MVP và hành trình thơ... (chuyên luận - II) - Ngô Hương Giang & Nguyễn Thanh Tâm
Ngô Hương Giang - Nguyễn Thanh Tâm

Bìa sơ-mi
maivanphan.vn: Nhà xuất bản Hội Nhà văn đã phát hành cuốn sách chuyên luận Mai Văn Phấn và hành trình thơ vào cõi khác của 2 tác giả Ngô Hương Giang (Viện Triết học) và Nguyễn Thanh Tâm (Viện Văn học) thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. Tiếp theo phần Dẫn nhập của Ngô Hương Giang, được sự đồng ý của 2 tác giả, từ hôm nay chúng tôi cho đăng nội dung cuốn sách, lần lượt theo từng kỳ. Mở đầu là Chương I: Chú giải thơ Mai Văn Phấn của Nguyễn Thanh Tâm. Trân trọng cảm ơn 2 tác giả Ngô Hương Giang và Nguyễn Thanh Tâm!
Bìa cứng
Mai Văn Phấn và hành trình thơ vào cõi khác (II)
Chương I
CHÚ GIẢI THƠ MAI VĂN PHẤN
Nguyễn Thanh Tâm
Không có điều gì phi lý và bất ổn hơn việc đem hồn mình
để hiểu hồn người. Cái luận đề đã cũ ấy vẫn còn là niềm đinh ninh của
không ít người đọc thơ, thưởng thức và phê bình thơ. Đem một quy chiếu
này để ướm đo vào một quy chiếu khác, kết cục của nó dường như đã được
biết trước. Trong thế giới chúng ta đang sống, cái khác hiện diện như
một quy luật, một tất yếu và là một giá trị. Bởi thế, nó tuyên cáo về sự
bất ổn, chông chênh của diễn giải theo tinh thần “lấy hồn tôi để hiểu
hồn người”. Chúng ta không bao giờ có thể nói được rằng chúng ta đã
hiểu, có thể hiểu được tâm hồn kẻ khác. Cái mà chúng ta nói rằng, đấy,
hồn thơ của nhà thơ ấy là vậy, chẳng qua chỉ là sự gán ghép mang đầy
tính chủ quan. Sự thực, đó là hồn ta, ta sở thuộc những kinh nghiệm ấy
và trừu xuất ra ngôn ngữ, văn bản, lời nói khi bắt gặp một tình huống
ngôn ngữ, thi ca nhất định nào đó. Xuân Diệu mới nhất trong các nhà thơ
mới là mới với Hoài Thanh, Hoài Chân, bởi Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích
Khê, Đinh Hùng, Xuân Thu nhã tập, Dạ đài,… mới hơn Xuân Diệu. Ngay cả
Nguyễn Bính có khi còn mới hơn Xuân Diệu trong một vài tình huống thi ca
nào đó(1). Nói vậy, có nghĩa diễn giải thi ca chẳng qua là cách chúng
ta trình hiện một kinh nghiệm của bản thân trong tình huống ngôn ngữ mà
chủ thể vừa bắt gặp. Ngôn ngữ thi ca là một bối cảnh, một xúc tác, một
ngòi nổ để dẫn đến một thế giới của “ý hướng tính” ẩn giấu kinh nghiệm
tinh thần, thẩm mỹ của chủ thể đọc. Điều này dường như đã hàm chứa trong
nó thông điệp về việc luận giải, phê bình thơ là sự tìm kiếm tự ngã
trong những viễn du và gặp gỡ với tha nhân.
Luận
giải thơ Mai Văn Phấn sẽ thoát ra khỏi sự phi lý của việc áp đặt một
quy chiếu cá nhân vào kẻ khác. Nó đơn giản chỉ là bản tường trình của
những chuyến đi, sau những tình huống ngôn ngữ, thi ca đã gặp. Thế giới
hiện diện trong luận giải này, như đã nói, là kết quả của những thể
nghiệm bản thể trên đối tượng là thi giới Mai Văn Phấn. Sự nhất quán
tinh thần này giải trừ một sai lầm sẽ đến từ kẻ thứ ba (số nhiều) về
việc người diễn giải đã đi quá xa, hay thiển cận đến bất ngờ trong những
gì anh ta miêu tả, biểu thuật. Đúng như vậy, đó không phải là tâm hồn
của Mai Văn Phấn, đó là thế giới của chủ thể đọc, chủ thể luận giải được
sản sinh từ niềm hạnh ngộ với thi ca. Ở một khoảnh khắc nào đó, thế
giới của tự ngã và tha nhân có thể gặp nhau, trùng lên những kinh
nghiệm, xúc cảm, thế giới quan, giá trị quan…, nhưng hẳn nhiên không
phải là đòi hỏi tất yếu. Trong những cuộc viễn trình, niềm yêu thích và
sự quan tâm nhất định nào đó sẽ dẫn chủ thể luận giải đến với từng hiện
tượng. Nó không có tiên ước, nên không thể trách nó đã bỏ qua những hạt
ngọc, viên sỏi nào đó trên đường đi.
