Gjeke Marinaj: “Cảm hứng sáng tác đã kiểm soát tôi” - Phạm Thị Thùy Linh thực hiện PV
Nhà thơ - Tiến sĩ Gjeke Marinaj:
“Cảm hứng sáng tác đã kiểm soát tôi”
Phạm
Thị Thùy Linh thực hiện
Phạm
Văn Bình dịch từ bản Anh ngữ
Đầu tháng 6-2014, Nhà thơ - Tiến sĩ Gjeke Marinaj đến Việt Nam và có những cuộc giao lưu với Đại diện lãnh đạo
Hội Nhà văn Việt Nam, Trung tâm Dịch thuật thuộc Hội Nhà văn Việt Nam, cùng các
nhà văn, nhà thơ, nhà lý luận phê bình Việt Nam. Cùng với lần đầu đến Việt Nam, ông có “lời chào” đặc biệt bằng ấn phẩm thơ Việt ngữ mang tựa đề “Những hy vọng trong suốt” (Nxb. Hội Nhà văn VN, 2014), do nhà thơ Nguyễn Chí Hoan
dịch từ Anh ngữ sang Việt ngữ. Đây cũng là lần đầu thơ ông được xuất bản tại
Việt Nam. Gjeke Marinaj trao đổi một số quan điểm sáng tác của mình với bạn đọc
Hải Phòng cuối tuần.
- Chào mừng nhà thơ đến với Việt
Nam với lời chào mang tên “Những hy vọng trong suốt”. Tôi chắc, đây là tập thơ
đầu tiên của ông được xuất bản bằng tiếng Việt sau nhiều tập thơ tiếng Anh và
tiếng mẹ đẻ Anbani của ông. Cảm xúc của ông thế nào khi tập thơ lần đầu bước
chân vào thế giới thơ của Việt Nam?
- Cám ơn chị. Tôi hân hạnh và vinh dự khi được
tạo nên một cuộc đối thoại văn học ba bên giữa Anbani, Hoa Kì và Việt Nam. Ngay
giờ đây tôi cảm thấy như đang thuộc về cả ba đất nước này. Đó là một trong
những sứ mệnh đặc biệt của văn học kết nối chúng ta vượt qua những ranh giới địa
lí. Mới đây, tôi chuyển ngữ sang tiếng Anbani tập thơ của nhà thơ Mai Văn Phấn.
Anh là một trong những nhà thơ Việt Nam mà tôi yêu thích. Tập “Những hy vọng
trong suốt” mà chị nhắc tới là tập thơ của tôi được Nguyễn Chí Hoan dịch từ Anh
ngữ sang Việt ngữ. Vượt qua những ngôn ngữ đời thường, ngôn ngữ thơ giúp tôi
hoàn thành sứ mệnh của nhà thơ, thể hiện được các giá trị và quan điểm mà không
chịu ràng buộc bởi bất cứ điều gì. Tôi cảm thấy vinh hạnh khi thơ tôi bước vào
thế giới thơ tiếng Việt của các bạn.
- Tôi nhận ra, phần lớn các bài
thơ trong tập thơ này đều khai thác chủ đề thời sự xoay quanh những sự kiện,
biến động chính trị, chiến tranh, di dân… Đó có phải là mảng đề tài ông tâm
đắc?
- Thông thường, tôi không sáng tác theo những
miền xác định về đề tài và bạn đọc. Thơ ngấm trong máu tôi chứ tôi không được
chỉ định để làm thơ. Tôi chưa từng rối trí về việc lựa chọn thể tài của những
bài thơ mình sáng tác. Hay việc phân vân nên viết gì cho ngày hôm nay. Những gì
tôi có thể cảm nhận được là tôi không thể kiểm soát được cảm hứng của mình mà
ngược lại, chính là cảm hứng sáng tác đã kiểm soát tôi. Tuy nhiên, những gì xảy
ra hằng ngày cũng có tác động tới những người sáng tác thơ chúng tôi. Và rồi,
tôi thấy sức hấp dẫn từ những điều bình thường ấy. Tôi trải nghiệm những cơn
đau thắt tim, gặp những nhân vật cá tính đặc biệt, cảm nhận một giấc mơ thật sống
động, thấu tỏ tình yêu, nỗi đau hay xót thương con người, sự vật… Những khoảnh
khắc ấy truyền cảm hứng cho tôi có khi thôi thúc tôi bật ra những câu thơ ngay
tắp lự. Hoặc chắp nối lại, xâu chuỗi lại để diễn đạt trong những bài thơ mang
tính hệ thống khác. Rồi đến lúc, tôi sáng tác được nhiều bài đủ để xuất bản một
tập thơ, tôi sẽ phân nhóm theo đề tài. Dù vậy, trong tất cả những đề tài tôi
từng sáng tác, nếu được chọn, tôi chỉ muốn được sáng tác về tình yêu con người.
