Lời dẫn cuốn sách “Những cây liễu rỉ máu” - Preface of book “Bleeding willows” - David Leitnick

Lời dẫn cuốn sách “Những cây liễu rỉ máu”

maivanphan.com: Nhà xuất bản Hội Nhà văn VN vừa xuất bản và phát hành cuốn sách nghiên cứu, song ngữ Việt - Anh, mang tên “Những cây liễu rỉ máu - Bleeding willows” của tác giả Gjekë Marinaj, do Nguyễn Quang Thuật chuyển ngữ. Cuốn sách không đánh giá lại lịch sử cuộc chiến tranh, mà đi sâu nghiên cứu, tìm tới cội nguồn sức mạnh tinh thần của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Mỹ. Điều kỳ diệu ấy chính là thơ ca! Gjekë Marinaj đã thể hiện một thái độ trung thực, khách quan khi nhìn nhận, tìm hiểu tâm lý, những biến động tinh thần của con người từ cả hai phía: bộ đội Việt Nam và những người lính Mỹ từng tham chiến. Cuốn sách sẽ mang đến cho bạn đọc nhiều điều thú vị và bất ngờ xung quanh một đề tài, tưởng như không còn mới mẻ. Để bạn đọc sớm hình dung tinh thần cuốn sách, chúng tôi đăng Lời dẫn của học giả người Mỹ David Leitnick, rút từ nội dung cuốn sách trên.

Gjekë Marinaj là nhà thơ, tiến sỹ triết học. Ông sinh năm 1965 ở một trấn nhỏ miền bắc Anbani. Ông đến San Diego (Mỹ) năm 1991; sau đó chuyển tới định cư tại hạt Richardson, bang Texas, Hoa Kỳ. Gjekë Marinaj từng dịch 40 bài thơ của Mai Văn Phấn từ tiếng Anh sang tiếng Anbani, xuất bản thành sách, mang tên “Zanore në vesë” (“Những nguyên âm trong sương sớm”, Nxb. Botimet M&B của Anbani, 4/2014).

Dịch giả Nguyễn Quang Thuật (là con trai đầu của Nhà thơ-Họa sỹ Nguyễn Quang Thiều). Anh sinh năm 1985 tại Hà Nội, nhận bằng cử nhân IT của Đại học Upper Iowa, Hoa Kỳ, bằng thạc sỹ Khoa học máy tính tại Đại học Cleveland State, Ohio, Hoa Kỳ. Hiện sống tại Hà Nội. Đây là dịch phẩm đầu tiên của Nguyễn Quang Thuật sau thời gian du học trở về VN.

Sách gồm 208 trang, do Họa sỹ Lê Đức Lợi thiết kế bìa, in tại Công ty in Phú Thịnh. Tranh sơn dầu in trên bìa 1 do Nhà thơ-Họa sỹ Nguyễn Quang Thiều vẽ tặng riêng cho Gjekë Marinaj, có tên “Cây liễu của Gjekë Marinaj”.

Sách sẽ bán tại các cửa hàng sách:


Nhà sách Đại Mai, địa chỉ: số
226 Bạch Đằng, 
Quận  Hoàn Kiếm, Hà Nội. Số phone: 04.6296.9581 hoặc 0915.688.397.

Nhà sách 30 Hàn Thuyên, địa chỉ: Phường Phạm Đình Hổ, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Số phone: 04.38246272.

Nhà sách Văn Lang, địa chỉ: 40-42, Nguyễn Thị Minh Khai, Phường Đa Kao, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh. Số phone: 08.38242157.

Nhà sách Thăng Long, địa chỉ: 2Bis, Nguyễn Thị Minh Khai, Phường Đa Kao, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh. Số phone: 08.39102062.

 

maivanphan.com: Publishing House of The Vietnam Writers' Association has published and released a study book in Vietnamese - English, entitled "Bleeding willows" by Gjeke Marinaj, translated by Nguyễn Quang Thuật. The book did not assess the history of war but studied in depth and looked into the spiritual source of strength of the Vietnamese during the war for national salvation. That miracle was poetry! Gjekë Marinaj had an honest attitude and kept an objective view to understand the psychological and spiritual movements of people from both sides: Vietnamese soldiers and American soldiers who fought. The book will give readers excitement and surprises around a topic which does not seem to be a new idea anymore. In order for readers to visualize the spirit of the book, we posted Preface written by the American scholar David Leitnick, quoted from the contents of the book.

Gjekë Marinaj is a poet and a doctorate in philosophy. He was born in 1965 in a small town in northern Albania. He arrived in San Diego (USA) in 1991 then moved and settled in the county of Richardson, Texas, USA. Gjekë Marinaj translated 40 poems of Mai Văn Phấn from English to Albanian and published as a book entitled "Zanore në vesë" (“Vowels in The Dew”, Publisher Botimet M & B of Albania, April 2014).

