Камень в русле горной реки, Бюльбюль, Письмо флейте (cтихи). Maй Baн Фан. Поэтический перевод : Наталья Харлампьева
Maй Baн Фан - Mai Văn Phấn
Подстрочный перевод - Bản dịch nghĩa:
Нгуен Куок Хунг - Nguyễn Quốc Hùng(*)
Светлана Глазунова - Svetlana Glazunova(**)
Поэтический перевод - Dịch thơ:
Наталья Харлампьева - Natalia Kharlampeva(***)
Tranh của Họa sỹ Elena Kalashnikova (Nga)
Камень в русле горной
реки
Лежит он спокойный,
безмолвный в потоке воды,
в потоке воды бурлящей и леденящей.
Это ли весна?
Цветущие ветки стелются
по тропинке старой,
и птицы поют
подпевая ручью.
Над камнем тень дерева колышется,
то солнце слепит,
то тенью накроет,
цветение диких цветов
вечно и неизменно.
И камень закрывает глаза,
позволяя потоку себя обнимать.
Быстроногие мартышки
В тени деревьев играют,
Капли дождя вездесущи –
Проникают везде, во все уголки души.
А облака застыли на месте,
только запах спелых плодов гуавы
ползет по лесу,
еж на месте стоит,
подняв свои иглы.
И вечен этот миг,
когда каждый на месте своем.
Dịch giả Nguyễn Quốc Hùng
Đá trong lòng suối
Lặng yên cho nước chảy
Xối xả lâu lạnh toát
mình đá
Mùa Xuân đấy sao?
Dây hoa leo đường mòn
Tiếng chim dội xuống róc
rách
Bóng cây xao động tảng
đá lúc râm lúc nắng
Sắc hoa dại kia sao bình
yên mãi được
Đá nhắm mắt an nhiên
nước cuốn
Mấy con voọc chà vá chân
xám
Lại làm bóng cây dâng
cao dập dềnh
Mưa bụi bay lung tung
Thấm ướt nơi sâu kín
nhất
Mây dừng nơi mây
Mùi ổi chín thơm len lỏi
trong rừng
Một con nhím xù lông bất
động
Hơn hết lúc này
Ai hãy ở yên chỗ đó.
Nhà Việt
Nam học Svetlana Glazunova
Бюльбюль
Птичка-невеличка бюльбюль
в красной шапочке своей
поет на дереве высоком.
Чиу...уит...хюит...ту ию...
Я представил клетку,
чтоб ее удержать
едва я дорисовал клетку,
как птичка улетела.
Я спешу за ней
и в движении этом
солнце обнимаю,
обнимаю ветер
но это не вечно!
Бюльбюль прилетит
поклевать гусениц,
спелые красные фрукты
и каплей воды насладиться.
Чиу...уит...хюит...ту ию...
Впрочем, может ей лучше
не возвращаться
Я ведь храню в душе ее песню.
Nhà thơ Natalia Kharlampeva
Con chào mào
Con chào mào đốm trắng
mũ đỏ
Hót trên cây cao chót
vót
Triu… uýt… huýt… tu hìu…
Tôi vội vẽ chiếc lồng
trong ý nghĩ
Sợ chim bay đi
Vừa vẽ xong nó cất cánh
Tôi ôm khung nắng, khung gió
Nhành cây xanh hối hả đuổi theo
Trong vô tăm tích tôi nghĩ
Lát nữa chào mào sẽ mổ những con sâu
Trái cây chín đỏ
Từng giọt nước
Thanh sạch của tôi
Triu… uýt… huýt… tu hìu…
Chẳng cần chim lại bay về
Tiếng hót ấy giờ tôi nghe rất rõ.
Письмо флейте
Я дую в полую пустоту флейты,
темную, словно ад,
в поисках семи дорог к раю:
до, ре, ми, фа, соль, ля, си.
Каждая гамма улетает, хлопая крыльями,
покачиваясь в таинственно мерцающем
семицветном свете,
и в каждой тени образ прекрасной флейты.
Позвольте мне вновь с волнением приблизить
губы и дунуть.
Гаммы покинув басы, устремляются вверх,
отпуская в ночь бесчисленное множество
ступеней звукоряда.