Vì tình yêu tưởng như mơ hồ nhưng chúng ta sẽ biến tình yêu thành thật bằng
ngôn ngữ thi ca.
- Những câu chuyện ông chọn trong
những sản phẩm tinh thần của mình đôi khi khắc nghiệt và có cả nỗi đau trong đó
nữa. Có phải, ông muốn chứng minh chân lý không có ranh giới trong mọi khuynh
hướng sáng tác của thơ dù nhà thơ khai thác đề tài gì?
- Nói theo một cách tự nhiên thì tôi là người
thuộc trường phái Proton(*). Tôi sáng tác tập trung vào những mảng, lĩnh vực
tích cực của hiện thực. Tôi không phải là người theo thuyết kiên định tin vào
những chuyển động của cuộc sống hay những lựa chọn mặt đạo đức hiển lộ rõ rệt
trước mắt qua thực tế hữu hình và những nguyên nhân tồn tại xác định. Khi thế
giới đang chuyển động tới tương lai tốt đẹp hơn, tôi cố gắng ghi lại những nỗ
lực của con người thúc đẩy quá trình ấy. Tôi thuộc về cộng đồng và những sáng
tác của tôi mang theo hy vọng về trật tự xã hội, mong sao mọi thứ trở lại đúng
quỹ đạo trong một tương lai hòa bình. Còn hơn là ngồi đó mà ôm những hy vọng mơ
hồ không có thật. Muốn làm được vậy, cần phải nhận ra khó khăn, thách thức,
phải đối mặt với chúng một cách thông minh không vị kỉ, và truyền tải những cố
gắng ấy tới nhiều thế hệ với thái độ tích cực. Quá trình vận động đương nhiên
sẽ bao hàm cả điều có thể và không thể. Song tôi có một giới hạn nhất định, đó
là tôi không làm ngược lại với những gì tôi chứng kiến hay cảm nhận trong cuộc
sống của tôi. Tôi nhạy cảm với những gì đau đớn và thống khổ của con người,
loài vật và môi trường. Điều đó có sẵn trong từng tế bào của tôi. Chính vì thế,
tôi luôn cảm thấy thích thú khi quan sát, cảm nhận rồi viết ra những dòng thơ ghi
lại thực tế rồi chuyển tới công chúng. Làm được điều ấy, tôi cảm thấy tuyệt vời
hơn nhiều lần so với những quy chuẩn khác. Và tôi nghĩ, đó cũng là quan điểm
sáng tác của phần lớn những người làm thơ như chúng tôi. Mặc dù, tôi vẫn có thể
sáng tác mà không cần quan sát hay cảm nhận thực tế. Nhưng nếu bỏ qua sự thực thì
thơ ca sẽ chỉ là những lời dối trá mà thôi. Cho nên, để công bằng với người
sáng tác, sứ mệnh và nhiệm vụ của tôi là ngăn điều đó xảy ra bằng cả cuộc đời
sáng tác của mình.
- Trong bài “Một người mẹ nói với
con trai là nhà thơ”, ông phần nào nói lên chân lý này qua suy nghĩ của người
mẹ. “Giờ đây, những người khác đo con bằng những dòng con viết. Con là một nhà
thơ. Và tầm với của các nhà thơ vươn ra ngoài cương giới của không gian”. Ấy là
suy nghĩ của người mẹ hay thực là một thông điệp của nhà thơ với công chúng yêu
thơ của ông?
