Kråkvariationer - Biến tấu con quạ (dikter - thơ) - Mai Văn Phấn. Övers: Mimmi Dieu Huong Bergström, Erik Bergqvist, Maja Thrane, Tobias Theander
Mai Văn Phấn
Övers. – Các dịch giả: Mimmi Dieu Huong Bergström, Erik Bergqvist, Maja Thrane, Tobias
Theander
Bìa 1 tập thơ Till: igår. Tolv vietnamesiska poeter
- Cho ngày hôm qua. Mười hai nhà thơ
Vietnam,
Nxb. Tranan, Thụy Điển, 2010
Cùng dịch giả Mimmi Dieu Huong Bergström, tại Hà Nội, 6/3/2015
Kråkvariationer
Dödens kyla drog en ljusveke in i himmelen
Kråkan skimrade
*
Född
effer kråkans krax
Lämnad utan strid
paketet var öppet
sönderfallet kunde inte döljas
En naturläkare brände dokument i ett hörn av trädgården
Den senaste försändelsen medicin försenad
Kvackslvarna bestraffades
fick sina munnar bortslitna med järnkrok
Född
när den stora klockan plötsligt föll
ner över huvudet på en gammal betjänt
En fisk begick självmord, hoppade rakt in i molnet
tusentals krokar föll
Född
bläck rann ner mot skorna och blodet
koagulerade i svalget
En anteckning pä första sidan
läckte genom alla sidor
*
Dyker med vassa vingar
från hög höjd
tar sikte på ett kadaver
klyver rymden
brådskande vind hinner inte lägga om såret
*
Postumt bildbevis
plockad från ögats urholkade
vy
tungan hackad och urdragen
en lektion i talspråk på tork i solen
Sliter köttet i bitar
tar isär kroppen
river ut inälvorna
Det nyss resta kraniet
täckt av mossa
oförmöget att skriva sorgens minne
*
Kråkan drömde
att varje dd gjorts upp i förväg
Efter kråkans krax
dog någon frivilligt
*
Kråkan flög in i rummet
Ett finger höjdes
med innebörden:
Det här är ett kikarsikte
Det här är en machete
Till och med hacka och spade
och själva fingret är hårt
stelfruset rentav
därpå ruttnat
och söndermalt
*
Gå inte nära skuggan
en gång var den kråkor
som bredde sina vingar i skymningen, gryningen
Klor klängde vid vinden
vid markens torra löv
knäckte grenar
Poeten tog skydd i skuggan
Bokstävernas utsikt avskuren
*
En klunga människor i mörka rockar och masker lösgiorde sig ur folkmassan. Medan de sprang slog
de med armarna. De försökte lyfta. Skugga strök marken.
*
Sittande på en trätjuga, mätt och
nickande, drömde kråkan att varje tugga i dess kräva blev till ägg.
Andra kråkor kröp fram ur de fem sinnena, flockades och slog genast ner på bytet,
instinktivt, på köttätares vis.
*
Ett omätligt lidande såg tillbaka på livet som antogs ha dött.
Slängkappan skrek hest när den drog förbi borden och garderoben. Telefonen sov
djupt. Luren gapade för att kväva en signal. Ett kvastskaft klängde fast vid
städerskan och drev henne tillbaka till slaskhon. Hattbrättet grät nervöst
och böjde sig för att kittla vakten i ansiktet. Ingen
öppnade grinden. Många tog sig ändå in.
*
Lösdrivna själar försökte återvända för att bekämpa de
rovlystna kråkorna. Efter några verkningslösa skottlossningar sträckte sig en
slinga rök mot svarta tavlan och skrev orden som tillkännagav en ny lektion.
*
Sista raden i ett testamente:
“Inled den himmelska
begravningen när kråkans skugga blir synlig.”
*
Undan för undan kröp mörker in i kråkans mage.
Också vi tärdes längs en hungrig och törstig flod. Grumligt vatten ville tränga genom
kläderna. Den vida ytan slätade ut krusningen för att få behålla spegelbilden
av ett träd. En uppflammande tändsticka mindes att ljusveken var långt borta.
Vinkande händer talade högt, ensamma i mörkret.
Kråkan hela natten opasslig.
Kraxade ängsligt
För första gången gav sig oljudet iväg utan att eka.
Biến tấu con quạ
Tử khí kéo ngọn bấc tới đỉnh trời
Con quạ rực sáng.
