Вариации о вороне – Biến tấu con quạ (cтихи - thơ) - Mai Văn Phấn, Nguyễn Quốc Hùng, Светлана Глазунова, Наталья Харлампьева

Maй Baн Фан - Mai Văn Phấn

Подстрочный перевод - Bản dịch nghĩa:

Нгуен Куок Хунг - Nguyễn Quốc Hùng*

Светлана Глазунова - Svetlana Glazunova**

Поэтический перевод - Dịch thơ:

Наталья Харлампьева - Natalia Kharlampeva***



 

 
Nhà thơ Kharlampeva Natalia Ivanovna





Nhà Việt Nam học Svetlana Glazunova







Dịch giả, nhà thơ Nguyễn Quốc Hùng

 

 

 

Вариации о вороне

 

Дыхание смерти тянет фитиль к зениту.

Ярко сияет ворона.

 

*

 

Рождение

После крика вороны

Уход, которому нельзя сопротивляться.

Сверток открыт.

Нескрываемая деградация.

Лекарь сжигает свои книги в конце сада,

Срок годности всех новых лекарств на складе уже истек.

Колдуньи несут наказание.

Их рты стянуты железными крюками.

 

Рождение

Когда колокол внезапно падает

Накрыв с головой старого слугу в храме,

Рыба лишает себя жизни, прыгнув в облака,

Там поперек неба натянута сеть с сотнями тысяч крючков.

 

Рождение

Чернила и кровь под ногами,

В горле и бронхах застыла сгустками,

Росчерк один на первой странице

Просочился на целую тысячу страниц книги.

 

Ворона бросается с высоты

На двух своих острых крыльях

Нацелившись на мертвую добычу

Разрывая воздух свистом крыл,

И ветры не успевают

Его остановить.

 

*

 

Взгляды вынимает из глазниц

Разрезает язык и вытаскивает,

Сушит под солнцем уроки устной речи,

Отрывает плоть кусок за куском,

Четыре конечности отделяет,

Обнажает все внутренности,

Остается только череп,

Чтоб покрыться мхом

Невозможно написать эпитафию.

 

*

 

Вороне снится,

что все смерти распланированы,

после крика вороны

все добровольно легли вниз.

 

*

 

Ворона влетела в комнату

палец бессильно поднимается наверх

как дуло ружья,

как лезвие секиры

и может быть,

даже как  мотыга,

а может, просто твердый палец,

скорее замерзший,

затем покрытый льдом,

затем полностью растаявший.

 

*

 

Не приближайся к тени,

это ворона,

распускающая крылья на закате, на рассвете,

когтями цепляется за ветер,

перемалывая, измельчая сухие листья,

ломая выступающие ветви.

 

Поэт укрылся в тени.

Каждая буква выдолблена из глаз

 

*

 

Надо смотреть

на вещи

пристально,

потому что в мгновение ока

может обрушиться

воронья тень

 

Моя же тень

не подает голос,

боясь превратиться в цыпленка.

 

*

 

Несколько людей поднимаются из толпы, в черных одеждах и черных масках. Они бегут и хлопают руками по бокам. Они пытаются поднять голову вверх. Черная тень стелется над землей.

 

*

 

Сидя на дереве после сытной трапезы, объевшаяся ворона дремлет, и снится ей, что каждый кусок пищи, которой набит ее зоб, превращается в яйцо. Воронята гурьбой выбираются из пяти органов чувств и тут же устремляются вниз на охоту за добычей, повинуясь инстинкту хищников.

 

*           

 

Страдания оглядываются назад на жизнь, которую считают уже почти умершей. Пальто кричит до хрипоты, когда идешь мимо стола и шкафа. Телефон безмолвствует, погрузившись в сон. Скрепка открыла рот, стараясь спрятать свои клыки и когти. Ручка метлы цепляется за руку чернорабочей и тянет ее к мусорной яме. Поля шляпы на голове кричат в ужасе, затем склоняются вниз и объедают все лицо охранника. Никто не открывает ворота. Многие, тем не менее, находят вход.

 

*           

 

Души, освободившиеся от тел, ищут путь назад, чтобы вернуться и вступить в бой против злобных ворон. После града пуль, не принесших смерть и не нанесших ран, благовонный дым от ароматных палочек стелется и растягивается, превращаясь в доску, на которой написано первое слово нового урока.