Translator Nguyễn Quang Thuật is the first son of the poet-painter Nguyễn Quang Thiều. He was born in 1985 in Hanoi and received a bachelor's degree from the University of Upper Iowa IT, USA and a master's degree in Computer Science at Cleveland State University, Ohio, USA. He is now living in Hanoi. This is the first translation of Nguyễn Quang Thuật after returning to Vietnam from his study time.

The book consists of 208 pages, of which the cover was designed by painter Lê Đức Lợi and printed in the Printing Company Phú Thịnh. The oil painting on front cover was painted by poet-painter Nguyễn Quang Thiều for Gjekë Marinaj, which was named "The willow of Gjekë Marinaj".

Books will be available at bookstores:

Bookstore Đại Mai, address: 226 Bạch Đằng, Hoàn Kiếm District, Hà Nội City. Phone number: 04.6296.9581 or 0915.688.397.

Bookstore 30 Hàn Thuyên, address: Phạm Đình Hổ Ward, Hai Bà Trưng District, Hà Nội City. Phone number: 04.38246272.

Bookstore Văn Lang, address: 40-42, Nguyễn Thị Minh Khai, Đa Kao Ward, District 1, Hồ Chí Minh City. Phone number: 08.38242157.

Bookstore Thăng Long, address: 2 Bis, Nguyễn Thị Minh Khai, Đa Kao WardDistrict 1, Hồ Chí Minh City. Phone number: 08.39102062.






 



 David Leitnick

Với một thực tế là có rất nhiều sách về chiến tranh Việt Nam trên giá sách của các thư viện hay các hiệu sách khắp nơi, độc giả sẽ không có mấy hứng thú với một cuốn sách khác. Tuy nhiên cuốn sách này lại không phải về lịch sử của cuộc chiến tranh ấy, mà ở đây, tác giả Gjekë Marinaj đã miêu tả một vấn đề, là cuộc xung đột này đã tác động tới tính nhân văn của con người trong giai đoạn lịch sử đó như thế nào. Ông đặt vấn đề dựa trên một tiền đề là văn học và thơ ca bắt nguồn trong giai đoạn khó khăn đó thường được dùng như một công cụ để miêu tả những suy nghĩ, động lực hay tình cảm của những người lính Việt Nam và Mỹ, những người mà thấy rằng bản thân họ bị bế tắc trong cuộc chiến tranh - như tác giả nhận định - họ không muốn phải cầm súng nhưng cũng không muốn là người thua cuộc. Mặc dù vậy, không ai có thể viết về bất cứ khía cạnh nào của cuộc chiến này hay bất cứ cuộc xung đột nào khác mà không bị cuốn vào các vấn đề lịch sử. Những chủ đề như “lịch sử”, “văn học”, hay “triết học” cuối cùng vẫn là những cái tên được con người dùng để đánh dấu những vấn đề nằm chồng chéo và đan xen lẫn nhau.

Marinaj mở đầu cuốn sách này với việc khám phá những gì diễn ra trong đầu của một lính Mỹ tại thời điểm cuộc chiến bắt đầu. Ông phân tích niềm tin của nước Mỹ rằng, bản thân đất nước này là một hình mẫu tiêu biểu của nền tự do dân chủ và niềm tin này là một động lực để nước Mỹ theo đổi kế hoạch hành động đó. Marinaj đưa ra một nhận xét quả quyết và có vẻ không hợp lý rằng việc hiểu rõ vai trò của văn xuôi và thi ca trong xã hội Việt Nam có thể đem lại một cái nhìn sâu sắc và giá trị về một dân tộc và nền văn hoá có quá ít điểm chung với nước Mỹ. Tôi nói "có vẻ không hợp lý" là vì tác giả đã bảo vệ lý lẽ của mình một cách thuyết phục.

Thơ ca đã ăn vào đời sống người Việt từ mọi ngóc ngách xuyên suốt qua các thể chế xã hội, từ khi sinh ra tới khi chết đi. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nhận ra sức mạnh của thi ca và sử dụng nó như một cách thức quản lý, tổ chức nhân dân Việt Nam trong suốt những cuộc kháng chiến. Khi ông bị nhốt trong nhà lao của Trung Quốc năm 1942, ông đã giành thời gian đó để làm những bài thơ cách mạng. Sau khi ông trở thành một người anh hùng dân tộc, thì hình tượng của ông đã truyền cảm hứng cho những tác phẩm thơ ca cách mạng, sau đó được dùng để giáo dục những người nông dân và trẻ nhỏ về lòng yêu nước.

Marinaj đưa ra hai câu hỏi mang tính thách thức: Sẽ như thế nào nếu người Pháp, và sau đó là người Mỹ, hiểu rõ hơn về vai trò của thơ ca trong đời sống người Việt? Và kết quả của cuộc chiến sẽ như thế nào nếu họ có những nhà thơ và những bài thơ được sử dụng để phục vụ lý tưởng và mục đích của họ thay vì cho phía Việt Cộng.

