Hiện tượng thơ Nguyễn Quang Thiều và lộ trình cách tân (phê bình) - Mai Văn Phấn
Hiện tượng thơ Nguyễn Quang Thiều và lộ trình cách tân
Sấm
mất giọng, đỉnh núi già mất bóng
Nguyễn
Quang Thiều
Lời mở
Trước năm 1975, những
tìm kiếm để đạt được lối biểu đạt mới và hiệu quả trong tư tưởng thi ca rất
phức tạp, đến nay vẫn chưa có sự khảo sát, nghiên cứu và đánh giá xác đáng, đầy
đủ. Sau năm 1986, giữa lúc đội ngũ
đông đảo các nhà thơ trong nước còn mơ hồ, ngờ hoặc về yêu cầu cách tân thơ,
thì tập thơ “Sự mất ngủ của lửa” của
nhà thơ Nguyễn Quang Thiều (Nxb Lao động, 1992) đã cất tiếng nói khẳng định,
đặt dấu mốc quan trọng khai mở dòng chảy thi ca cách tân về sau. Tập thơ đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn
Việt Nam năm 1993, và, nhanh chóng làm xáo trộn
tư duy đời sống thơ ca đương đại. Ánh sáng của tập thơ đã lan tỏa, tác động
tích cực, sâu rộng trong đời sống thơ ca Việt, gây hiệu ứng dây chuyền. Bắt đầu xuất hiện nhiều tác giả trẻ với
những cách viết mới lạ, khuynh hướng mới được hình thành. Hiện tượng tập thơ “Sự mất ngủ của lửa”, ở chừng mực nào đó
gợi chúng ta liên tưởng tới sự xuất hiện tập thơ “Đám mây trong quần” của V.V. Mayakovsky trong văn
học Nga đầu thế kỷ XX, hay trường ca “Đất
hoang” của T. S. Eliot trong
văn học Mỹ giữa thế kỷ XX. Không ai có thể phủ nhận vai trò cột mốc văn học mà
những tên tuổi kể trên đã đánh dấu. Thế hệ kế tiếp có thể viết hay hơn V. V.
Mayakovsky hoặc T. S. Eliot, nhưng lịch sử văn học mãi ghi công những tác gia
mở đường, đặt nền móng cho một khuynh hướng nghệ thuật mới.
“Sự mất ngủ của lửa” và cột mốc cho dòng chảy cách tân
Buổi đầu, tập thơ “Sự mất ngủ của lửa” đã làm dấy lên những
ý kiến tranh luận nhiều chiều, đa dạng những thái độ khen, chê. Hai mươi năm
trôi qua cho phép chúng ta gạn đục khơi trong, nhìn nhận một cách khách quan
giá trị “Sự mất ngủ của lửa”. Với tập
thơ này, Nguyễn Quang Thiều thực sự đã làm cuộc vượt thoát ngoạn mục khi bỏ lại
sau lưng những vần điệu, thói quen, cách nhìn đơn tuyến mà ta từng thấy trong
tập thơ đầu tay của ông, “Ngôi nhà 17
tuổi” (Nxb Thanh niên, 1990).
Nhìn tổng quan về thi
pháp, “Sự mất ngủ của lửa” đã kiến tạo thành công những cấu trúc
mới, mở ra những liên tưởng phi tuyến tính, và đặc biệt, tạo những hình ảnh lạ
lẫm, bung nở, chuyển động nhanh, khác hẳn với những quy luật cũ.
Cái nhìn về “Sông Đáy” là một thí dụ về khác biệt:
“Những con thuyền lần ra
cửa biển
Mưa rất dài ướt hết cả dòng sông” (Những con
thuyền sông Đáy).
Nếu những hình ảnh con thuyền, cửa biển, cơn mưa, dòng sông… trong tập “Ngôi nhà 17 tuổi” vẫn là cách liên tưởng
đơn tuyến, quen thuộc, ít gây bất ngờ, thì “Sông
Đáy” trong tập thơ “Sự mất ngủ của
lửa” đã nhảy một bước dài:
“Cơn mơ vang lên tiếng cá
quẫy tuột câu như một tiếng nấc
Âm thầm vỡ trong tôi, âm thầm vỡ cuối nguồn”.