 

*           

 

Это последняя строка завещания:

«Начинайте церемонию небесного погребения в момент, когда появится тень вороны».

 

*           

 

Ночная тень постепенно проникает в утробу вороны.

 

И  нас подводит утроба вместе с голодной рекой. Капли мутной воды пытаются проникнуть сквозь щели между волокнами ткани. Гладь воды сдерживает колебания, желая сохранить тени людей. Уже зажегши спичку, вспоминаешь, что фитиль далеко. Вскинь руки вверх, возвысь свой одинокий голос в темноте.

 

Недомогание мучает ворону всю ночь.

 

От ужаса кричит.

 

Впервые звук улетает без эха.

 

 

Biến tấu con quạ

 

Tử khí kéo ngọn bấc tới đỉnh trời

Con quạ rực sáng.

 

*

 

Khai sinh

Sau tiếng quạ kêu

Ra đi không cưỡng lại

Gói bọc được mở ra

Sự băng hoại không thể cất giấu

Thày lang đốt sách cuối vườn

Tân dược trong kho đều quá hạn sử dụng

Những phù thủy chịu hình phạt

Miệng bị đóng bởi những móc sắt

 

Khai sinh

Khi quả chuông rơi xuống bất ngờ

Chụp lên đầu người bõ già

Con cá nhảy vào đám mây tự vẫn

Buông ngang trời ngàn vạn lưỡi câu

Khai sinh

Mực đổ dưới chân và máu

vón cục ở yết hầu, phế quản

Viết một nét lên trang đầu

thấm suốt cả ngàn trang sách.

 

*

 

Bổ nhào từ đỉnh cao

Bằng đôi cánh sắc

Lấy tâm điểm xác chết

Chém toác bầu không

Gió hấp tấp không kịp băng bó.

 

*

 

Móc từ hốc mắt

những nhãn quan

Di ảnh là vật chứng

Mổ vào lưỡi

và kéo dài

Phơi dưới trời bài học khẩu ngữ

Bóc từng mảng thịt

Tháo rời tứ chi

Sổ tung lục phủ ngũ tạng

 

Hộp sọ vừa được dựng lên

Rêu đã phủ đầy

Không viết nổi những dòng bi ký.

 

*

 

Con quạ mơ

Mọi cái chết đều được sắp đặt

 

Sau tiếng quạ kêu

Ai đã tự nguyện nằm xuống.

 

*

 

Con quạ bay vào phòng

Một ngón tay giơ lên yếu ớt

Ý nói:

Đây là họng súng

Là lưỡi mác

Thậm chí cuốc thuổng

Thậm chí chính ngón tay rất cứng

Đúng hơn là đông cứng

Rồi băng đá

Rồi rữa tan.

 

*

 

Đừng đến gần bóng râm

Chúng là con quạ

Xõa cánh lúc hoàng hôn, rạng đông

 

Nanh vuốt bám gió

Xay nghiền lá khô

Bẻ những cành vượt

 

Nhà thơ trú trong bóng râm

Từng con chữ bị khoét mất mắt.

 

*

 

Trông

Sự vật

Trừng trừng

Bởi chớp mắt

Bóng quạ

Ập tới.

 

Bóng mình

Không cất tiếng

Sợ biến thành gà con.

 

*

 

Một số người trỗi dậy từ đám đông, khoác áo đen, mang mặt nạ đen. Vừa chạy, họ vừa đập cánh tay vào hai bên sườn. Đầu cố ngước lên. Bóng đen bay là là mặt đất.

 

*

 

Đậu trên chạc cây trong trạng thái bội thực và ngủ gật, con quạ mơ mỗi mẩu thức ăn đang nén chặt trong diều biến thành quả trứng. Đàn quạ con lũ lượt chui khỏi ngũ quan, lập tức sà xuống săn mồi theo bản năng của loài ăn thịt.