Luận
giải thơ Mai Văn Phấn sẽ làm thất vọng nhiều người muốn thâu tóm, nắm
bắt cái vô hình, trừu tượng trong một vài khái niệm, kinh nghiệm giản
đơn. Nó cũng không đặt ra việc minh định có tính cứng nhắc về thi ca Mai
Văn Phấn. Luận giải này diễn dịch kinh nghiệm (của tôi) về thơ Mai Văn
Phấn với tính chủ quan không hề che giấu. Sự chờ đợi những luận giải từ
các nhà phê bình, các độc giả tinh anh hàng đầu về thơ Mai Văn Phấn đã
khiến chúng ta mỏi mệt. Bởi thế, những luận giải ở đây có tính chất như
một thu hoạch, một kết quả của sự tìm kiếm cá nhân, dựa trên những kinh
nghiệm thẩm mỹ, tinh thần và tri thức của chủ thể luận giải. Nó không
mong đợi sự tán thưởng, nó cần những tiếng nói phản biện. Nhưng trên
hết, nó kêu gọi những sự đọc khác, những luận giải khác.
Luận
giải thơ Mai Văn Phấn ngoài mục đích trình hiện một sự đọc, một sự hiểu
còn hàm ý về khả năng đọc thơ đương đại với những trường hợp khó như
Mai Văn Phấn, Nguyễn Quang Thiều, tân hình thức, những thể nghiệm thơ
văn xuôi, không vần, không dấu, không ngắt câu, chia đoạn, chia khổ,… Trong
bối cảnh thi ca không vụ ở “nhãn tự”, “thần cú”, đã rũ bỏ vần, khổ,
hướng đến nhiều khả năng cho sự tự biểu hiện, đọc thơ cũng cần rũ bỏ
nhiều kinh nghiệm đã lạc hậu và thiếu khả thi. Sự thẩm nhập của nhiều
sắc thái thể loại, loại hình nghệ thuật trong thơ khiến cho thơ đương
đại có thêm hình thức mới, tân kỳ hơn, lạ hơn, nhưng cũng nhân đó mà
tính gây hấn cũng tiềm tàng không ít. Đọc thơ, như thế phải hiểu là chủ
thể đang kiếm tìm tự ngã (tìm mình) chứ không phải là phán xét tha nhân.
Phê bình là một siêu ngôn ngữ, nhưng nó là thứ siêu ngôn ngữ thuộc về
và làm hiện diện trước hết chủ thể phê bình. Điều này trả lời cho việc
tại sao có người đọc được, có người không đọc được thơ hiện nay. Không
đọc được nghĩa là không giao tiếp, không chơi được trò chơi ấy. Bởi lẽ,
người chơi không nắm được luật chơi, không có thứ ngôn ngữ cần thiết để giao tiếp trong vương quốc thi ca.
Toàn
bộ những luận giải về thơ Mai Văn Phấn ở đây là “kinh nghiệm thẩm mỹ”
(H.R. Jauss) của sự đọc. Như đã nói, sẽ có chỗ “bản ngã gặp gỡ tha nhân”
(G. Marcel), khai mở một thế giới đóng kín. Nhưng, niềm hy vọng ấy
không thường trực, bởi lẽ, cái tôi bản thể của thơ đương đại, tự nó có
xu hướng đóng kín. Lý giải cho điều này sẽ cần những khảo sát toàn diện
hơn, nhưng, trong thời đại toàn cầu hoá, khi thế giới phẳng thêm mỗi
ngày, khi sự bất trắc và tai ương luôn rình rập, khi các giá trị luôn
biến thiên đến chóng mặt, cái tôi bản thể soi mình trong kho tàng giá
trị nhân loại, trong những sở cầu nhân văn phổ quát, tự thấy mình bất
lực, cô độc, không được chia sẻ. Mai Văn Phấn có thể đã được chia sẻ nơi
nào đó trên hành trình thi ca của mình. Tôi đoán rằng, ở lục bát, ở
chặng thơ đầu, có những bài thơ nho nhỏ, xinh xinh về gia đình, đứa con
bé bỏng..., nhưng anh cô độc trong những suy tưởng về cuộc đời, về giá
trị sống, về tương lai của thế giới, loài người. Anh cũng sẽ cô độc ở
những tưởng tượng về thế giới trong đôi mắt thi nhân vốn giàu tưởng
tượng và cảm nhận được rằng thế giới phức tạp, đa nguyên hơn những gì
con người có thể nhìn thấy. Mặt khác, Mai Văn Phấn cô độc bởi chính sự
trình hiện những kinh nghiệm sống, kinh nghiệm thẩm mỹ, văn hoá của anh.