- Tôi làm bài thơ “Một người mẹ nói với con
trai là nhà thơ” cách đây 30 năm khi mới 18 tuổi. Bài thơ được in trong tạp chí
"Zëri i rinisë" (Tiếng nói thanh niên) vào năm 1990. Tôi là anh cả trong
gia đình sáu người con có thu nhập thấp. Tuổi thơ tôi trải qua những tháng ngày
cơ cực trong khó khăn. Để cải thiện tình hình, tôi làm mọi việc có thể để giúp
đỡ cha mẹ từ khi còn là cậu bé 12 tuổi. Ngày ấy, tôi chưa có duyên với những
suy tư như bây giờ mà chỉ tập trung vào những công việc lao động tay chân trong
đó có việc giúp mẹ tôi trồng đào. Dù hoàn cảnh sống khó khăn, mẹ không bao giờ ngăn
cản tôi quan sát sự vật hiện tượng chung quanh. Bà luôn yêu quý tôi. Tôi cảm
nhận được sự áy náy của mẹ. Để an ủi và động viên tôi, mẹ thường khen ngợi “cái
vẻ đẹp trai”, “tình cảm chân thật”, “những suy nghĩ sâu sắc” và những thành
tích khác của tôi. Đôi khi, mẹ tôi bảo tôi đứng thẳng người dựa vào những thân
cây đào. Bà dùng tay thay máy ảnh chụp những bức ảnh tưởng tượng cho con với hậu
cảnh là những chùm hoa đào rực rỡ sau lưng. Cứ mỗi ngày đầu xuân mới, mẹ lại vạch
thêm một vạch lên thân cây. Năm sau, bà lấy tay đo để xem tôi đang lớn nhanh thế
nào. Tôi yêu sự quan tâm của mẹ và cảm nhận trọn vẹn tình yêu thương của mẹ
mình. Và cứ qua mỗi một năm, tôi lại cảm thấy một lớp mới của bài thơ đang được
hình thành cho tới khi bài thơ trào ra từ trái tim tôi, tràn xuống những trang
giấy trắng trong cuốn vở viết của tôi. Mẹ tôi chính là nguồn cảm hứng của tôi,
giúp tôi có được giấy thông hành thơ. Trong bài thơ này, bà trở thành người kể
chuyện và là hồn cốt của bài thơ này. Để tôi có được bài thơ “Một bà mẹ nói với
con trai của mình là một nhà thơ”. Thật lòng, tôi cảm ơn chị đã đặt câu hỏi này
và cho tôi một cơ hội lần đầu được ca ngợi mẹ tôi sau những gì bà giúp tôi sáng
tác được bài thơ này. Và tôi cũng muốn cảm ơn tất cả những người mẹ đồng hành
cùng con mình trong sự nghiệp làm thơ và giúp chúng có thêm nỗ lực để trở thành
nhà thơ.

- Phải nói rằng, đọc đến bài thơ
“Những cô gái California” của ông, tôi thấy mọi miền gái đẹp đều biến mất.
Trong mắt ông, nếu không có những cô gái đẹp California, cái đẹp sẽ mồ côi, mồ
cút… Mới thấy cái đẹp trong mắt nhà thơ mới long lanh làm sao. Có phải các nhà
thơ đều tuyệt đối hóa cái đẹp trong thơ mình như vậy?
- Thơ là cái đẹp và cái đẹp là thơ. Nhưng đó
chỉ là lý thuyết. Tôi xin được trả lời câu hỏi này tách rời ra khỏi triết luận
ấy. Tôi sử dụng thi pháp hiện thực kì ảo để sáng tác bài thơ này. Có nguyên do
của nó. Ở nước Mỹ, đang xuất hiện trào lưu chống lại những người phụ nữ tóc
vàng. Những cô gái trẻ tóc vàng thường bị ấn tượng xấu khi nhắc đến. Họ gán cho
các cô những biệt danh như “những cô gái tóc vàng ngu ngốc” hoặc giới tính bất
định. Không chỉ diễn ra trong cuộc sống đời thường mà quan niệm này còn xuất
hiện trên truyền hình và phim ảnh. Hành động này cần phải dừng lại. Để cảnh báo
hiện trạng này, tôi sáng tác bài thơ “Các cô gái California” với phương thức
biểu hiện mang tính trừu tượng. Qua bài thơ, tôi muốn nói tất cả những người
phụ nữ đều đẹp. Kể cả những cô gái tóc vàng. Không có họ, khái niệm hoàn hảo về
cái đẹp sẽ không còn trọn vẹn vì đã thiếu hụt đi những vẻ đẹp trẻ trung của
những thiếu nữ tuyệt vời ấy.
- Đây là lần đầu tôi đọc thơ của
một nhà thơ Albania. Và chắc chắn là lần đầu đọc thơ ông. Song, tôi nhận ra
nhiều nét tương đồng trong thi ảnh ông sử dụng nhắc tôi nhớ tới một số nhà thơ
của Việt Nam. Có thể gọi đó là sự đồng điệu của thi ca trên toàn thế giới
không? Hoặc trong thơ ông có nét duyên gần gũi với phương Đông của chúng tôi?
- Thơ là một hình thái nghệ thuật thuần khiết
và vô hình. Cũng giống như không khí thanh sạch nhất mà chúng ta hít thở. Mỗi
người sẽ có những cảm nhận khác nhau. Ta biết được sự hiện hữu của không khí vì
ta hít thở nó. Đầu vào như nhau, đều trong sạch. Nhưng khi thở ra, tùy theo
từng miền xác định mà không khí sẽ trong sạch, ấm áp, vô hại hay nhiễm khuẩn. Thơ
cũng vậy. Trong câu trả lời này, tôi muốn được chào đón các bạn tới thế giới
thơ khiêm nhường của tôi và thông qua đó có một phần rất nhỏ của nền thơ
Anbani. Tôi muốn cảm ơn dịch giả Nguyễn Chí Hoan giúp thơ tôi đến được với các
bạn bằng ngôn ngữ của các bạn.