*
Khai sinh
Sau tiếng quạ kêu
Ra đi không cưỡng lại
Gói bọc được mở ra
Sự băng hoại không thể cất giấu
Thày lang đốt sách cuối vườn
Tân dược trong kho đều quá hạn sử dụng
Những phù thủy chịu hình phạt
Miệng bị đóng bởi những móc sắt
Khai sinh
Khi quả chuông rơi xuống bất ngờ
Chụp lên đầu người bõ già
Con cá nhảy vào đám mây tự vẫn
Buông ngang trời ngàn vạn lưỡi câu
Khai sinh
Mực đổ dưới chân và máu
vón cục ở yết hầu, phế quản
Viết một nét lên trang đầu
thấm suốt cả ngàn trang sách.
*
Bổ nhào từ đỉnh cao
Bằng đôi cánh sắc
Lấy tâm điểm xác chết
Chém toác bầu không
Gió hấp tấp không kịp băng bó.
*
Móc từ hốc mắt
những nhãn quan
Di ảnh là vật chứng
Mổ vào lưỡi
và kéo dài
Phơi dưới trời bài học khẩu ngữ
Bóc từng mảng thịt
Tháo rời tứ chi
Sổ tung lục phủ ngũ tạng
Hộp sọ vừa được dựng lên
Rêu đã phủ đầy
Không viết nổi những dòng bi ký.
*
Con quạ mơ
Mọi cái chết đều được sắp đặt
Sau tiếng quạ kêu
Ai đã tự nguyện nằm xuống.
*
Con quạ bay vào phòng
Một ngón tay giơ lên yếu ớt
Ý nói:
Đây là họng súng
Là lưỡi mác
Thậm chí cuốc thuổng
Thậm chí chính ngón tay rất cứng
Đúng hơn là đông cứng
Rồi băng đá
Rồi rữa tan.
*
Đừng đến gần bóng râm
Chúng là con quạ
Xõa cánh lúc hoàng hôn, rạng đông
Nanh vuốt bám gió
Xay nghiền lá khô
Bẻ những cành vượt
Nhà thơ trú trong bóng râm
Từng con chữ bị khoét mất mắt.
*
Trông
Sự vật
Trừng trừng
Bởi chớp mắt
Bóng quạ
Ập tới.
Bóng mình
Không cất tiếng
Sợ biến thành gà con.
*
Một số người trỗi dậy từ đám đông, khoác
áo đen, mang mặt nạ đen. Vừa chạy, họ vừa đập cánh tay vào hai bên sườn. Đầu cố
ngước lên. Bóng đen bay là là mặt đất.
*
Đậu trên chạc cây trong trạng thái
bội thực và ngủ gật, con quạ mơ mỗi mẩu thức ăn đang nén chặt trong diều biến
thành quả trứng. Đàn quạ con lũ lượt chui khỏi ngũ quan, lập tức sà xuống săn
mồi theo bản năng của loài ăn thịt.
*
Những đau khổ tột cùng ngoái nhìn đời
sống tưởng chừng đã chết. Áo khoác kêu thất thanh khi đi qua bàn tủ. Máy điện
thoại im lìm ngủ. Chiếc kẹp ghim mở miệng cố giấu đi móng vuốt. Cán chổi móc
vào tay người lao công, kéo chị ta về bên hố rác. Vành mũ trên đầu kêu thảng
thốt, rồi cúi xuống rỉa hết mặt nhân viên bảo vệ. Không ai mở cổng. Nhiều người
vẫn tìm được lối đi vào.
*
Những linh hồn thoát xác tìm cách quay
về chiến đấu với loài quạ dữ. Sau những loạt đạn không gây sát thương, khói
hương căng thành bảng, viết con chữ đầu tiên của bài học mới.
*
Đây là dòng cuối cùng trong một bản di chúc:
“Bắt đầu lễ Thiên táng lúc xuất hiện bóng quạ”.
*
Bóng đêm chui dần vào bụng quạ.
Cả chúng ta nữa, đang cồn cào cùng dòng sông đói khát.
Những giọt nước đục tìm cách lọt qua khe vải. Mặt nước khổng lồ ghìm nén xao
động, mong giữ lại bóng người. Bật que diêm rồi, vẫn nhớ ngọn bấc còn rất xa.
Vung tay lên, nói to một mình trong bóng tối.
Con quạ khật khừ xuyên đêm
Thảng thốt kêu
Lần đầu tiên tiếng động ra đi không vọng lại.
M.V.P
(Rút từ tập thơ Till: igår. Tolv vietnamesiska poeter
- Cho ngày hôm qua. Mười hai nhà thơ
Vietnam)