Dạy học theo hướng phát triển năng lực đọc hiểu cho học sinh từ trường hợp bài thơ “Thuốc đắng” của Mai Văn Phấn (Nghiên cứu lí luận). Lê Hải Anh, Chu Thị Thuỷ
Dạy học theo hướng phát triển năng lực đọc hiểu cho học
sinh từ trường hợp bài thơ “Thuốc đắng” của Mai Văn Phấn
Lê Hải Anh[1], Chu Thị Thuỷ[2]
TÓM TẮT: Năng lực đọc hiểu
văn bản là nền tảng trong các năng lực văn học nói chung. Đây là vấn đề đã được
nghiên cứu nhiều nhưng nó vẫn còn cần được nhìn nhận sâu và kĩ hơn nữa. Bám sát
mục tiêu phát triển năng lực của chương trình giáo dục tổng thể năm 2018, chúng
tôi đề xuất một phương pháp đọc hiểu ở một trường hợp lựa chọn là ngữ liệu mở.
Chúng tôi chọn một văn bản không có trong chương trình và sách giáo khoa hiện
hành: Bài thơ “Thuốc đắng” của tác giả Mai Văn Phấn để tiến hành thực nghiệm vì
đây là một văn bản đáp ứng được những tiêu chí mà nghiên cứu này đặt ra: hay, lạ,
nhiều cơ hội khai thác để tiệm cận hướng phát triển năng lực nhưng vẫn vừa sức
học sinh.
1. Đặt vấn đề
Vấn đề
phát triển năng lực văn học cho học sinh (HS) thông qua hoạt động đọc hiểu văn
bản văn học đã được đặt ra từ nhiều năm. Các nhà giáo dục (GD), các nhà quản
lí, giáo viên (GV), HS đều hiểu được tầm quan trọng của năng lực đọc hiểu trong
việc dạy học môn Ngữ văn. Tuy nhiên, quá trình dạy đọc hiểu cho HS chưa đạt
được hiệu quả như mong muốn. Lí do chính là thay đổi chưa triệt để, chưa bài
bản, chưa đi vào lõi của hoạt động. Đặt vấn đề dạy đọc hiểu văn bản văn học
theo định hướng phát triển năng lực cho HS trong thời điểm hiện nay, chúng tôi
muốn đề xuất cách thức thực hiện mới đối với một hoạt động GD quen thuộc. Thiết
nghĩ, mọi vấn đề đều có thể có nhiều cách giải quyết, mục tiêu cuối cùng là
hiệu quả trên HS như mong mỏi của tất cả những người làm GD. Trong xu hướng của
chương trình (CT) sách giáo khoa (SGK) mới về độ mở của ngữ liệu, chúng tôi
chọn một văn bản không có trong CT và SGK hiện hành, bài thơ “Thuốc đắng” của
tác giả Mai Văn Phấn để tiến hành thực nghiệm vì đây là một văn bản: 1/ Đáp ứng
được những tiêu chí mà nghiên cứu này đặt ra: hay, lạ, nhiều cơ hội khai thác
để tiệm cận hướng phát triển năng lực; 2/ Vừa sức HS. Bài thơ “Thuốc đắng” phù
hợp chọn dạy cho HS lớp 8 hoặc lớp 9. Hình thức, các tầng nghĩa và ngôn ngữ thơ
đủ để HS lứa tuổi này tiếp nhận.
1. Nội dung nghiên cứu
2.1.Cơ sở lí luận và thực tiễn
2.1.1.Văn bản và lí thuyết tiếp nhận
Sự phát
hiện ra văn bản là một sự kiện quan trọng trong nghiên cứu văn học đầu thế kỉ
XX. Trong đó, điểm quan trọng nhất của lí thuyết về văn bản xác định ý nghĩa
của tác phẩm văn học không phải là một cái gì đương nhiên, có sẵn trong văn
bản. Như vậy, văn bản văn học luôn chỉ là sự khởi đầu của nghĩa. Bất cứ cách
hiểu văn bản nào cũng là một sự diễn dịch được thực hiện một cách thiếu tự
giác. Thiếu người đọc, văn bản chỉ là một hệ thống kí hiệu trên bản in. Hành
động đọc biến văn bản thành tác phẩm. Tác phẩm văn học được hiểu như là một quá
trình (một hiện tượng động), không nhất thành bất biến mà được mở rộng nghĩa
hầu như vô tận nhờ người đọc. Đến đây, vai trò của tác giả đã chấm dứt, nhường
chỗ cho sự đọc phong phú và đầy bất ngờ của độc giả. Nghĩa của tác phẩm được
người đọc kiến tạo liên tục, vượt khỏi tầm kiểm soát của tác giả.
