Tuệ Mỹ

Tác giả Tuệ Mỹ
Đọc bài thơ “Về làng” của Mai Văn Phấn
Về làng
Tiếng
dệt chiếu
Trăng
trên sông
Nhạt
dần
(Rút từ tập thơ "hoa giấu mặt", Nxb Hội nhà văn, 2012)
Mai Văn Phấn
Lời bình của tác giả Tuệ Mỹ:
Có ai xa quê mà không mong muốn “về làng”, về
với cội nguồn sinh dưỡng của mình. Có người nào sống kiếp tha hương mà không
nhớ nhung về quê cũ. Chàng trai trong ca dao “Anh đi anh nhớ quê nhà/ Nhớ canh
rau muống, nhớ cà dầm tương”. Còn người tha hương trong bài thơ này nhớ về làng
quê mình là nhớ “Tiếng dệt chiếu”, tức nhớ làng nghề truyền thống đáng tự hào
của quê mình. Không khí lao động cần mẫn của bà con làng nghề dệt chiếu luôn
được diễn ra trong khung cảnh thiên nhiên thơ mộng có ánh trăng trong soi
chiếu. Giống như cảnh trong bức tranh này “Ánh trăng trải chiếu hai hàng/ Bên
anh đọc sách, bên nàng quay tơ” (Ca dao). Thường thì trong nỗi nhớ của người xa
quê, cố hương càng trở nên đẹp đẽ lạ thường. Vậy nên trước lúc “về làng”, chắc
hẳn hình bóng quê hương hiện lên đầm ấm và tuyệt đẹp trong lòng người con xa xứ.
Và tâm trạng của người về làng lúc này chắc là vui lắm. Thực tế khi đã
đặt chân lên mảnh đất cố hương thì:
Tiếng dệt chiếu
Trăng trên sông
Nhạt dần
Bài thơ này gợi
cho tôi hai luồng tư duy và cảm xúc, thật lạ! Luồng tư duy thứ nhất, tôi suy
xét thuần lý trên thủ pháp nghệ thuật. Tác giả “Về làng” vào một buổi đêm.
Trong màn không tĩnh mịch của làng quê chỉ vọng ra tiếng dệt chiếu đơn lẻ và
cần mẫn. Khi nghe tiếng của khung dệt trong khung cảnh làng, Mai Văn Phấn nhìn
thấy trăng trên sông. Ừ, mà lạ, sao nhà thơ không nhìn thấy hình ảnh khác mà
lại trăng nhỉ? Trăng ở đây trải ra trên mặt nước sông quê, hình như không có
sóng, hình như lặng lẽ… Ở đây ta thấy hai hình ảnh “Tiếng dệt chiếu” và “Trăng trên sông” đều ở xa nhau, như chẳng có
mối liên hệ nào nếu chúng đứng độc lập. Nhưng tác giả lại sắp đặt chúng trong
một bài thơ, nên đã tạo ra hàm nghĩa mới, rất đẹp và lạ. Tiếng dệt chiếu là âm
vọng từ chiếc khung dệt, từ tay người dệt, một hình thức lao động thủ công. Còn
ánh trăng là sản phẩm tự nhiên của tạo hóa, là bước chân của thời gian. Sự đồng
hóa hai hình ảnh này cho ta thấy, trăng đang vang lên tiếng của khung dệt, và
tiếng dệt chiếu cũng đang dệt nên hình bóng của trăng. Ý độc đáo và cũng là
điểm nhấn trong bài thơ nằm ở câu thơ thứ 3, “Nhạt dần”. Vậy là lúc này, chiếc
chiếu dần hình thành nên khoảng trăng, và trăng đang đi gần đến đoạn cuối hành
trình của mình.