A. Einstein cương quyết Thế giới như tôi thấy, và, thế giới như
Mai Văn Phấn thấy đâu phải lúc nào cũng giống với cái người khác thấy.
Nỗi cô độc cứ dày hơn, quay quắt hơn, khiến chính anh đã có lúc hoang
mang, nghi hoặc. Người đọc cũng không ít hoài nghi. Nhưng, nếu cứ ngoảnh
đi, mặc những nỗi niềm cô độc, mặc những tiếng kêu thăm thẳm âm u,
chúng ta sẽ bỏ rơi đâu đó trong nỗi thờ ơ của mình những sự sống.
Những
gì Mai Văn Phấn có thể được chia sẻ, đã được chia sẻ, chúng tôi không
nhắc lại. Phần luận giải này chỉ đề cập đến những gì bản thân sự đọc cho
là sẽ gây khó cho Mai Văn Phấn và tha nhân trong quá trình tìm kiếm sự
“thông tri” (F. Nietzsche). Tôi không hiểu được anh ấy, chỉ là tôi nói
cách tôi hiểu về anh ấy. Luận giải này là sự hiện ra của cách hiểu như
thế. Và, đương nhiên, những luận giải này cũng chỉ là những tham khảo,
một trị số trong một kết hợp biến mà không phải là tất cả trị nghiệm của
hàm mang tên Mai Văn Phấn. Cho đến thời điểm 2014, Mai Văn Phấn đã có
21 tập thơ, trong đó 10 tập thơ được tái bản hoặc tái bản nhiều lần có
bổ sung bản Anh ngữ, Pháp ngữ, hoặc Anbani ngữ; các tập thơ tiêu biểu
như, Giọt nắng - 1992, Gọi xanh - 1995, Cầu nguyện ban mai - 1997, Nghi lễ nhận tên - 1999, Người cùng thời (trường ca) - 1999, Vách nước - 2003, Hôm sau - 2009, Và đột nhiên gió thổi - 2009, Bầu trời không mái che - 2010, Hoa giấu mặt - 2012, Vừa sinh ra ở đó - 2013, Những hạt giống của đêm và ngày - 2013, Buông tay cho trời rạng - 2013, Những nguyên âm trong sương sớm
- 2014)... Tuy nhiên, phần luận giải này không thể giải quyết hết số
lượng thơ đồ sộ như thế. Bên cạnh đó, những tập thơ được tái bản hoặc
được tuyển lại với những bài thơ đã có ở tập trước chúng tôi cũng không
luận giải. Mặt khác, ở những tập đầu, do việc những yếu tố cách tân mới
bắt đầu manh nha, cái khó mới ở dạng yếu tố, nên luận giải chỉ lượm lặt
mà không bao quát tất cả. Các tập thơ sau, khi cách tân trở thành hoạt
lực chủ yếu, biểu hiện một cách nhất quán, phổ biến ở tầm vóc cả tập,
nhiều tập, chúng tôi dành nhiều thời gian để luận giải kỹ lưỡng. Nhưng,
cũng phải nói lại, tính chất không vụ ở câu, chữ, vần của thơ Mai Văn
Phấn, mà vụ ở toàn bộ thi tứ của bài, của tập, ở nhịp điệu của hình ảnh
và chất thơ trong cấu trúc ngôn từ đã khiến cho việc chú giải từng chữ,
từng câu, từng hình ảnh lại là một việc không hẳn hợp lý. Bởi thế, chúng
tôi sẽ luận giải trên tinh thần: vừa chú ý đến từng hiện tượng vừa bao
quát toàn bộ tập thơ để tìm kiếm chất thơ của những cấu trúc ngôn ngữ -
văn bản ấy.