Người
đọc trong tầm đón nhận của mình, bằng sự liên tưởng, tưởng tượng sẽ lấp đầy
các, khoảng trắng trong văn bản, kiếm tìm các hàm ngôn, phát hiện những khả thể
nghĩa, tìm ra logic của kết cấu và mối liên hệ chỉnh thể của các yếu tố trong
văn bản. Vai trò của người đọc có tính quyết định trong việc biến văn bản thành
tác phẩm. Vai trò chủ động của người đọc phải đi liền với việc tôn trọng tính
khách quan của của tác phẩm. Dạy đọc hiểu văn bản trong nhà trường chính là dạy
cách tiếp nhận văn bản một cách hiệu quả nhất, vừa bám sát đặc trưng của văn
bản văn học vừa đạt được các tiêu chí khoa học.
2.1.2. Năng lực
đọc hiểu văn bản văn học
Trong
các năng lực văn học, năng lực đọc hiểu được xem là quan trọng nhất vì tất cả
các năng lực khác đều liên quan đến đọc hiểu, được phát triển trên nền tảng của
đọc hiểu văn bản. Từ cuối thế kỉ XX, các nước phương Tây và một số nước Châu Á
có nền GD hiện đại (Nhật Bàn, Hàn Quốc, Singapore…) đã rất chú trọng việc dạy
đọc hiểu. Nhiều công trình nghiên cứu sâu tập trung vào phát triển kĩ năng đọc
hiểu cho HS đồng thời với việc thay đổi vai trò của GV.
Thái độ
học tập chủ động tích cực của HS song song với quyền tự chủ của GV đã góp phần
cải thiện năng lực văn học cho HS một cách rõ rệt. Đọc hiểu là hành động sử
dụng các tri thức công cụ và các kĩ năng khác để tiếp nhận và nắm bắt các tầng
nghĩa của văn bản (Tư tưởng của tác giả, các lớp hiển ngôn và hàm ngôn, cảm xúc
chủ đạo, cấu trúc văn bản, đặc điểm ngôn từ nghệ thuật, các thủ pháp nghệ
thuật, giá trị của văn bản đối với nhận thức và tình cảm của người đọc…). Năng
lực đọc hiểu văn bản có những biểu hiện cụ thể như sau:
- HS nắm được tri thức lí luận văn học - công cụ để đọc hiểu văn bản văn học: bản chất và giá trị của văn học, thể loại, thi pháp, phong cách, tiếp nhận…
- Có kiến thức về văn học Việt Nam, văn học nước ngoài: các thời kì phát triển của văn học, đặc điểm, thành tựu, các tác giả, tác phẩm tiêu biểu.
- Có kiến thức về văn bản: Các dạng kết cấu văn bản, đoạn văn bản, liên kết câu, đoạn, phong cách văn bản; Kiến thức ngôn ngữ: từ, câu, các biện pháp tu từ…
- Biết vận dụng các biện pháp, phương pháp, kĩ thuật, chiến thuật đọc hiểu văn bản.
- Có khả năng ứng dụng tri thức văn học vào tìm hiểu, nắm bắt các giá trị sống thực tế.
2.1.3. Thực trạng
đọc hiểu văn bản trong trường phổ thông và tính cấp thiết của việc thay đổi
phương pháp dạy học
Từ năm
2006 đến nay, phương pháp dạy học môn Ngữ văn có nhiều thay đổi, trong đó có
thay đổi về tên gọi các bước tiến hành giờ học văn bản. Phần trọng tâm trước
đây được gọi bằng những thao tác “Phân tích”, “Bình giảng” đã được thống nhất
thay bằng “Đọc hiểu”. Đề thi môn Ngữ văn cũng thiết kế phần đọc hiểu chiếm đến
30% tổng điểm. Đây là sự thay đổi trước hết về quan niệm dạy học từ chỗ xem
thầy là người truyền thụ, độc quyền tri thức, kĩ năng thuyết trình, giảng bình
văn học của thầy là quyết định đến việc xem người học là chủ thể của quá trình
nhận thức, sự chủ động và kĩ năng đọc hiểu văn bản của HS là yếu tố quyết định.
Sau nữa là thay đổi về cách thức dạy học, tập trung mạnh hơn vào việc tổ chức
cho HS tự học, phát triển tư duy độc lập và phản xạ với các yêu cầu từ phía GV.
