“The Pure Sky of an Early Morning” – The 36th poem of “hidden face flower”- "Ban mai thanh sạch" – Bài thơ thứ 36 trong “hoa giấu mặt” - (explication - chú giải) - Ramesh Chandra Mukhopadhyaya
“The Pure Sky of an Early Morning” – The 36th poem of “hidden face flower”
Tiến sỹ Ramesh
Chandra Mukhopadhyaya
By Ramesh
Chandra Mukhopadhyaya
(From Calcutta, India)
A small cup of tea
Half a cup is drunk
Sunlight shines on sodden leaves
(The Pure Sky of an Early Morning
- Mai Văn Phấn. Translated
from Vietnamese by Pornpen
Hantrakool)
Explication:
A true poet perhaps could find great things as trifles and trifles as great
things. A poem on drinking tea could sound trifle with the western cultures.
True that the East is East and the West is West. But both the East and the West
agree over a cup of tea and it is the contribution of the Far East to the
world. Drinking tea is a way of life in Vietnam. On every occasion tea is
served. And with the people of Vietnam every time is perhaps tea time. Tea is
served at the roadside stalls along with a dish of sunflower seeds. There are
teahouses. The architecture of the tea houses are unique so that one knows a
tea house by its architecture. And there are myriad kinds of tea served in
Vietnam. During the 13th and 14 th century it was very polite to take tea.
Scholars used to take tea to concentrate on the subject matter of deliberation.
Drinking tea purifies the character and lifts up the morals- so did the elders
believe. Vietnam if the writer of the present essay is correct has the oldest
tea plant that dates back to 1000 years. And some scholars do claim
that tea plants originated in Vietnam. Tea drinking is a tradition of the Vietnamese people for over three thousand
years. Chinese people have been drinking tea since 2500 BC perhaps. There was a
king who unknowingly took some poison and fell sick. Then he took some tea and
at once he was hale and hearty. The effect of the poison was done away with. So
earlier tea was taken as a medicine. Later the Buddhist monks opted for tea so
that they could be mindful in zazen. It was during the Tang dynasty that tea
drinking became universal in China. This is not all. Tea became one of the
major themes and motifs in Chinese literature. The cup that cheers but never
inebriates - Hurrah! But the introduction of tea is mingled with different
legends. Bhagavan Bodhidharma the first patriarch of Zen it is said fell
asleep while meditating. When he woke up he was so angry with his eyelids that
he at once cut them off and lo! As soon as they fell on the ground a plant was
there. Bhagavan Bodhidharma ate its leaves and was at once charged with fresh
vitality. And it was Bhagavan Dogen who introduced tea in Japan.And there are many
Zen tales around tea and tea cups.
This poem of Mai Văn Phấn
seems to spring from the very cultural backdrop of the Far East that we have
referred to…
Well it is morning. True a
stork swoops upon its prey. A dirty morning indeed. But at the same time
a bird sips from the clouds abloom in the morning Sun. And morning tea is being
served all over Vietnam in every family. And the poet observes a small cup of
tea. The cup itself is the earth element and receptacle. The tea stands for the
water element and the earth element. The teaplant springs from the earth. A cup
brimming with tea is like a person overflowing with love. It is like a cloud
heavy with water particles. But nay. If the cup is full there will be no
room for fresh knowledge and wi sdom. This alludes to a zen story. In fact the
mind has to be emptied. When the furniture of thought provoked through the
senses by the outer world is expelled there are revelations from within.