Trong quá trình tìm hiểu các tác phẩm của các cựu chiến binh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, Marinaj cung cấp một số cái nhìn sâu sắc nhất từng được đưa ra về vấn đề này. Ông đã chỉ ra rằng họ như những người lính làm theo mệnh lệnh, nhưng cũng như những con người chiến đấu để tồn tại trong một cơn ác mộng thực sự của cuộc sống. Phương pháp viết của họ tái tạo những trải nghiệm chiến đấu của người lính mà không giống như bất cứ tác phẩm văn học chiến tranh nào khác. Họ làm cho người đọc thấy, nghe, và cảm nhận được nỗi đau khủng khiếp mà con người có thể gây ra cho nhau.

Marinaj có thể nói về các kết nối phức tạp giữa chiến tranh và văn học bởi vì ông hiểu chiến tranh khiến con người phải đi theo hướng mà họ không bao giờ muốn như thế nào. Hơn nữa, bản thân ông là một nhà thơ đoạt giải thưởng, và nhà thơ thường nhạy cảm hơn với đau khổ và quyết tâm khám phá nguyên nhân sâu xa của nó. Điều này có thể giải thích lý do tại sao không có một dấu vết của sự phán xét đạo đức nào trong tác phẩm Những cây liễu rỉ máu: Thơ Việt Nam đã viết lại cuộc chiến tranh không tưởng đó như thế nào?

Ông đã tìm hiểu, khám phá chủ đề đó của mình theo một cách đó là vừa sâu sắc và hòa giải. Cuốn sách này chứa những luận điểm vừa kín đáo vừa kích thích tư duy trong đó khuyến khích độc giả dùng những trải nghiệm và suy nghĩ của mình để kết nối những tài liệu và phim được nghiên cứu; và với cách tiếp cận hấp dẫn này, Marinaj đã tinh tế cho phép người đọc của mình phân biệt giữa những gì hợp lý và những gì không hợp lý để tin tưởng. Bất kỳ ai đọc cuốn sách này với một tâm trí cởi mở sẽ thấy nhận thức của mình trở nên sắc bén hơn.


Poet-Dr. Gjekë Ma
rinaj. Photographer:Rade Krstinić 

Preface of book “Bleeding willows”

David Leitnick

With so many books about the Vietnam War lining the shelves of libraries and bookstores, readers may be leery of yet another one. But this book is not meant to be a work of history; rather, Gjekë Marinaj wrote it to illustrate how the conflict in Vietnam impacted the humanities of that period. He sets out under the premise that the literature and poetry emanating from that troubled time serves as an important tool in deciphering the thoughts, motivations, and emotions of the Vietnamese and American soldiers who found themselves entangled in a war that - as Marinaj perceptively observes - they did not want to fight, but did not want to lose. Even so, no one can write about any aspect of this or any other war without straying into the field of history. Tags like “history,” “literature,” and “philosophy” are, after all, human-made categories imposed on subjects that overlap and intertwine.

Marinaj opens this illuminating book with an exploration of the American mindset at the start of the conflict. He explores how America’s belief in herself as an invincible embodiment of democratic freedom seemed like a sound motivation for pursuing the course of action. Marinaj makes the bold and seemingly implausible claim that a better understanding of the role of literature and poetry in Vietnamese society would have offered priceless insights into a people and culture with which the United States was not adequately familiar. I say “seemingly implausible” because he convincingly defends his claim.

Poetry permeated the lives of the Vietnamese across all socio-economic groups, from cradle to grave. Ho Chi Minh saw the power of poetry, Marinaj explains, and used it as a tool in organizing the Vietnamese people during its times of trial. When he was thrown into prison by the Chinese in 1942, he spent his time composing political poems. His later rise as wartime hero and father figure inspired the revolutionary songs that were used to educate the villagers and their children to their version of patriotism.

Marinaj poses two thought-provoking questions: What if the French, and later the Americans, had understood the role of poetry in Vietnamese life? And what would have been the outcome if they had had the poets and their poetry serving their ideology and purpose in Vietnam instead of the Viet Cong’s?

In exploring the writings of American veterans of the Vietnam War, Marinaj provides some of the best insight ever given on the subject. He reveals them as soldiers following orders as well as human beings fighting to survive a waking nightmare. Their writing methods recreate the combat soldier’s experience in the reader’s mind like no other war literature. They make the reader see, hear, and feel the soul-killing anguish that one people can inflict on another.

Marinaj can talk about the intricate connections between war and literature because he understands how war forces people to go in directions they never intended. Moreover, he is himself an award-winning poet, and poets seem to have more sensitivity to suffering and a determination to explore its underlying causes. This could explain why there is not one trace of moralistic judgment in Bleeding Willows: How Vietnamese Poetry Rewrote an Impossible War.

He explores his subject in a manner that is both insightful and conciliatory. This book teems with inconspicuous yet thought-provoking statements that invite readers to bring their experiences and thoughts to bear on the literature and films under study; and with this engaging approach, Marinaj subtly enables his reader to distinguish between what is reasonable and what is unreasonable to believe. Anyone who reads this book with an open mind will find his or her perceptions sharpened for having done so. 

BÀI KHÁC
1 2 

image advertisement
image advertisement
image advertisement




























Thiết kế bởi VNPT | Quản trị