Tuy
nhiên, từ quan niệm đến thực hành vẫn có khoảng cách rất lớn. Do nhiều nguyên
nhân, bài đọc hiểu trên lớp vẫn nghiêng về việc thuyết trình của GV hơn là hoạt
động tự tiếp nhận của HS. Nhiều GV đã nỗ lực đầu tư đổi mới nhưng vẫn khó thoát
ra khỏi quán tính và khuôn mẫu cũ. Trong đó, nặng nề nhất là hệ thống tri thức
đọc hiểu vẫn do GV áp đặt. Rất khó để HS tự phát hiện ra các nghĩa của văn bản,
vẻ đẹp của ngôn từ và sự độc đáo của thủ pháp. Việc trả bài của HS sau đó vẫn
mang tính chất lặp lại những gì GV cung cấp. Khả năng tìm ra cái khác, cái mới,
tự phát hiện giá trị của văn bản tập trung vào số ít HS giỏi các cấp. Số này
chiếm tỉ lệ quá nhỏ so với tổng lượng HS. Sự thụ động của HS thể hiện rõ nhất
khi cần đọc hiểu các văn bản ngoài CT. Trong các kì thi, ngữ liệu cho câu hỏi
đọc hiểu phần lớn là văn bản nhật dụng, bình luận báo chí, với những câu hỏi
đọc hiểu khá đơn giản, nhiều HS vẫn lúng túng và trả lời sai. Phần lớn HS không
thể tiếp nhận các văn bản nghệ thuật ngoài SGK. Trong phạm vi bài viết này,
chúng tôi không đề cập đến các lí do thuộc về CT, SGK, quy trình kiểm tra đánh
giá mà chỉ tập trung vào phương pháp dạy học. CT, SGK và đề thi có thể thay đổi
dễ dàng, nhưng phương pháp không dễ thay đổi nếu không xuất phát từ một nền
tảng triết lí, một cách nghĩ, một cách làm mới chứ không phải là những thao tác
có tính kĩ thuật.
Nguyên
tắc GD hiện đại đề cao vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của HS trong quá
trình chiếm lĩnh tri thức. Nhiều nhà GD nhắc đến nguyên lí “Tôi nghe tôi quên,
Tôi nhìn tôi nhớ, Tôi làm tôi hiểu” khi xây dựng các lí thuyết mới. HS chỉ tiếp
nhận được 20% kiến thức nếu học thụ động. Muốn hiểu và nhớ được kiến thức lâu
dài, HS cần tự mình tiếp nhận, kết nối, xử lí thông tin với sự hướng dẫn của
GV. Việc tiếp nhận văn bản văn học không nằm ngoài nguyên tắc nhận thức trên
đây.
* Ở góc độ chuyên biệt, đọc hiểu văn bản văn học là hoạt động phức tạp nhất trong tiếp nhận văn bản do đặc thù của đối tượng. Nếu không dạy HS cách tự chiếm lĩnh tri thức trong lĩnh vực văn học, chúng ta không chỉ hạn chế năng lực nhận thức chung mà còn làm hỏng năng lực thẩm mĩ của HS. Trải qua một thời gian quá dài, GD trong nước chỉ chú trọng tri thức và năng lực khoa học tự nhiên, bỏ quên phần quan trọng nhất: năng lực thẩm mĩ trong mối liên hệ với hình thành nhân cách HS. Vấn đề này hiện đã được đặt ra trong CT GD tổng thể. CT đề ra yêu cầu về năng lực thẩm mĩ như sau:
Năng
lực thẩm mĩ của HS bao gồm năng lực âm nhạc, năng lực mĩ thuật, năng lực văn
học. Mỗi năng lực được thể hiện qua các hoạt động sau đây: 1/ Nhận thức các yếu
tố thẩm mĩ; 2/ Phân tích, đánh giá các yếu tố thẩm mĩ; 3/ Tái hiện, sáng tạo và
ứng dụng các yếu tố thẩm mĩ. Yêu cầu cần đạt về năng lực thẩm mĩ đối với HS mỗi
lớp học, cấp học được quy định trong CT các môn Âm nhạc, Mĩ thuật, Ngữ văn và
được thực hiện trong CT của nhiều môn học, hoạt động GD, phù hợp với đặc điểm
của mỗi môn học và hoạt động GD, trong đó ba môn học đã nêu là chủ đạo. Từ
những nội dung đã trình bày ở trên, chúng tôi khẳng định tính cấp thiết của
việc dạy đọc hiểu văn bản văn học theo định hướng phát triển năng lực.
