KHẢ NĂNG CO GIÃN CỦA TÂM HỒN

Yên Nguyên
CON CHÀO MÀO
Con chào mào đốm trắng mũ đỏ
Hót trên cây cao chót vót
triu… uýt… huýt… tu hìu…
Tôi vội vẽ chiếc lồng trong ý nghĩ
Sợ chim bay đi
Vừa vẽ xong nó cất cánh
Tôi ôm khung nắng, khung gió
Nhành cây xanh hối hả đuổi theo
Trong vô tăm tích tôi nghĩ
Lát nữa chào mào sẽ mổ những con sâu
Trái cây chín đỏ
Từng giọt nước
Thanh sạch của tôi
triu… uýt… huýt… tu hìu…
Chẳng cần chim lại bay về
Tiếng hót ấy giờ tôi nghe rất rõ.
Mai Văn Phấn
Lời bình của Yên Nguyên:
Tôi đang sống ở tầng 18 một
căn chung cư giữa thành phố Hà Nội, nơi mà mỗi ngày nhìn ra chỉ thấy hàng trăm
cái cửa sổ giống hệt nhau như trăm con mắt rỗng mở vào không gian. Ở đó, bầu trời
rất gần nhưng không hề sống động. Mây cũng rất gần nhưng giống những vết sẹo
chi chít trên nền trời. Ở đó, mỗi ngày tôi thấm thía hơn những tổn thương mà
con người phải chịu đựng khi xa cách với thiên nhiên. Những tổn thương ấy càng
rõ khi tôi đọc bài thơ Con chào mào của Mai Văn Phấn.
Mai Văn Phấn là một nhà thơ Việt Nam hiện đại nổi
tiếng. Tác phẩm của ông có sự cách tân vượt trội về bút pháp và khuynh hướng
thâm nhập vào bản chất của đời sống. Vượt ra khỏi biên giới quốc gia, thơ Mai
Văn Phấn là tiếng nói giàu ý nghĩa về những vấn đề chung của nhân loại. Sự tinh
tế, tài hoa và khả năng sáng tạo mạnh mẽ, sự kiên định trong tìm tòi đổi mới là
điểm nổi bật của thơ Mai Văn Phấn. Một bài thơ ngắn như Con chào mào
cũng hội tụ trong đó những vấn đề lớn về cả bút pháp và nội dung.
Bài thơ gồm 16 dòng, không có từ chỉ
cảm xúc, không có tính từ (những yếu tố tạo chất trữ tình thường thấy trong
thơ). Bài thơ không vần nên cũng không có âm hưởng dìu dặt quen thuộc. Nhạc
tính của tác phẩm được tạo nên bởi các từ láy (chót vót, hối
hả); phép điệp (khung nắng,
khung gió, tiếng hót);
cấu trúc vòng tròn (sự
xuất hiện của tiếng hót đầu và cuối bài thơ). Trong quan hệ với cấu trúc câu thơ, đoạn
thơ, các thanh điệu được sử dụng linh hoạt, tinh tế, đầy sáng tạo:
Vừa vẽ xong nó cất cánh
Tôi ôm khung nắng, khung gió
Nhành cây xanh hối hả đuổi theo
Ở đoạn trên, dòng thơ đầu là một câu, hai dòng còn
lại là một câu hoàn chỉnh, khi đọc phải liền mạch. Tiếng cuối của hai dòng đầu thanh
trắc, tiếng cuối dòng thứ ba là thanh bằng. Cách hòa thanh tạo nhịp thơ nhanh,
gấp, hối hả ban đầu, sau đó giãn ra, kéo dài thanh thoát. Đoạn thơ vì vậy trở nên giàu tính
nhịp điệu. Cảm xúc, thái độ của tác giả không bộc lộ trực tiếp, một bài thơ như
vậy, cần đến rất nhiều sức tập trung và sự đắm mình sâu sắc của người đọc. Cũng
kín đáo tương tự, lời thơ Mai Văn Phấn chân phương mộc mạc để không che khuất một
thế giới đa tầng, đa âm đằng sau đó.
Tầng gần nhất, bài thơ
là câu chuyện giản đơn của nhân vật Tôi với hành trình nhận thức về mối
quan hệ với tự nhiên. Bài thơ mở đầu với hình ảnh con chào mào xinh đẹp “đốm
trắng mũ đỏ”, với tiếng hót lảnh lót rộn rã, trong một không gian khoáng đạt,
rộng rãi “trên cây cao chót vót”. Bức tranh thiên nhiên hiện ra hài hòa,
sống động, một tạo tác tuyệt mĩ của tự nhiên. Vẻ đẹp ấy làm dậy lên một chuỗi
những cảm xúc từ ngưỡng mộ, mê say đến khao khát chiếm hữu.
Tôi vội vẽ chiếc lồng
trong ý nghĩ
Sợ chim bay đi
Nhưng thiên nhiên không
chiều theo ham muốn của con người
Vừa vẽ xong nó cất cánh
Tôi ôm khung nắng, khung
gió
Nhành cây xanh hối hả đuổi
theo
Có một dòng chảy gấp
gáp, mạnh mẽ của cảm xúc và ý nghĩ đang chi phối toàn bộ tâm trí nhân vật trữ
tình. Ham muốn chiếm hữu khiến con người làm tất cả để đạt mục đích. Nhân vật tôi
ôm cả khung nắng, khung gió, cả nhành cây xanh đuổi theo con
chim, hòng lấy không gian trong trẻo, tươi tắn thu hút nó. Cuộc theo đuổi dụ dỗ
diễn ra trong tâm tưởng mà sức mạnh của khao khát tưởng như xô đổ cả câu chữ.
