉnh lý bản dịch ngôn ngữ Ấn Độ, Ramesh Mukhopadhyaya đã dành nhiều thời gian để
sử dụng những giai thoại có nguồn gốc từ Ấn Độ cùng với suy luận từ thần thoại Ấn
Độ và truyện cổ vĩ đại của Ấn Độ, Mahabharata để làm ví dụ cho một vài bài thơ.
Ví dụ như, khi nghiên cứu về những dòng thơ “Tơ nhện giăng/ Hai đầu tiếng sấm”
(Bài thơ số 12), ông đề cập tới Vajrayana, hay là Tantra, và viết “khi năng lượng
hỏa xà (hoặc Khí?) luân chuyển qua vận hà
sushumna hay kinh mạch chính giữa chạy từ vùng đáy chậu lên và hợp nhất với
luân xa tại đó, ánh sáng [tỉnh thức] phát ra. Nhà thơ được nhiễm điện. Vận hà sushumna là kinh mạch dọc theo các đốt sống,
nơi các luồng điện đi qua và xuất hiện các chấn động khắp cơ thể. Luân xa tim (anahata) khi đó được nạp thêm năng lượng,
có sấm sét trong đó. Thường âm thanh được tạo qua các va đập. Nhưng theo thiền,
đó có thể là tiếng vỗ chỉ từ một bàn tay. Đó là Lời. Khởi thủy là Lời. Đức Chúa
Trời phán rằng: “Phải có sự sáng, thì có sự sáng. Lời ở đây là âm thanh thoáng
hoặc. Đó là tiếng sấm Mose đã được mặc khải”. Sự so sánh đưa ra bút pháp cổ điển
cho bài thơ bí ẩn và kết quả là mở ra tất cả những cánh hoa của thơ Mai Văn Phấn,
lan toả hương thơm ý nghĩa của bản dịch này.
Bản dịch của ông khiến cho từng bài
thơ hoàn toàn có ý nghĩa từ nhiều góc độ khác nhau và mang thêm nhiều không
gian cho sự khai sáng, thứ mà tôi nghĩ rằng, bản thân tác giả hầu như chưa nghĩ
tới. Một lần nữa, Dominque De Miscault, cùng với sự diễn tả ngôn ngữ tiếng
Pháp, đã thể hiện một số bài thơ. Khi sự diễn dịch trong cả hình tượng lẫn câu
chữ bộc lộ ra hình ảnh nội tâm sâu thẳm nhất của bài thơ, nó cứ tiếp diễn mà
không cần nói rằng “ngôn ngữ biểu hiện qua thời gian” và “họa tiết biểu hiện
qua không gian” được thể hiện một cách bao quát ở đây. Tuy nhiên, để kết luận,
tôi muốn dẫn một câu ngạn ngữ Pháp – một bản dịch giống như một cô gái, càng
xinh đẹp thì càng ít tin cậy. Đó là một nỗ lực cho tới thời điểm hiện tại của cả
dịch giả Việt ngữ và nhà bình chú trong việc làm cho tập thơ trở nên mượt mà
nhưng không kém phần chuẩn xác.
_______________
* Tiến sĩ Manas Bakshi, hiện làm trong ngành ngân hàng, là một nhà thơ Ấn-Anh, tác giả truyện ngắn, nhà
phê bình và ký giả. Ông xuất hiện thường xuyên trong các tờ báo và tạp chí hàng
đầu của Ấn Độ. Mười hai cuốn sách trong các tập thơ tiếng Anh của ông, không
tính luận án Tiến sĩ và nghiên cứu sinh, đã được xuất bản bởi Rupa & Co.,
Công ty TNHH tư nhân Firma KLP, Cambridge India, Script và NXB Sparrow,
Authorspress và Hiệp hội Thơ Ấn Độ và được hoan nghênh ở Ấn Độ và trên toàn thế
giới. Là chủ nhân của nhiều giải thưởng, ông cộng tác với một số tổ chức văn học
và học thuật.
Mai Van Phan’s "Tĩnh lặng /
Silence"
Publishing House of the Vietnam Writer’s Association, 2018. Explicated by Dr.
Ramesh Chandra Mukhopadhaya
Manas Bakshi
Neither a poet nor a novelist but a critic of
eminence, an explicator of prudence, Dr. Ramesh Chandra Mukhopadhyaya is
embellished with the distinct quality of dwelling in depth on creative
literature, specially of Indo-English genre; quite known for his insightful and
unbiased critical assessment, he probes into a subject with an inquisitive
inclination and explicates the same, stage by stage, so that no veritable point
is missed. His academic oeuvre—triple M.A., M. Phil., Ph. D apart, his close
contact with the common people by virtue of being a ‘soldier of underground
literature’ is what makes his analytical approach sound and realistic.