2.2. Đề xuất biện
pháp dạy đọc hiểu văn bản văn học định hướng phát triển năng lực (trường hợp
bài thơ Thuốc đắng của Mai Văn Phấn)
2.2.1. Mai Văn
Phấn và bài thơ Thuốc đắng
a. Nhà thơ Mai Văn Phấn
Mai Văn
Phấn sinh ngày 29 tháng 11 năm 1955 tại Kim Sơn, Ninh Bình. Năm 1974, Mai Văn
Phấn nhập ngũ, đến năm 1981 ông xuất ngũ và theo học Ngôn ngữ học và Văn hóa
Nga tại Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội. Năm 1983, ông tiếp tục tu nghiệp tại
Trường Đại học Sư phạm Maxim Gorky, Minsk (Thủ đô của Byelorussian SSR). Hiện
nay, ông sống và sáng tác tại thành phố Hải Phòng. Mai Văn Phấn đã xuất bản 21
tập sách ở Việt Nam. Ở nước ngoài, Mai Văn Phấn xuất bản 17 cuốn thơ. Thơ của
ông đã được dịch ra 28 thứ tiếng, xuất hiện trong hơn 50 tuyển tập thơ và tạp
chí quốc tế. Mai Văn Phấn giành giải thưởng văn học Cikada 2017 của Thụy Điển.
Giải Cikada được sáng lập năm 2004 và được trao cho các nhà thơ Đông Á.
b. Bài thơ “Thuốc đắng”
“Thuốc
đắng” được xem là bài thơ khai mở hành trình thơ Mai Văn Phấn sau 1990. Sau
“Thuốc đắng”, Mai Văn Phấn sáng tác liên tục, không gian thơ ngày càng mở rộng
với nhiều cung bậc và màu sắc đa dạng. Năm 1991, bài thơ được trao giải nhất,
giải thưởng văn học Nguyễn Bỉnh Khiêm của Hải Phòng. Bài thơ cũng được nhiều
nhà thơ, dịch giả nước ngoài chú ý và dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp. Nguyên văn
bài thơ như sau:
Thuốc đắng
(Cho Ngọc Trâm)
Cơn
sốt thiêu con trên giàn lửa
Cha
cũng có thể thành tro nữa
Thuốc
đắng không chờ được rồi
Giữ
tay con
Cha đổ
Ngậm
ngùi thả lòng chén vơi...
Con
ơi! Tí tách sương rơi
Nhọc
nhằn vắt qua đêm lạnh
Và
những cánh hoa mỏng mảnh
Đưa
hương phải nhờ rễ cay.
Mồ
hôi keo thành chai tay
Mùa
xuân tràn vào chén đắng
Tuổi
cha nước mắt lặng lặng
Sự
thật khóc òa vu vơ.
Con
đang ăn gì trong mơ
Cha
để chén lên cửa sổ
Khi
lớn bằng cha bây giờ
Đáy
chén chắc còn bão tố.
(Hải Phòng, tháng 7 năm 1990)
2.2.2. Đề xuất
một hướng dạy đọc hiểu văn bản theo hướng phát triển năng lực
a. Mục tiêu
1/ HS
hình thành và phát triển năng lực đọc văn bản một cách độc lập. GV chỉ đóng vai
trò hướng dẫn, tổ chức để HS biết cách phân tích và đánh giá văn bản văn học;
2/ HS có khả năng đưa ra các quan điểm cá nhân về văn bản; 3/ HS có khả năng
tiếp nhận các văn bản văn học khác của Việt Nam và thế giới ở tất cả các thể
loại; 4/ HS có khả năng phản biện các ý kiến đánh giá khác về văn bản; 5/ HS
biết cách tự đọc hiểu một văn bản thơ trữ tình.
b. Phương pháp được đề xuất
* Cung cấp kiến thức công cụ: Để HS
có thể đọc hiểu được các văn bản văn học thì phải cung cấp tri thức công cụ cho
các em. Tri thức công cụ ở đây là kiến thức lí luận văn học đơn giản, dễ hiểu
nhất về thể loại thơ. Những đơn vị kiến thức cần thiết cung cấp là: Khái niệm
thể loại; Đặc điểm văn bản thơ: Hình ảnh thơ, tứ thơ, ngôn ngữ thơ, cảm xúc.
* Tạo bối cảnh cho trải nghiệm văn học, trong đó: Cần gợi lên các
kết nối cá nhân, lịch sử, văn hoá hoặc khái niệm rộng rãi ở bạn đọc; Cần mời
gọi những trải nghiệm văn học của bạn đọc HS (bước vào văn bản và khám phá các
khả năng) chứ không chỉ là tìm kiếm thông tin: tác giả, hoàn cảnh ra đời của
bài thơ.