Nhưng không chỉ đơn giản là vậy. Mỗi một nhà
thơ, một quốc gia thơ đều có những cách khai thác hình tượng riêng biệt. Từ chủ
thể chung là thiên nhiên và những sự vật hiện tượng hình thành nhiều hình tượng
thơ. Hình tượng thơ không phải là một bản sao nguyên gốc của sự vật hiện tượng.
Khi cùng khai thác nguồn gốc ban đầu của sự vật, các nhà thơ dường như nằm
trong một sự đồng bộ hóa về mặt nghệ thuật, vượt qua những ranh giới địa lí,
ngôn ngữ. Tuy nhiên, nếu tinh ý một chút, các bạn sẽ nhận ra tính phổ biến của
hình tượng được đặt trong tồn tại khách quan về mặt nghệ thuật và dịch thuật.
Trong tiếng Anbani, sự tương đương của từ dịch
là përkthim, một từ ghép për kthim có nghĩa là đi hoặc cố gắng mang lại hay
quay trở lại. Để mượn lời của Aristotle – khi ông đang ở trong một cuộc nói
chuyện về những sự khác biệt giữa ông với Plato về ý nghĩa của vạn vật: “Thân
thiết là Plato, nhưng thân thiết hơn lại là sự thật” – sự thật thân thiết hơn. Câu
hỏi của chị là một lời khen ngợi xứng đáng đối với dịch giả Nguyễn Chí Hoan. Ông
đã thành công trong việc đưa chị tới những hình tượng trong thơ tôi. Không chỉ bằng
tiếng mẹ đẻ của chị mà còn trong một công việc thêm một lần sáng tạo để bạn đọc
nhận ra những nét thân quen, tương đồng và gần gũi như nhiều hình tượng trong
các tác phẩm của các nhà thơ phương Đông. Đó là mục đích của bất kì dịch giả
nào.

- Sau lời chào “trong suốt” này,
và sau chuyến thăm Việt Nam của ông, liệu có hy vọng về một lời chào Việt Nam
khác bằng ngôn ngữ thi ca đặc trưng không ranh giới từ ông?
- Tôi sẽ tiếp tục viết. Đó là điều tôi bảo
đảm với chị. Tôi sẽ cố gắng hết mình sáng tác những bài thơ xứng đáng với những
dịch giả dành công sức chuyển tải và xứng đáng với thời gian mà công chúng dành
ra để đọc thơ tôi. Quan trọng hơn, tôi sẽ tiếp tục đọc và thưởng thức thơ Việt
Nam để cảm nhận những tuyệt mỹ từ. Đọc thơ giúp tôi mở rộng vốn từ và hiểu biết
để củng cố thêm khả năng làm chủ ngôn ngữ văn học của mình. Tôi cũng sẽ tiếp
tục đọc các loại hình văn học khác của các bạn. Là một nhà thơ, ngừng đọc các
thể loại văn học như truyện ngắn, tiểu thuyết, chuyện người thật việc thật sẽ
ngăn cản tính sáng tạo của tôi. Nói tóm lại, sự suy ngẫm đơn thuần về những gì
bị mất đi trong một câu chuyện sẽ thúc đẩy tiềm thức và thi hứng của tôi. Sự có
mặt của thi hứng sẽ bù đắp cho tôi những gì còn thiếu, những nét đặc sắc được
nhìn bao quát và những đề tài được chôn sâu cho tác phẩm của tôi.
- Cảm ơn nhà thơ và hy vọng sẽ có
một Việt Nam lung linh, trong suốt và thân thiện trong những sáng tác của ông
sắp tới!
- Cảm ơn chị về những câu hỏi thẳng thắn và
giàu tính trí tuệ cũng như sự quan tâm của chị về cuộc chuyện trò với tôi ngày
hôm nay.
____________
(*) Protonist: Trường phái Proton, là một lý
thuyết do Gjeke Marinaj tạo ra chỉ một phương pháp phê bình văn học. Một nhà
phê bình theo trường phái Proton, khi đối mặt với một văn bản, trước tiên sẽ
tìm xem có điều gì mang lại giá trị thẩm mỹ, trí tuệ và đạo đức không về mặt
ngôn ngữ riêng của nó. Nếu nhà phê bình thấy tác phẩm ít có giá trị thì phải bỏ
nó sang một bên và không bàn về nó nữa – để cho nó chìm đi – hơn là bàn về nó
một cách hùng hồn cao đạo.
(Bản của nhà văn Phạm Thị Thùy Linh gửi qua email)