Xin được dừng ở đây để
nhìn bài thơ từ mạng lưới chằng chịt của văn hóa Á Đông, nơi ý thức tôn vinh tự
nhiên là một diễn ngôn tiêu biểu. Văn học Việt Nam cũng ghi nhận những ước lệ cố
định về mối quan hệ hài hòa của con người với môi trường sinh thái. Đó là một
quan hệ lý tưởng, thể hiện sự gắn bó sâu sắc của con người với thế giới tự
nhiên. Nhưng oái oăm thay đằng sau đó là nỗi sợ sinh thái. Bởi nỗi sợ ấy mà con
người luôn muốn chiếm đoạt, kiểm soát, chế ngự thiên nhiên. Sâu phía dưới lòng
yêu chuộng, con người hiểu rõ sức mạnh của tự nhiên. Từ góc nhìn này, bài thơ Con
chào mào đứng ở tâm điểm văn hóa khu vực. Nó cho thấy chính xác tâm lý phổ
biến của con người Á Đông sau những biểu hiện của một ham mê tưởng như vô hại. Thấy
được điều đó mới nhận ra ý tưởng nào chi phối phần tiếp theo của bài thơ.
Trong vô tăm tích tôi
nghĩ
Lát nữa chào mào sẽ mổ
những con sâu
Trái cây chín đỏ
Từng giọt nước
Thanh sạch của tôi.
Đoạn thơ trên thực sự
không dễ đọc. Ngôn từ thơ đạt đến độ hàm súc nên thơ mở nghĩa ra nhiều hướng,
như những vòng sóng vừa biệt lập vừa giao thoa.
Nếu nhìn từ logic tâm lý
thông thường, đoạn thơ cho thấy con người không dễ buông bỏ ham muốn. Dù biết
không giữ được con chào mào cho riêng mình, nhân vật trữ tình vẫn nuôi hy vọng.
Người ấy vẫn mong con chim xinh đẹp đón nhận những trái cây chín đỏ, những
giọt nước thanh sạch của mình như đón nhận một tấm lòng.
Nếu nhìn từ sự lý tưởng
hóa, nhân vật tôi mới vẽ chiếc lồng trong ý nghĩ đã lập tức ân hận và xấu hổ. Nhận ra sự ích kỷ
của mình nhân vật trữ tình tự vẽ ra một không gian tự nhiên, giàu có, ấm áp như
là món quà chuộc lỗi với con chim. Với nhân vật tôi, không gian ấy thanh
sạch bởi nó không bị những ý nghĩ ích kỷ hẹp hòi làm vẩn đục.
Đến đây, ta hiểu thế giới tự nhiên (qua hình tượng
con chào mào) không phải là đối tượng chính của lời trữ tình. Nhà thơ Mai Văn
Phấn đã khẳng định trạng thái hoàn hảo của tự nhiên bất chấp sự can thiệp của
con người. Điểm hội tụ của bài thơ chính là những cảm xúc, suy tư của con người
về sự ràng buộc và cách con người can dự vào tự nhiên. Bởi những ngộ nhận về vị
trí, vai trò trung tâm, đồng thời sâu trong tiềm thức là nỗi sợ sinh thái, con
người đã lạm dụng quyền lực, muốn nô lệ hóa tự nhiên. Họ quên mất một điều: con
người là một phần của tự nhiên, con người không thể sở hữu tự nhiên mà chỉ có
thể sống hòa hợp, tương giao cùng vạn vật. Thật kì quặc khi tấn công, chiếm dụng,
hủy hoại chính ngôi nhà của mình, chính sinh mạng của mình. Thật vô nghĩa khi
đuổi theo chiếm hữu cái đang là chính mình. May mắn thay, bài thơ đã mở ra một
thức nhận giản dị mà sâu xa: Con chào mào trong bài thơ cũng như con người, có
quyền sống tự do, yên ổn với môi trường của nó. Con người chỉ nên thưởng thức vẻ
đẹp của thiên nhiên mà không được phép chiếm hữu làm của riêng. Đó mới là ý
nghĩa chân thực của sự sống.
Từ mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, bài thơ
mở ra những tầng rất sâu, rất ấm về mối quan hệ của con người với chính mình.
Không có chỗ nào dụng công, nhẹ như lời nói, thanh đạm và hồn hậu, bài thơ là một
cách lắng nghe chính mình. Yêu và chiếm hữu hoàn toàn khác nhau. Khi người ta
yêu tự nhiên như yêu bản thân, người ta sẽ tự do trong môi trường sinh thái vĩ
đại. Nếu chiếm hữu, kẻ bị tổn thương chính là ta. Những tổn thương mà con người
gặp phải hầu hết đến từ chính mình, “Kẻ gây rối đích thực nằm bên trong ta”
(Dalai Lama).
Bài thơ khiến tôi chợt nghĩ đến khả năng co giãn của tâm hồn. Khi tâm hồn
uyển chuyển và mềm dẻo, tôi sẽ biết cách sống một cách hòa hợp với thế giới
xung quanh, với tiếng hót ngân vang của những tạo vật bé nhỏ và xinh đẹp như Con
chào mào
triu...uýt...huýt...tu hìu...
Chẳng cần chim lại bay về
Tiếng hót ấy giờ tôi nghe rất rõ.
Y.N

Sơ đồ giáo án của thầy giáo Nguyễn Lương Hùng