N.T.T
______________
(1) Trong
những khảo sát của chúng tôi về thể thơ lục bát của Nguyễn Bính, Xuân
Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử (nghĩa là lục bát Thơ mới, không phải là lục
bát truyền thống),… đối chiếu với Phan Diễm Phương khi khảo sát lục bát
truyền thống, thú vị là Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử, Huy Cận có xu hướng phá
vỡ các cấu trúc âm vận truyền thống, trong khi Xuân Diệu lại gần như
tuân thủ tuyệt đối luật lệ của lục bát truyền thống.
I. GIỌT NẮNG, Hội Văn nghệ Hải Phòng, 1992
Hồn nhiên
Khi tôi ngủ say hồn ra khỏi xác(1)
Lâng lâng trên những cánh hoa
Lang thang như xưa lúc mẹ vắng nhà(2)
Quên thể xác đăm chiêu lầm lũi(3)
Ừ, thì ra cát bụi
Là một đời thân xác đớn đau
Gió vẫn ru xanh mướt ở trên đầu
Trời rót xuống từng cơn mưa đằm thắm.
Cái ác đã ngủ yên trong nhuỵ đắng(4)
Cho đất lành thơm mát đến rưng rưng
Hồn tôi lung linh hạt nắng
Rơi xuống đồng xanh không cùng.
Và rạng đông!
Từng giọt rạng đông!
Tôi lại nhập hồn về với xác
Chẳng phải tôi, cũng không là người khác
Để hồn nhiên cất tiếng khóc lọt lòng(5).
______________
(1)
Một tưởng tượng về việc thoát khỏi thân xác. Đây là hiện tượng phân
thân thành nhiều nhân cách, đánh dấu những vận động đầu tiên cho thấy tư
duy phân mảnh, đổ vỡ nguyên tôi của Mai Văn Phấn. Trong lịch sử thơ
Việt Nam, lối tư duy kiến tạo cái nguyên tôi với nhiều hình thái phân
thân đã có trong thế giới nghệ thuật của Hàn Mặc Tử. Tuy nhiên, cái
nguyên tôi của Hàn Mặc Tử có vỡ ra thành muôn mảnh (xác, hồn, máu, lệ,
trăng, sao, gió,…) vẫn thống nhất là một cái tôi đau thương và khát khao
siêu thoát. Cái tôi của Mai Văn Phấn đã manh nha hơi hướng đa ngã, đa
nhân cách - một biểu hiện của tinh thần hậu hiện đại.
(5)
Sự sinh hạ một con người mới. Đó không phải là sự trở về của linh hồn
theo kinh nghiệm của dân gian hay của các nhà Huyền học Cát Minh, đó là
một sự đầu thai. Từ lúc ấy, con người được thanh lọc đã ra đời hiện hữu
một nhân cách hồn nhiên.
Thuốc đắng
(Cho Ngọc Trâm)
Cơn sốt thiêu con trên giàn lửa
Cha cũng có thể thành tro nữa
Thuốc đắng không chờ được rồi
Giữ tay con
Cha đổ
Ngậm ngùi thả lòng chén vơi...
Con ơi! Tí tách sương rơi
Nhọc nhằn vắt qua đêm lạnh
Và những cánh hoa mỏng mảnh
Đưa hương phải nhờ rễ cay.
Mồ hôi keo thành chai tay(1)
Mùa xuân tràn vào chén đắng
Tuổi cha nước mắt lặng lặng
Sự thật khóc oà vu vơ.
Con đang ăn gì trong mơ
Cha để chén lên cửa sổ
Khi lớn bằng cha bây giờ
Đáy chén chắc còn bão tố(2).
______________
(1) Một liên tưởng mang tính chất hoán dụ. Cuộc đời con người đầy nhọc nhằn, vất vả.
Màu xanh
Trái đất - Căn nhà hộ sinh(1)
Tiếng trẻ con chào đời truyền trong không gian xanh những dòng mật mã...(2)
Đêm đầu mùa
Anh cuống quýt hôn em qua kẽ lá
Khi sương tan cành biêng biếc xanh.
Cô đơn tràn bãi trưa hanh
Mùa đi rung cây lá đổ
Phải dằn dữ và cũng mềm như gió(3)
Gió từ biển xanh mang sắc của trời.
Bình minh lên chiếu sáng nửa đời
Còn nửa kia chìm vào bóng tối
Bao lối cỏ cứ xanh vội vội
Thấm lên bàn chân ai qua.
Sóng trên cây thầm thĩ mỗi hiên nhà(4)
Con đò thời gian hối hả
Khi mỗi chúng ta là chiếc lá
Thì rừng hoang bỗng hoá nhà mình.