Tôi xin tiếp tục với luồng tư
duy thứ hai và cũng nghiêng về cách cảm nhận này. Vẫn còn nghe “tiếng dệt chiếu”, vẫn còn thấy “trăng”
nhưng giờ đã “nhạt dần”. Buồn thật! Bởi “dệt chiếu” là nghề cổ truyền làm nên
nét văn hóa truyền thống của dân tộc. “Tiếng dệt chiếu” “nhạt dần” có phải đó
là dấu hiệu dần mai một của làng nghề truyền thống. Còn “trăng” bao đời vẫn là
trăng, vẫn là hình ảnh thiên nhiên trong sáng vĩnh hằng. Trăng “nhạt dần”, phải
chăng đây là vầng trăng tâm trạng. Không còn nhìn thấy vầng trăng sáng tỏ trải
chiếu trên sân nhà hòa với “tiếng dệt chiếu”, hòa với không khí lao động cần
mẫn nhưng đầy chất thơ của con người như trước đây, người hồi hương đành tìm
đến “Trăng trên sông”. Lòng vốn không vui trước thực tế đáng buồn về làng nghề
dần bị lãng quên nên “trăng trên sông” cũng không còn đậm đà chất thơ nữa mà nó
đã “nhạt dần” đồng cảm với nỗi buồn của con người trước sự phôi pha của những
giá trị văn hóa truyền thống. Viết về một nét văn hóa ở làng quê sắp đi vào
quên lãng, nhà thơ cũng không quên đưa vào yếu tố thiên nhiên (trăng). Có phải
thiên nhiên cũng là một phần đời của con người ở làng quê. Cũng như văn hóa
truyền thống là phần hồn của con người vậy.
Bức tranh “Về làng” được tác giả vẽ nên bằng
những hình ảnh (con người, vầng trăng, dòng sông), bằng âm thanh (tiếng dệt
chiếu) và bằng sắc màu (nhợt nhạt màu trăng). Quả là một bức tranh ảm đạm, đìu
hiu! Trung tâm của bức tranh vẫn là hình ảnh con người “về làng”. Lúc này chắc
anh đang ở tâm thế háo hức lắng nghe âm thanh “tiếng dệt chiếu” rộn rã như ngày
xưa đã từng nghe. Nhưng rồi anh rơi vào hụt hẫng ngay vì âm thanh ấy giờ đã
thưa thớt “nhạt dần”. Lòng anh lúc này se buồn và dâng lên một niềm nuối tiếc
thời “vàng son” của quá vãng. Phải, không buồn, không nuối tiếc sao được khi
những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc dần bị mai một. Vui mừng đón
nhận cái mới của đời sống công nghiệp hiện đại nhưng có người Việt nào mà không
mong muốn lưu giữ tâm hồn Việt, giữ gìn bản sắc dân tộc mình? Đó có phải là nỗi
niềm mà nhà thơ Mai Văn Phấn muốn gửi gắm qua bài thơ nhỏ này?
Bài thơ “Về làng” gợi nhớ đến truyện ngắn “Cố
hương” của nhà văn Lỗ Tấn (Trung Quốc). Sau hai mươi năm xa quê, nhân vật “Tôi”
trong truyện ngắn về thăm cố hương, lòng không khỏi buồn đau trước hiện thực cố
hương bị “xuống cấp” thê lương về cảnh vật và con người. “Tôi” lại tiếp tục rời
quê để tìm “con đường” đổi mới cố hương. Ở bài thơ này, nhà thơ Mai Văn Phấn
không hé lộ việc “tìm đường” nhưng thấp thoáng sau bức tranh “Về làng”, người
đọc vẫn cảm nhận được việc “ tìm đường” hồi sinh những giá trị văn hóa truyền
thống dân tộc. Việc tìm đường đâu phải chỉ dành riêng cho tác giả mà là cho bất
kỳ ai có tâm huyết với việc gìn giữ văn hóa truyền thống dân tộc mình.
Bình Định 24/4/2016
T.M
.jpg)
Tranh của Họa sỹ Đào Hải Phong