The bird drinks from the cloud laden with water particles. Bard is a
homonym of bird. So the poet is the bard and bird in one. He sips the tea
slowly. And in course of time half of the cup becomes empty. The poet does not follow the zen guru
literally. He does not drink the whole tea in the cup and empty the cup. He
sips from the small cup and it becomes half empty. And there is the void. The
void now mingles with the earth and the water. Unless the void is there no
sound could show up. A cup with a half cup of tea And lo! Sun light fills
the void. The sunlight could be the symbol of pure consciousness that rises
with the waning of the consciousness of the outer world. And now earth air
water and fire the four elements mingle. The cup becomes the microcosm of the
universe. Since half of the cup is drunk the tea leaves are now distinctly
visible. They are soaked in the water. The earth element is soaked in the water
element.Now the sun shines upon them… Why does the Sun shine upon the tea
leaves. Why does the Sun take care of the tea leaves. People could forecast the
future looking at a tea cup and looking at the tea leaves at the bottom
of the cup. Descrying the tealeaves at the bottom of the cup the foreteller can
comprehend the remote future. The Sun is the seer. One wonders what the
Sun reads about our future and about the future of the world. What does
the Sun prophesy? There is no answer. The poet is here content to depict a
situation. But the Sun seems to stand for happiness success and power. So let
us rejoice at the sight of the Sun shining on the soaked leaves of the
tea.
Now looking at the title
of the poem another level of the meaning of the poem becomes obvious. The sky
is itself the cup. Darkness is the tea. Half of the tea is drunk.So it is
dawn the hour when light and darkness meet. The Sun however shines on the
soaked tealeaves or the Nature. A very unique way of describing dawn. The
poet Mai Văn Phấn is always fond of the moments when opposites meet.
Translated by Phạm Văn Bình
Bản dịch của Phạm Văn Bình
Nghệ
thuật truyền thống vùng tây bắc Ấn Độ
"Ban mai thanh sạch" – Bài thơ thứ 36 trong “hoa giấu mặt”
Ramesh
Chandra Mukhopadhyaya
(Từ
Calcutta, Ấn Độ)
Chén trà
Nhấp một nửa
Nắng trên tán lá còn ướt
(Ban mai thanh sạch - Mai Văn Phấn. Pornpen Hantrakool dịch sang Anh ngữ)
Chú giải:
Một
nhà thơ chân chính có thể coi những điều lớn lao như là những điều nhỏ bé và
những điều nhỏ bé như là những điều lớn lao. Một bài thơ về việc uống trà có
thể nghe như một điều nhỏ bé với những nền văn hóa phương Tây. Đúng ra là
phương Đông là phương Đông và phương Tây là phương Tây. Nhưng cả phương Đông
lẫn phương Tây đều đón nhận một chén trà và đó là sự đóng góp của vùng Viễn
Đông đối với thế giới. Uống trà là một lối sống ở Việt Nam. Trong mọi dịp,
người ta đều dùng trà. Và với người dân Việt Nam, mọi thời gian có lẽ đều là
thời gian của trà. Trà được bán ở các quán ven đường cùng với một món cắn chắt
là hạt hướng dương. Có những trà thất. Kiến trúc của các trà thất độc đáo đến
nỗi người ta biết ngay một trà thất bởi kiến trúc của nó. Và có cơ man các loại
trà được bán ở Việt Nam. Trong thế kỉ 13 và thế kỉ 14, người ta uống trà với