Ở đây, cơn mơ, tiếng cá quẫy tuột câu, tiếng nấc, tôi, cuối nguồn là những hình ảnh tách biệt, hầu như không có mối liên
kết nhưng cùng cuộn trôi theo một từ trường cảm xúc mạnh và nhất quán, tạo được hiệu ứng không gian và
bật lên sức liên tưởng mạnh mẽ: đó là cách liên tưởng đa tuyến. Thơ Nguyễn
Quang Thiều thường không áp dụng cố định những thủ pháp của các trào lưu hiện
đại, như Siêu thực, Tượng trưng, Biểu hiện,… nhưng câu thơ trên có cách liên
tưởng gần với tượng trưng, tạo hiệu ứng về hình ảnh và âm thanh rất đỗi lạ lùng.
Tập thơ “Sự mất ngủ của lửa”, trước hết, làm bật
lên nỗi khao khát về những cuộc lên đường, được giải phóng khỏi những định chế
cũ, quan niệm cũ. Đây là những liên tưởng bất ngờ khởi đầu cho cuộc đào thoát
khỏi cảm hứng và ám ảnh cũ:
“Cán dậm chúi xuống
mặt đường – Những nòng súng gỗ hết đạn…
Vảy cá bám trên áo họ lấp lánh những tấm huân
chương” (Trên đại lộ);
“Một cơn sốt ngồi ôm một
cơn sốt
Những tiếng ho bình đẳng vỡ làm đôi” (Thời gian);
“Thính cứ ném xuống đời
ta không ngủ” (Mười một khúc cảm).
Tính tự sự và ngôn ngữ
kể truyện gần với ngôn ngữ đời sống cũng là nét đặc sắc trong tập thơ này. Ông
viết mà như nói. Nói một cách nghệ thuật. Kiểu tường thuật này ít xuất hiện trong thơ Việt
trước đó:
“Những người đàn bà vác
dậm đi thành một hàng dọc về phía bên phải sát mép đại lộ
Người họ bọc kín bởi những lớp vải nâu và đen”.
Trong thơ Nguyễn Quang
Thiều, yếu tố tính dục và hành trình giải phóng nó không còn là cuộc phiêu lưu
hay một giấc mơ, mà được tác giả thể hiện táo bạo, đầy tinh thần nhân bản và
thánh thiện. Nó chính là một thực tại tâm sinh lý nhiệm mầu, nối kết các nguồn
mạch của sự sống, khơi dậy tất cả sức mạnh tiềm ẩn bên trong mỗi con người:
“Bầu vú em gió núi đã
thổi mát rượi” (Một bài hát tình yêu của Làng Chùa);
“Ta ôm nhau ngồi thở
trước sao trời” (Những ngôi sao)…
Trong nỗi khát khao trở
về nguồn cội, với tình yêu quê hương, nhà
thơ tạo nên những thi ảnh
vừa ngẫu nhiên, vừa mang tính ám dụ:
“Con muốn lẩn vào khăn áo
đám ma quê
Con muốn đắp lên cơn ho của con tàn hương thơm và
ấm” (Âm nhạc);
“Chỉ mùi khói phân trâu
khô bên đường bén lửa
Ngăn ngắt đắng vào giấc ngủ kẻ tha phương” (Tha phương).
Trong “Bài hát về cố
hương tôi”, thi sĩ đã hát bằng khúc ruột mình chôn dưới nắm đất dế giun:
“Nó thành con giun đất…
Bò âm thầm dưới vại nước, bờ ao
Bò quằn quại qua khu mồ dòng họ
Bò qua bãi tha ma người làng chết đói
Đất đùn lên máu chảy dòng dòng”.