The book under review containing some forty five poems is
named Tĩnh lặng in Vietnamese language which means Silence in English. Written
by Mai Van Phan, the book has been brought out by the Publishing House of The
Vietnam Writer’s Association. Born in 1955, Man Van Phan has penned fifteen
poetry books which have so far been translated into twenty four languages all
over the world. Recipient of several awards, he is an acclaimed Vietnamese
poet.
It is indeed remarkable that the book has been translated
simultaneously into English and French from the Vietnamese language. In
English, it has been done by Nhat-Lang Le and Susan Blanshard. Born in
Hampshire, England, now settled in Australia, Susan is an ‘English
translator-poet for 8 award-winning bilingual poetry books’. Side by side,
French rendition of the poems along with some pictorial illustration has been done
by Dominique De Miscault who is an artist and also a filmmaker.
On his part, as an explicator, Dr. Ramesh Chandra
Mukhopadhyaya makes his standpoint clear on the question of veracity and
viability of explication keeping the thought or idea intact while depending
upon the translated version of a poem. He writes: “Here it should be noted that
there could be no final meaning of a poem. One could write a meaning (M1) of a
poem. The meaning could be further interpreted (M2). M2 could generate M3. Thus
the meaning of the meaning of the meaning or the explication of a poem could be
explicated over and over again”.
Like music, poetry too has a universal appeal, though it
might have been written in a different language and transcreated into English.
I use the term ‘transcreated’ only to mean that it is different from just
literary translation which hardly gives vent to the idea and/or thought process
behind the birth of a poem. Admittedly, meaning of a poem may or can easily
vary with its interpretation in more ways than one but here, the interpretation
brings us more close to Phan’s conceptualised world of poetry. Undoubtedly, his
poems have the force to stimulate our subliminal self and Mr. Mukhopadhyaya’s
explication makes the poems’ appeal more forceful so that we can revive our
conscious mind.
Let us take some poems at random: Poem number II. The
poem begins with the lines:
I am a
ceramic vase opening its mouth
To the outside world
Inside
me
A garden is incubating seedlings
Early sunlight soaking
Each plant root
In explication, it is pointed out that while
“a vase speaks of the womb and tomb” it is presumed that ‘a man thought he
might contain in himself the infinite multiverse’. The observation is correct
as the ceramic vase is opening its mouth for exposure to the outside world.
Moreover, it is affirmed that “In the Buddhist context, the vase stands for the
spiritual abundance of Lord Buddha.”. Equally correct is the interpretation
that inside the vase, to be more specific, the body, there ought to be a garden
different from a forest, and it is nothing but a conscious mind. And then,
there is a jump cut.
The concluding lines are
On a
river bank
My feet touch the tide ebbing beneath
On a rising tide
Fish and shrimps just let go
Without swimming
A boat floats with no one paddling
I
cannot sit for long
Water tapping on the sides of this boat
Birds calling from high above
Someone
knocks hard
On the side of the vase. (p. 236)
The poet thinks the ceramic vase is also a boat—water
strikes it, birds call from the sky and a knock is felt on the side of the vase
which means “the shell of his ego and ignorance is being hit hard by someone”;
quite significantly, in the discussion, we are reminded of Vietnam’s worship of
the Sun, as evident from the Dongson bronze drums. And also sunrays—reminding
us of the August Heaven of Vietnamese mythology.
The next poem (25) is, as elucidated, about “the
extrasensory reality which is neither in the worldly life nor the not worldly”.
Let us cast a glance at the poem.
One by
one
A flower’s petals fall
Fragrance
Is light and pure
I shut
the door tight
Not letting anyone in
Nor
slanting sunlight
Nor blowing wind
Where
Buddha has just appeared
Within the fleeting space
Between the receptacle and the ground. (P.287)
A flower as a reproductive organ of a plant
stands for birth, death and rebirth cycle. In explication, it is stated “our
multitudinous desires goad us from one life to another, each life undergoing
the pangs of birth and death”. Countless petals of desire are shedding but the
fragrance lingers. In this fleeting space, we yearn for enlightenment but it is
neither in the receptacle nor on the ground. To justify the point, it is
clarified “Lord Siddhartha Buddha during the very night of enlightenment
revisited the countless life stories of his past in the flash of a vision. The
only object of the bodhisattvas is to rid the sorrow mickle of the masses
weltering in the groans of life”. This is exactly what happens when inner eye
opens and the senses look inward to feel that “Buddha mind is everywhere”.