 

*

 

Những đau khổ tột cùng ngoái nhìn đời sống tưởng chừng đã chết. Áo khoác kêu thất thanh khi đi qua bàn tủ. Máy điện thoại im lìm ngủ. Chiếc kẹp ghim mở miệng cố giấu đi móng vuốt. Cán chổi móc vào tay người lao công, kéo chị ta về bên hố rác. Vành mũ trên đầu kêu thảng thốt, rồi cúi xuống rỉa hết mặt nhân viên bảo vệ. Không ai mở cổng. Nhiều người vẫn tìm được lối đi vào.

 

*

 

Những linh hồn thoát xác tìm cách quay về chiến đấu với loài quạ dữ. Sau những loạt đạn không gây sát thương, khói hương căng thành bảng, viết con chữ đầu tiên của bài học mới.

 

*

 

Đây là dòng cuối cùng trong một bản di chúc:

“Bắt đầu lễ Thiên táng lúc xuất hiện bóng quạ”.

 

*

 

Bóng đêm chui dần vào bụng quạ.

 

Cả chúng ta nữa, đang cồn cào cùng dòng sông đói khát. Những giọt nước đục tìm cách lọt qua khe vải. Mặt nước khổng lồ ghìm nén xao động, mong giữ lại bóng người. Bật que diêm rồi, vẫn nhớ ngọn bấc còn rất xa. Vung tay lên, nói to một mình trong bóng tối.

 

Con quạ khật khừ xuyên đêm

Thảng thốt kêu

 

Lần đầu tiên tiếng động ra đi không vọng lại.


M.V.P

 


(Сборник стихов “Будь молчалив, течет вода...” – Tập thơ “Lặng yên cho nước chảy”)




(*) Dịch giả, nhà thơ Nguyễn Quốc Hùng sinh 1969, tại Nhân Chính - Từ Liêm - Hà Nội. Hiện đang sống tại Matxcơva - LB Nga. Học tại Đại học Hóa tinh vi Matxcova 1988 – 1994. Bảo vệ luận án tiến sỹ kinh tế tại Viện kinh tế - Viện Hàn lâm khoa học LN Nga 1997. Cộng tác viên Viện nghiên cứu Châu Âu - Viện KHXH Việt Nam. Hiện là Đại diện báo Đời sống và Pháp luật - Hội luật gia Việt Nam tại LB Nga… (Theo Tuyển thơ Nối hai đầu thế kỷ, Nxb. Hội Nhà văn 2014).

 


(**) Nhà Việt Nam học Svetlana Glazunova Evgenhevna. Năm 1995 chị tốt nghiệp Khoa Quan hệ Quốc tế (Ban Phương Đông học) thuộc trường Đại Học Quan hệ quốc tế quốc gia Maxcơva (MGIMO - Bộ Ngoại giao Nga). Từ 10/1992 - 6/1993 và 10/1995 - 5/1996 chị thực tập tại Khoa tiếng Việt trường Đại học quốc gia Hà Nội. Từ năm 1996 Svetlana E. Glazunova là giảng viên tiếng Việt tại Ban tiếng Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan, Lào, Khmer và Miến Điện thuộc Bộ Ngoại giao Nga. Hiện chị là giảng viên cao cấp của các Ban trên. Ngoài ra, chị hoạt động tích cực trong lĩnh vực dịch thuật. Tham gia biên tập “Giáo trình nâng cao kỹ năng báo chí Việt Nam” của tác giả L.L. Sandakova (Nxb. Đại học Quan hệ quốc tế quốc gia Maxcơva, 2004). Tham gia biên soạn cuốn I đại Từ điển Việt - Nga (Nxb. “Văn học phương Đông”, Viện Hàn lâm khoa học Nga, 2006).

 


(***) Nhà thơ Kharlampeva Natalia Ivanovna, hội viên Hội Nhà văn Liên bang Nga, Thư ký điều hành Hội NV LB Nga. Nhà thơ nhân dân-công dân văn hóa danh dự nước cộng hòa Xakha (Yakutchia). Chủ tịch điều hành Hội Nhà văn nước cộng hòa Xakha (Yakutchia) từ năm 2003. Bà có thơ đăng từ năm 1975, đến nay đã xuất bản hơn 10 cuốn sách... (http://www.sakhalit.com/node/566)

 

 

 

 

 

 

 

 

BÀI KHÁC
1 2 3 4 5  ... 

image advertisement
image advertisement
image advertisement




























Thiết kế bởi VNPT | Quản trị