* HS được hướng dẫn để nêu ra những cách hiểu
văn bản khác nhau
- Sử dụng chiến lược đọc suy luận (Make inferences or make guesses) dựa trên các chi tiết trong văn bản và kinh nghiệm của bản thân… Có thể thấy, cách tổ chức bài học văn ở đây chú trọng vào việc hình thành và phát triển ở HS những năng lực đọc dựa trên nền tảng tri thức công cụ và việc kết nối giữa văn bản với mỗi cá nhân HS, nhất là mời gọi những trải nghiệm văn học của bạn đọc HS. Trong đó, mỗi văn bản không chỉ đưa đến cho HS một cơ hội trải nghiệm việc đọc mà quan trọng hơn là giúp HS hình thành, phát triển hệ thống kiến thức và kĩ năng đọc văn thông qua việc tìm hiểu và vận dụng những tri thức lí luận có tính chất công cụ.
- Tổ chức hoạt động nhóm để HS có cơ hội trao đổi, thảo luận, bảo vệ ý kiến cá nhân trong một tập thể nhỏ.
* Liên hệ từ văn bản đến đời sống: Học Văn
học để HS nhận thức về các giá trị, để rồi dựa vào đó có thể xem xét lại thế
giới quan của chính mình. Từ hiểu văn bản, HS nêu ra những suy nghĩ của mình về
những giá trị đời sống được gợi ra từ bài thơ.
* Tập phản biện khi thấy bất đồng ý kiến
với các bạn, với GV. Việc phản biện vừa giúp HS có dịp hoàn thiện năng lực
thuyết trình, khả năng bảo vệ quan điểm, trải nghiệm cảm giác làm chủ bản thân
vừa chia sẻ kinh nghiệm thẩm mĩ cá nhân với người khác.
* Luyện tập vận dụng: Đọc
hiểu một văn bản khác, trình bày quan điểm cá nhăn bằng các hình thức nói,
viết.
2.2.3. Đề xuất
hướng dạy đọc hiểu bài thơ “Thuốc đắng” của Mai Văn Phấn
a. Bước thứ nhất: Cung cấp kiến thức công cụ
Nguyên tắc dạy tri thức công cụ: Kiến
thức lí luận vốn trừu tượng, không dễ hiểu đối với HS phổ thông. Vì vậy, đặt
câu hỏi phải đơn giản, chấp nhận việc diễn đạt hướng về ý không hướng về lời để
tránh lối nói hàn lâm khó hiểu; Kiến thức lí luận dù khó vẫn phải dạy trước để
HS có thói quen tư duy khái quát, có tri thức công cụ để đọc hiểu bất cứ văn
bản nào cùng thể loại; GV nhất thiết phải hướng dẫn HS dùng ngữ liệu để hiểu
kiến thức lí luận. Có thể tiến hành đặt câu hỏi như sau (xem Bảng 1):
b. Bước thứ 2: Tạo bối cảnh để HS có được
trải nghiệm trước khi đọc hiểu
Ở bước
này, HS không chỉ tìm kiếm thông tin mà phải học cách xử lí thông tin, sử dụng
thông tin cho việc tạo tâm thế trước khi đọc hiểu văn bản. Việc tìm hiểu trước
giúp HS làm quen với tác giả và tác phẩm, tạo đường dẫn để việc đọc hiểu sau
này đạt hiệu quả. Phần này HS chuẩn bị trước ở nhà, tại lớp, GV đặt ra hai câu
hỏi để HS nghiên cứu trước:
Câu hỏi 1: Hãy nói những điều em
biết về nhà thơ Mai Văn Phấn? Điều gì làm em ấn tượng nhất về nhà thơ Mai Văn
Phấn?
Câu hỏi 2: Bài thơ được viết trong
hoàn cảnh nào? Từ hoàn cảnh đó, cùng với việc đọc văn bản, theo em bài thơ có
thể viết về điều gì?