Trái đất - Căn nhà hộ sinh
Tiếng trẻ con chào đời truyền trong không gian xanh những dòng mật mã...
______________
(1) Một liên tưởng: nơi con người được sinh ra.
(2) Mật mã: những tín hiệu/ ký hiệu của sự sống kỳ diệu và bí ẩn.
(3) Thời
gian, mùa, năm tháng là những ẩn dụ về sự chảy trôi của cuộc đời, những
sinh ra và cả những mất đi, rụng xuống. Quy luật vừa dằn dữ vừa diệu kỳ
của sự sống.
(4) Sóng
trên cây: gió từ biển xanh - một liên tưởng tương cận/ nhân quả. Gió
thổi trên cây như sóng, trong gió có hình ảnh của sóng từ biển, tiếng
gió thổi trên cây trước hiên nhà như sóng,…
Hoang tưởng năm 2000
Chúa Jê-su và Phật Thích-ca
Trên cỗ xe năm 2000
Cả Người tôi yêu mến nữa
Họ cùng bên nhau lặng yên.
Thế rồi xe tới Hoàn nguyên(1)
Họ vụt òa lên nức nở
Nước mắt thành đầu còn cỗ xe thành chân trẻ nhỏ(2)
Khi gửi xiêm y vào gió
Họ ôm chầm lấy nhau(3).
______________
Mơ thực
Chợp mắt mười lăm phút
Mà mơ dằng dặc mấy mươi năm
Tỉnh mộng
Mộng còn
Vật vã...
Ngoài vườn gió thu đang xéo lên tán lá
Phải tĩnh tâm để bàn tay hoang dã
Cúi nhặt từng chiếc lá rơi(1).
8/1991
______________
Không đề I
Con chim bay vút lên không
Ðể lại gió với cánh đồng rộng thênh
...
Phù sa trôi lúc sóng duềnh
Thương cây cuối bãi đầu ghềnh cạn khô
...
Gọi tìm tôi thuở dại khờ
Về thương tôi của bây giờ tinh khôn(1).
______________
Chân thật
Anh nghiêng vào chiếc lá
Lá bỗng đôm đốm vàng
Có giọt sương lạnh giá
Rơi xuống hồn anh đang
Lẫm chẫm vào xốn xang(1)
Cho lòng mềm tơ lụa
Xin em hong lên gió
Xem sợi nào ngân nga.
Gieo mình xuống phù sa
Bàng hoàng nghe tách vỏ
Ủ chân thật vào giữa
Chờ mùa xuân nảy mầm.
______________
Lời người trồng hoa
(Kính tặng anh Thi Hoàng)
Tôi trồng hoa từ bãi dâu xanh đến lúc phơi tơ
Xoè năm ngón ngậm ngùi có mùa hên mùa mất.
Tôi trồng hoa nơi cỗi cằn đất không còn là đất
Mưa đang tái sinh bỗng lại nắng lụi tàn
Chợt có heo may
Chợt
Và bất chợt...(1)
Hoa vẫn đốt lên cho sáng cái hang sâu hun hút bốn mùa(2).
Công bằng là trời xanh, oan khuất đến như mây(3)
Chỉ có cánh hoa là nghe thấy cả.
Nơi đất mỡ màu, cây có khi chỉ toàn ra lá
Lá cũng lại như bài học công bằng(4).
Trọn mộtt kiếp người
Hoa uống cạn nước mắt với mồ hôi
Chim có về bới tóc tôi mà làm tổ?(5).
______________
(1) Một thao thức về những ngẫu nhiên.
Em xa
(Tặng Ng.)
Nơi ấy da thịt em đã ngủ, bởi trong anh có tiếng tâm linh
đang thì thầm:
Em lần theo bóng mây trôi
Thấm qua sóng lá vô hồi
Ðằm vào anh tiếng chim đôi bất ngờ
Làm vang lên những dây tơ vừa chùng.
Nhoà tan anh với mung lung
Em là giếng gió trong lòng
Nhấn chìm anh thoắt đã không còn gì
Hư vô thành thật cũng vì yêu em!(1)
Tiếng em gọi chói chang bên kia sông mơ, con thuyền anh bỗng thành con chó nhỏ (... )(2)
______________
(2) Trước
hết là một liên tưởng hồn nhiên, đáng yêu của kẻ đang yêu. Về mặt hình
thức, có thể nhận ra sự xâm thực của các thể thơ vào nhau hay đúng hơn
là một thể hỗn dung.
(còn nữa)

Bìa 1 tập thơ GIỌT NẮNG