một phong cách rất nho nhã. Các học giả thường uống trà để tập trung suy nghĩ khi
phải cân nhắc về những vấn đề trọng yếu. Việc uống trà thanh lọc phẩm hạnh và
đề cao đạo đức – những bậc cao niên tin vào điều này. Việt Nam, nếu người viết
bài tiểu luận này là đúng, có cây trà già nhất đã thọ tới một ngàn năm. Và một
số học giả khẳng định là cây trà có nguồn gốc từ Việt Nam. Việc uống trà là một
truyền thống của người dân Việt Nam trong hơn ba ngàn năm. Người Trung Hoa có
lẽ đã uống trà từ năm 2500 trước Công nguyên. Có một vị vua vô tình uống phải
chất độc nào đó và bị ốm. Lúc đó, ông uống một ít trà và ngay lập tức trở nên sinh
long hoạt hổ. Tác động của chất độc đã bị loại trừ. Vì vậy, trước đây trà được
uống như là một vị thuốc. Sau này, các vị sư uống trà để có thể tập trung tâm
trí vào trạng thái thiền định. Chính trong thời Đường, việc uống trà trở thành
phổ biến ở Trung Hoa. Không chỉ có thế. Trà trở thành một trong những đề tài và
mô típ chủ yếu trong nền văn học Trung Hoa. Chén trà làm người ta phấn khích
nhưng không bao giờ bị mê mẩn tâm thần – Thật tuyệt vời! Nhưng việc giới thiệu
về trà bị hòa lẫn với những truyền thuyết khác. Đức Bồ Đề Đạt Ma Bhagavan, vị
trưởng bối đầu tiên của Phái Thiền tu được kể là đã thiếp ngủ trong khi thiền
định. Khi ngài thức dậy, ngài rất bực mình với hai mí mắt của mình đến nỗi ngài
cắt bỏ chúng ngay lập tức và nhìn kìa! Ngay khi chúng rơi xuống đất, một thân
cây đã mọc lên ở đó rồi. Đức Bồ Đề Đạt Ma Bhagavan ăn những chiếc lá của cái
cây đó và lập tức ngài thấy mình tràn đầy nguồn sinh lực mới. Và chính Bhagavan
Dogen đã du nhập trà vào Nhật Bản. Có nhiều câu chuyện của Phái thiền tu xung
quanh cây trà và chén trà.
Bài
thơ này của Nhà thơ Mai Văn Phấn dường như bắt nguồn từ chính nền tảng văn hóa
của vùng Viễn Đông mà chúng ta vừa nói đến…
Vâng,
đó là vào buổi sáng. Đúng vậy, một con cò lao xuống con mồi của mình. Rõ ràng
là một buổi sáng nhơ bẩn. Nhưng cùng lúc đó, một con chim hớp từng ngụm nước từ
những đám mây đang bừng nở trong ánh mặt trời buổi sáng. Và món trà buổi sáng
đang được dọn ra ở mọi gia đình trên khắp đất nước Việt Nam. Còn nhà thơ thì quan
sát một chén trà nhỏ. Bản thân chiếc chén là nguyên tố Đất và là đồ đựng. Trà
đại diện cho nguyên tố Nước và nguyên tố Đất. Cây trà mọc lên từ Đất. Một chén
đựng đầy trà giống như là một người đang tràn trề tình yêu. Nó giống như một
đám mây trĩu nặng những hạt nước vậy. Nhưng không. Nếu chiếc chén đầy trà thì
sẽ không còn chỗ cho những kiến thức và trí tuệ mới. Điều này mang hàm ý về một
câu chuyện của phái Thiền tu. Trong thực tế, thức hải phải trống rỗng. Khi nguồn
kiến thức của tư tưởng bị kích thích
thông qua các giác quan bởi thế giới bên ngoài được phóng thích thì có những
điều được phát hiện từ thế giới bên trong. Con chim uống nước từ đám mây trĩu
nặng những hạt nước. Nhà thơ là người trùng tên với loài chim. Vì vậy, nhà thơ
với con chim là một. Nhà thơ uống trà một cách từ tốn. Và trong thời gian đó,
một nửa chén trà đã cạn. Nhà thơ không bắt chước vị trưởng bối của Phái Thiền
tu theo từng câu từng chữ. Nhà thơ không uống hết phần trà trong chén và làm
cho cái chén trống không. Nhà thơ hớp từng ngụm từ chiếc chén nhỏ bé và nó cạn