Mục
tiêu cần đạt ở câu hỏi 1: HS nắm được vị trí, đóng góp của thơ Mai Văn Phấn,
đặc điểm thơ Mai Văn Phấn. Cao hơn nữa, HS có thể so sánh với các tác giả khác
cùng thời để hình dung được vị trí của tác giả trong bối cảnh văn học Việt Nam
đương đại. Nội dung này nếu thực hiện tốt sẽ cho HS sự tự hào và ngưỡng mộ đối
với một tác giả lớn của Việt Nam. Mục tiêu cần đạt ở câu hỏi 2: HS nắm được
hoàn cảnh ra đời của bài thơ, từ đó gợi ý đến cảm hứng của tác phẩm, đó là tình
cảm cha con.
c. Bước thứ ba: HS tự xây dựng ý nghĩa của
tác phẩm trên cơ sở văn bản bài thơ
Bước
này sẽ tiến hành với hình thức seminar tại lớp. Ở bước này, GV là chủ toạ điều
hành thảo luận. HS nêu ý kiến ủng hộ hay phản bác các luận điểm của chuyên gia,
tự nêu lên ý kiến của mình về văn bản văn học, tranh luận với nhau để cùng nhìn
thấy văn bản dưới nhiều góc độ. Cuối giờ, các em tự viết tóm tắt về buổi thảo
luận, cùng thống nhất ra những điểm nhất quán và những điểm không đồng tình.
Cách thức tiến hành như sau:
Hoạt động 1: Phát hiện ý nghĩa của tác phẩm
- Chia nhóm;
- Các nhóm tìm hiểu văn bản bài thơ, nêu ra các cách hiểu về ý nghĩa bài thơ;
- Các nhóm nêu quan điểm, thảo luận, phản biện;
- GV hướng dẫn HS chọn ra những cách hiểu phù hợp nhất. Gợi ý để tìm hiểu ý nghĩa tác phẩm (xem Bảng 2)
Hoạt động 2: Liên hệ thực tế:
GV đưa
các ra các gợi để HS thảo luận trong nhóm; Các nhóm nêu quan điểm, thảo luận,
phản biện.
Hoạt động 3: Tích hợp liên văn bản
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu “John
Roberts - Chánh án Tòa án Tối cao Hoa Kì từng tốt nghiệp đại học Harvard. Gần
đây, ông có đến tham dự lễ tốt nghiệp trung học của cậu con trai. Ngài Chánh án
đã bắt đầu bài diễn văn của mình trong sự ngỡ ngàng của đám học trò non nớt
chưa từng trải đời. Lũ trẻ vô cùng kinh ngạc bởi điều chúng chờ đợi là những
lời chúc may mắn, mong mọi điều tốt đẹp sẽ đến trong tương lai, nhưng ông đã
không làm thế. Ông nói: “Từ giờ về sau, ta hi vọng con sẽ bị đối xử bất công,
bởi chỉ có như vậy con mới có thể cảm nhận được giá trị của sự công bằng. Ta hi
vọng con có thể nếm trải một chút mùi vị của sự phản bội, bởi chỉ có như vậy
con mới có thể hiểu được tầm quan trọng của sự chân thành. Xin lỗi phải nói thế
này, nhưng ta hi vọng con cảm nhận được sự cô đơn hàng ngày, bởi chỉ có như vậy
con mới hiểu được rằng bạn bè không phải là điều đương nhiên mà con cần phải
giữ gìn. Ta hi vọng con có thể gặp xui xẻo một vài lần, bởi chỉ có như vậy con
mới hiểu được ý nghĩa của may mắn trong đời, để con khiêm tốn hiểu rằng thành
công mình có lẽ là nhờ vận may, và sự thất bại của người khác cũng không phải
là đáng đời. Ta hi vọng thi thoảng con bị người khác coi thường, chỉ có như vậy
con mới hiểu được học cách tôn trọng và lắng nghe là quan trọng tới mức nào. Và
ta cũng hi vọng con sẽ học được đủ đau đớn để học cách cảm thông. Cho dù ta có
hi vọng những điều này hay không thì thật ra sớm muộn gì nó cũng sẽ xảy ra trong
cuộc sống của con. Con có thể tiếp thụ giáo huấn hoặc thu hoạch được gì trong đó hay không, đều dựa vào việc con có nhìn
thấy những bài học trong khổ đau của mình hay không.”
Câu 1: Xác định biện pháp tu từ cú pháp trong
đoạn in nghiêng, nêu hiệu quả của biện pháp tu từ đó?
Câu 2: Vì sao vị Chánh án không chúc các HS
gặp nhiều may mắn? Ông hi vọng HS gặp những điều gì trong cuộc sống sau này?
Câu 3: Trong lời phát biểu trên, thông điệp
được ngài Chánh án gửi đến các HS là gì?
Câu 4: Liên hệ với bài thơ Thuốc đắng của Mai
văn Phấn để thấy những nét tương đồng trong tư tưởng của hai người cha.
Hoạt động 4:
Đọc bài thơ “Thuốc đắng” (bản dịch tiếng Anh
của Lê Đình Nhất Lang), so sánh với bản tiếng Việt, rút ra nhận xét riêng.