Mai Van Phan’s poems are not only interesting but also
absorbing. The book offers different shades of a collage with evocative
imagery, view of Vietnamese landscape and the contingent world in versified
manifestation of his thoughts and emotions. It speaks a lot of the literary
trend and cultural flavour of Vietnam also. For instance, in poem number 30,
when the poet writes “A butterfly / Red and lonely / Glides / And flutters / It
lands on a tree top / No / It is not lonely”, it is elaborated in explication —
“Red in Vietnamese culture means happiness, love, luck, celebration etc.”
Similarly, in poem 33, the poet writes “I serve tea to my father / The deep tea
fragrance is blending / With the Aglaia fragrance from the garden / A whiff of
my father’s sweat / Holding the earthenware cup / My father’s hand dry and
rough / Inside my palms”. The imagery of touch is touchy. It also points at
“ancestor worship” since preparing tea “is an inseparable part of Vietnamese
culture. More to it. One could read how poetry is forged in the metaphor of tea
making. Thus here is a poem that holds out a manifesto of poetry”.
Roland Barthes has focussed on two types of
writings—readers friendly and writers friendly. The first one offers materials
for general readership; may also serve the purpose of entertainment. But the
second one which needs careful study provides scope for decoding and/or
interpretation by the readers so that it is properly understood. No doubt,
Mukhopadhyaya’s interpretation opens up new avenues in more ways than one to
grasp what Mai Van Phan has meant to say in his own way. The delineation of
English rendition of Mai Van Phan’s forty five poems brings us close to a
vignette of Vietnam through the portrayal of the tabula rasa of mind.
One more example will make it clear. Let us move on to a
small but catchy poem: number 41. “I sketch on paper / Thin pencil lines /
Downward strokes make leaves / upward ones are flowers.”. The pencil lines
indicate activities of the phenomenal world which is complete in itself with
flowers and leaves. It is an instance of metapoetry which “hints at the truth
of dependent origination, so the flower helps in the pollination whence a fresh
plant is born. The mystery of life and existence has seldom been decoded in a
simpler way!”—Thus it is explicated, thus we get a different view of life and a
delightful literary taste which are purely of Vietnamist origin. In a word, the
poetry of Mai Van Phan as visualised by proper explication enriches us with an
insight into modern Vietnamese poetry which is sure to cast an impact on our
mindset for a long time.
If is worth mentioning, while exacting an Indian
interpretation, Mr. Mukhopadhyaya has taken liberty at times to use some
anecdotes of Indian origin along with inferences from Indian mythologies and
the great Indian epic, the Mahabharata to exemplify some of the poems. For
instance, while dwelling on the lines “A spider web is spun / Between two ends
of thunder” (Poem No. 12) he refers to Vajrayana or Tantra, and writes “when
the coiled energy (or Chi?) travels through the sushumna nadi or the central
channel ranging from perineum upwards and touches certain chakras, there is
light. The poet becomes electrified. The sushumna nadi is the channel along the
vertebra through which the electricity travels, and there is a convulsion of
the whole being. Anahata chakra or heart chakra is charged thereby, and there
is the thunder within. Commonly sound is generated through friction, but
according to zen, there could be clap with one hand. This is the Word. In the
beginning, there was the Word, and God said Let there be light, and there was
light. The Word here is an inarticulate sound. It is the thunder that Moses
decoded”. The comparison gives a classical touch to this esoteric poem and thus
opens all the petals of Mai Van Phan’s poetry spreading the fragrance of unique
explication.
His explication makes each poem perfectly meaningful from
different angles as it explores and adds new dimensions to elucidation which, I
think, the poet himself had hardly thought of. Again, Dominique De Miscault,
along with rendering in French language, has illustrated some of the poems.
When both visual and verbal explication bring out the innermost image of a
poem, it goes without saying that ‘language manifest in time’ and ‘painting
manifest in space’ are dominantly present here. However, to conclude, I would
like to cite a French saying—a translation is like a lady, the more beautiful,
the more unfaithful. It holds good as far as the efforts of both the translator
from the Vietnamese language and the explicator are concerned in making the
collection more beautiful but faithfully so.
____________
* Dr. Manas Bakshi who was in banking service is an Indo-English poet, short
story writer, critic and columnist appearing frequently in leading Indian
papers and journals. Some twelve books of his English poems, apart his PhD
thesis and post-doctoral thesis, published by Rupa & Co., Firma KLP Private
Ltd, Cambridge India, Script and Sparrow Publication, Authorspress and Poetry
Society of India have drawn acclaim in India and abroad. Recipient of many
awards, he is associated with several academic and literary organizations.