một nửa. Và có một khoảng trống. Khoảng trống đó hiện giờ tan hòa với Đất và
Nước. Nếu không có khoảng trống đó, sẽ không có âm thanh nào được phát ra. Một
chiếc chén với một nửa phần trà trong chén. Và nhìn kìa ! Ánh mặt trời đã tràn
đầy khoảng trống đó. Ánh mặt trời có thể là biểu tượng của sự minh ngộ trỗi dậy
cùng với sự lụi tàn của sự nhận thức về thế giới bên ngoài. Và giờ đây, đất,
không khí, nước và lửa là bốn nguyên tố đã dung hợp lại với nhau. Chiếc chén
trở thành một tiểu vũ trụ. Vì nửa chén trà đã được uống, những chiếc lá trà lúc
này được nhìn thấy rõ ràng. Chúng bị nhúng trong nước. Nguyên tố Đất bị nhúng
trong nguyên tố Nước. Bây giờ mặt trời chiếu lên chúng… Tại sao mặt trời chiếu
lên những chiếc lá trà vậy? Tại sao mặt trời quan tâm chăm sóc những chiếc lá
trà vậy? Con người có thể dự báo tương lai bằng cách nhìn vào một chén trà và
nhìn những chiếc lá trà ở đáy chén. Nhìn những chiếc lá trà ở đáy chén, thầy
tướng số có thể thức ngộ được tương lai xa xôi. Mặt trời là nhà tiên tri. Người
ta tự hỏi rằng mặt trời đọc được điều gì về tương lai của chúng ta và tương lai
của thế giới này. Mặt trời tiên đoán được điều gì? Không có câu trả lời. Nhà
thơ ở đây hài lòng miêu tả một trạng huống. Nhưng mặt trời dường như đại diện
cho niềm hạnh lạc, sự thành đạt và quyền năng. Vậy chúng ta hãy vui mừng với
cảnh tượng mặt trời chiếu rọi lên những chiếc lá trà thấm nước.
Lúc
này, nhìn vào tựa đề bài thơ, một tầng nghĩa khác của nó cũng trở nên rõ ràng. Bản
thân bầu trời là chiếc chén. Bóng tối là trà. Một nửa chén trà đã được uống. Vì
vậy, bình minh là giờ phút mà ánh sáng và bóng tối giao hội. Tuy nhiên, mặt
trời chiếu lên những chiếc lá trà bị thấm nước hay chính là Thiên nhiên. Một
cách miêu tả thật độc đáo về bình minh. Nhà thơ Mai Văn Phấn luôn luôn yêu
thích những thời khắc mà những điều đối lập giao hội với nhau.
Biography of Dr. Ramesh
Chandra Mukhopadhyaya
Address: 6/ 1 Amrita Lal
Nath lane P.0. Belur Math Dist Howrah West Bengal India Pin code711202. Date of
Birth 11 02 1947. Education M.A [
triple] M Phil Ph D
Sutrapitaka tirtha plus degree in
homeopathy. He remains a retired teacher of B.B. College, Asansol, India. He
has published books in different academic fields including religion, sociology,
literature, economics, politics and so on. Most of his books have been written in
vernacular i.e. Bengali. Was awarded gold medal by the University of Calcutta for
studies in modern Bengali drama.
Tiểu sử Tiến sĩ Ramesh
Chandra Mukhopadhyaya
Địa chỉ : 6/ 1 đường Amrita
Lal Nath hòm thư Belur Math Dist Howrah Tây Bengal Ấn Độ mã số 711202. Ngày
sinh : 11 02 1947. Thạc sĩ văn chương, thạc sĩ triết học, tiến sĩ triết
học [bộ ba] cùng với Bằng y học về phép
chữa vi lượng đồng cân. Ông còn là một giảng viên đã nghỉ hưu của Trường đại
học B.B, Asansol, Ấn Độ. Ông đã có những cuốn sách được xuất bản về nhiều lĩnh
vực học thuật bao gồm tôn giáo, xã hội học, văn học, kinh tế, chính trị v.v.
Hầu hết sách của ông đã được viết bằng tiếng bản địa là tiếng Bengal. Ông đã
được tặng thưởng huy chương vàng của Trường đại học Calcutta về các nghiên cứu
nghệ thuật sân khấu Bengal hiện đại.
Bìa tập thơ “hidden face flower - hoa giấu mặt” xuất bản ở Thái Lan