Bảng 1: Tìm hiểu
tổng quan
Thơ là gì?
|
Thơ là một thể loại văn
học ra đời sớm nhất của nhân loại. Thơ là thể
loại trữ tình
|
GV nhắc đến 3 thể loại
văn học chính (Tự sự, trữ
tình, kịch)
|
Trong bài thơ, sự kiện
hay cảm xúc quan trọng hơn?
|
Trong thơ, cảm xúc của
nhà thơ trước sự kiện mới là quan trọng.
|
GV gợi ý đển HS sử dụng
ngữ liệu phát hiện vấn đề.
|
Các hình ảnh trong bài
thơ được tác giả xây dựng
bằng cách nào?
|
Hình ảnh thơ thường được
nảy sinh bằng sự liên tưởng, tượng tượng của
nhà thơ.
Hình ảnh thơ thường có tính biểu tượng.
|
GV gợi ý đển HS sử dụng
ngữ liệu phát hiện vấn đề.
|
Lời thơ có đặc điểm gì?
|
Lời thơ được cấu tạo đặc
biệt: có tính gián đoạn, tính lạ hóa, có nhịp điệu, giàu ẩn dụ, nhiều khoảng trống, khoảng trắng.
|
Phần này, GV phải lí giải
kĩ những đặc điểm
|
Bảng 2: Tìm hiểu chi tiết
Các gợi ý để HS liên hệ với thực tế
cuộc sống
|
Văn bản
|
Ý nghĩa của văn bản
|
Hành động của người cha mang tính ép buộc thô bạo. Nhưng vì sao người
cha làm vậy? Hãy nghĩ về cha mình, có bao giờ cha các em như vậy không? Em hiểu
thêm được gì về tình cảm của cha mình?
|
Cơn sốt thiêu con trên giàn lửa
Cha cũng có thể thành tro nữa
Thuốc đắng không chờ được rồi
Giữ tay con
Cha đổ
Ngậm ngùi thả lòng chén vơi...
|
Bài thơ bắt đầu bằng một khoảnh khắc dữ dội,
gay cấn:
- Câu 1: Mô tả căn bệnh của con: cơn bênh nặng
+Lưu ý các từ “thiêu”, “giàn lửa”. Cơn sốt là chi tiết thật nhưng có ý nghĩa
biểu tượng. Căn bệnh hủy diệt dần cơ thể đứa con.
- Câu 2: căn bệnh của con hủy diệt cả tinh
thần người cha
- Câu 3, 4: thuốc đắng + những hành động của
người cha bề ngoài có vẻ nghiệt ngã.
+Giữ tay con: thô bạo, áp chế
+ Từ “đổ”: động tác mạnh (so sánh với bón,
rót)
- Câu 5: sau hành động thô bạo, nghiệt ngã
là sự ngậm ngùi, xót xa
+ Từ “thả”: buông tay để rơi => người cha
kiệt sức vì buộc phải cưỡng bức con uống thuốc.
Ý nghĩa:
Nhận thức của người cha về sự cấp bách của
hoàn cảnh. Nếu không uống thuốc (đắng), đứa con có thể không cứu được.
Nỗi xót xa thương con khi buộc con phải uống
thuốc đắng. Khổ thơ dồn nén cả về nghĩa và lời.
|
Dân gian đã có câu “Thuốc đắng giã tật”. Ý kiến của em về vấn đề này
như thế nào?
|
Con ơi! Tí tách sương rơi
Nhọc nhằn vắt qua đêm lạnh
Và những cánh hoa mỏng mảnh
Đưa hương phải nhờ rễ cay.
|
Mở đầu là “con ơi!” nhưng là lời người cha
nói với chính mình.
- Sương rơi, đêm lạnh, nhọc nhằn: cuộc sống không dễ dàng. Hạt sương đó dù rất nhỏ cũng phải nhọc nhằn vắt qua đêm lạnh mới có.
- Hương của những cánh hoa mỏng mảnh đến từ đâu? Từ những chùm rễ đắng cay cũng như con muốn khỏe lại phải chấp nhận uống thuốc đắng.
Ý nghĩa: khổ thơ trĩu nặng suy tư của người cha. Sau khi bắt ép con
mình uống chén thuốc đắng, có một dòng nước mắt thầm lặng chảy bên trong con
người anh ta với nhiều trạng thái cảm xúc đan xen: thương, ngậm ngùi, xót xa,
tin tưởng, hi vọng….
|
|
Mồ hôi keo thành chai tay
Mùa xuân tràn vào chén đắng
Tuổi cha nước mắt lặng lặng
Sự thật khóc oà vu vơ.
|
Khổ thơ này là những suy niệm của người cha
về cuộc đời. Những suy niệm được gợi lên từ chén thuốc đắng đứa con buộc phải
uống để khỏi bệnh.