Я слышу эхо тяжелых шагов ночи,
которая поднимается тоже вверх,
перебирая каждый регистр.
Безмолвная Вселенная маячит в ночи.
Мягкие, нежные волны сообщают размытому
берегу,
что я пока еще здесь, чтобы,
проснувшись поутру, встретить удачу.
Каждый темный угол души моей вбирает в себя
звуки,
Вбирает звуки, как ребенок,что сосет молоко
из материнской груди,
звуки, которые несут свет.
Viết cho cây sáo
Tôi thổi vào lòng ống sáo tối đen địa
ngục, để tìm ra bảy lối tới thiên đường: đồ rê mi fa son la si.
Từng âm giai vỗ cánh bay đi, chao nghiêng
trong ánh sáng bảy màu lung linh huyền ảo, để những bóng tối kia cũng mang
hình ống sáo, cho tôi lại ghé môi khắc khoải thổi vào.
Rời bè trầm chúng bay lên cao, rồi thả
vào đêm bao chiếc thang cung bậc. Nghe âm vang bước chân của bóng đêm nặng
nhọc, đang lần từng âm vực mà lên.
Vũ trụ lầm lì lơ lửng trong đêm. Những con
sóng dịu mềm cho bên lở biết mình còn đó, để ban mai thức dậy gặp bên
bồi.
Mỗi góc tối trong tôi đang ngậm lấy âm
thanh như ngậm vào vú mẹ, từ miệng mình he hé ánh sáng bồng bế nhau
thong thả tràn vào.
(Сборник стихов “Будь молчалив, течет вода...” – Tập thơ “Lặng yên cho nước chảy”)
(*) Dịch giả, nhà thơ Nguyễn Quốc Hùng sinh
1969, tại Nhân Chính - Từ Liêm - Hà Nội. Hiện đang sống tại Matxcơva - LB Nga.
Học tại Đại học Hóa tinh vi Matxcova 1988 – 1994. Bảo vệ luận án tiến sỹ kinh
tế tại Viện kinh tế - Viện Hàn lâm khoa học LN Nga 1997. Cộng tác viên Viện
nghiên cứu Châu Âu - Viện KHXH Việt Nam. Hiện là Đại diện báo Đời sống và Pháp
luật - Hội luật gia Việt Nam tại LB Nga… (Theo Tuyển thơ Nối hai đầu thế kỷ,
Nxb. Hội Nhà văn 2014).
(**) Nhà Việt Nam học
Svetlana Glazunova Evgenhevna. Năm 1995 chị tốt nghiệp Khoa Quan hệ Quốc tế (Ban Phương Đông học) thuộc trường Đại Học Quan hệ quốc tế quốc gia Maxcơva (MGIMO - Bộ Ngoại giao Nga). Từ 10/1992 - 6/1993 và 10/1995 - 5/1996 chị thực tập tại Khoa tiếng Việt trường Đại học quốc gia Hà Nội. Từ năm 1996 Svetlana E. Glazunova là giảng viên tiếng Việt tại Ban tiếng Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan, Lào, Khmer và Miến Điện thuộc Bộ Ngoại giao Nga. Hiện chị là giảng viên cao cấp của các Ban trên. Ngoài ra, chị hoạt động tích cực trong lĩnh vực dịch thuật. Tham gia biên tập “Giáo trình nâng cao kỹ năng báo chí Việt Nam” của tác giả L.L. Sandakova (Nxb. Đại học Quan hệ quốc tế quốc gia Maxcơva, 2004). Tham gia biên soạn cuốn I đại Từ điển Việt - Nga (Nxb. “Văn học phương Đông”, Viện Hàn lâm khoa học Nga, 2006).
(***) Nhà thơ Kharlampeva Natalia Ivanovna, hội
viên Hội Nhà văn Liên bang Nga, Thư ký điều hành Hội NV LB Nga. Nhà thơ nhân
dân-công dân văn hóa danh dự nước cộng hòa Xakha (Yakutchia). Chủ tịch điều
hành Hội Nhà văn nước cộng hòa Xakha (Yakutchia) từ năm 2003. Bà có thơ đăng từ
năm 1975, đến nay đã
xuất bản hơn 10 cuốn sách... (http://www.sakhalit.com/node/566)