* Mùa xuân và chén đắng: Từ những hình ảnh cụ thể trở thành những biểu tượng. Mùa xuân là biểu tượng của sự sống, của cái bắt đầu, sự tươi mới, của hi vọng lúc này tràn vào lòng chén đắng.
* Nước mắt người cha lặng lặng, là thứ nước mắt rơi trong im lặng, là nước mắt vô hình mà người đàn ông không muốn phơi bày.
Ý nghĩa: Chén thuốc cha cho con uống không
chỉ là thuốc bệnh thể xác. Nó còn là thuốc cho tinh thần mà cha đúc rút được,
nhưng con chưa thể nhận chén thuốc đó nên cha giữ lại trong bài thơ như một lời
nhắn nhủ.
Sự thật khóc oà vu vơ.
Câu thơ này liên quan trực tiếp đến hoàn cảnh xã hội đã nêu ở trên. Sự
thật lúc này khóc òa lên bởi nó bị dồn nén đến đỉnh điểm, không thể kìm giữ
được nữa. Tuy nhiên, mới là cái khóc vu vơ, chưa thể làm nên sự thay đổi.
Nhưng dù vu vơ vẫn hơn là bị bưng bít.
|
Người cha trong bài thơ viết những dự cảm về
một tương lai còn nhiều bão tố. Theo em, vì sao ông không viết về một tương
lai màu hồng cho con gái bé bỏng của mình?
Em hình dung về cuộc sống mai sau như thế
nào? Nếu phải đối diện với bất công, trắc trở, tại họa, em nghĩ mình sẽ vượt
qua như thế nào?
|
Con đang ăn gì trong mơ
Cha để chén lên cửa sổ
Khi lớn bằng cha bây giờ
Đáy chén chắc còn bão tố.
|
- Con đang ăn gì trong mơ: Hình ảnh đứa con
trong giấc ngủ hồn nhiên. Vì sao là “ăn”? Vì đó là bản năng, cái mà trẻ con mới
có.
- Hình ảnh cha để chén lên cửa sổ là một biểu
tượng. (thủ pháp điện ảnh) Chiếc chén đã hết thuốc đó, cha đặt nó lên cửa sổ
như đặt nó vào kí ức của cha và con. Bài thơ Thuốc đắng được xem là khai mở
con đường thơ của Mai Văn Phấn, chiếc chén đặt trên cửa sổ cũng chính là chiếc
chén được đặt vào bài thơ quan trọng này. Xuất hiện năm 1990, đến nay đã gần
40 năm vẫn vẹn nguyên trong tình cha con của họ.
- Đáy chén chắc còn bão tố: Gian khó, bão tố
cuộc đời là cái sẽ đồng hành trong suốt đời người. Con rồi sẽ lớn, chén cuộc
đời còn đựng nhiều thuốc đắng vì bão tố trong đáy chén vẫn vần vũ. Và suốt đời
con sẽ còn phải nhận thuốc đắng để trưởng thành.
Ý nghĩa: Khổ thơ cuối cũng chính là dự cảm của
người cha về cuộc đời phía trước mà thực tế chứng minh dự cảm đó hoàn toàn
đúng.
|
Tổng hợp: Bài thơ là
tình phụ tử nhưng thể hiện ở một phương diện riêng: cách người cha yêu thương
con, cách cha dạy con đối diện với cuộc đời. Không có bài học đạo đức nào, chỉ
có những sự thật trần trụi và đắng chát cha muốn con nhìn ra và chấp nhận nếm
trải để lớn lên và sống. Bài thơ còn là những lo âu của người cha về những bão
tố con sẽ phải đi qua. Âu lo và bình tĩnh, âu lo và chấp nhận, âu lo và chờ đợi.
__________________
[1] Trường Đại học
Giáo dục - Đại học Quốc gia Hà Nội 144 Xuân Thuỷ, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
Email: lehaianh@vnu.edu.vn
[2 ]Trường Cao
đẳng Cộng đồng Bắc Kạn
Tổ 17 phường
Sông Cầu, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn, Việt Nam
Email: Chuthuycdcdbk@gmail.com
(Nguồn:
Tạp chí Khoa học Giáo dục Việt Nam. Số 24 tháng 12/2019)