Từ sau tập thơ “Sự mất ngủ của lửa”, Nguyễn Quang Thiều luôn chú tâm khai triển toàn bộ tinh thần thi pháp
mà ông đã minh định. Nếu gọi “Sự mất ngủ
của lửa” là vạch xuất phát thì đến nay, nhà thơ đã để lại sau mình những xa
lộ thênh thang, thẳng băng mà ít có những khúc cua đột ngột. Ở lộ trình này,
ông đã làm phong phú, phồn tạp hơn những gì được khai mở trong tập thơ “Sự mất ngủ của lửa” bằng chính quá trình
nhận diện cuộc sống và hoàn thiện quan điểm thẩm mỹ.
Thời đại và nhà thơ
Bóng dáng thời đại và
cách tân thi pháp là hai vấn đề lớn và quan trọng xuyên suốt hành trình sáng
tạo của Nguyễn Quang Thiều. Thơ
ông tỏa sáng trong nhiều đề tài với những cách biểu đạt phong phú và đa dạng.
Thơ ông, dù viết về đời thường dung dị vẫn ẩn chứa tài hoa và sự tinh tế của
một cây bút giàu nội lực. Tiêu biểu như những bài thơ: “Tiếng cười”, “Con gái ơi”,
“Bầy chó của tôi”, “Thời gian”, “Thì thào khu vườn”, “Về những
đồ vật có trên bàn viết”, “Bữa tối”…
Bên cạnh đó, Nguyễn Quang Thiều còn có nhiều bài thơ mang tính biểu tượng và
khát quát cao về xã hội, triết lý, nhân sinh, như: “Bầy kiến qua bàn tiệc”, “Dưới
trăng và một bậc cửa”, “Con bống đen
đẻ trứng”, “Nhịp điệu châu thổ mới”,
“Bài ca những con chim đêm”, “Nhân chứng của một cái chết”, “Cây ánh sáng”…
Hiện thực trong thơ
Nguyễn Quang Thiều thường được tái hiện như giấc mơ của người mệt mỏi, kiệt sức
vì quá tải trong những cơn dư chấn; là khát vọng sống của người bệnh vừa thoát
khỏi cơn tai biến hiểm nghèo. Hoặc như người vừa chợp mắt đã nhìn thấy những
trải nghiệm trong đời thực nhưng được phóng chiếu theo những cách thức khác lạ,
có thể cảm nhận được cả hơi thở nóng bỏng, sự khắc nghiệt đến kinh hoàng của
đời sống trên da thịt.
Thơ Nguyễn Quang Thiều thường bầy tỏ thái độ thẳng thắn, trực
diện, nhằm lý giải một cách chính xác nhất bản chất, chân tướng của đời sống.
Hình ảnh con chim trong câu thơ sau đây chính là một biến thể của đời sống,
tinh thần của thế hệ ông từng trải qua những giai đoạn lịch sử khắc nghiệt
nhất:
“Tôi là con chim sinh đầu
hoàng hôn, cuối bình minh chưa biết hót. Cặp mỏ tấy sưng mổ những thì thầm” (Bài hát).
Đó đồng thời cũng là nỗi
khắc khoải, khao khát tự do, công bằng, là chân lý của mọi thế hệ. Ông đã khắc họa
hình ảnh thế hệ mình trong những câu thơ:
“Tôi là con chim thay
lông muộn và đang tập giọng bằng cặp mỏ mềm còn ứ đầy máu loãng…
Đợi bài ca sinh ra từ những hạt cơm vương trong
chân cỏ dại
Từ quả trứng buồn vừa bóc vỏ thời gian” (Bài hát).
Nhà thơ đang mộng du hay
mê sảng? Khó ai có thể phân định rạch ròi trạng thái của Nguyễn Quang Thiều từ
những bài thơ của ông. Song chính ở trạng thái đặc biệt này, Nguyễn Quang Thiều
đã cho người đọc nhìn thấy những góc khuất của đời sống thực tại.
Từ những góc tối ấy có
những tiếng nói riêng biệt và đa dạng đang cất lên, tỉnh táo xen lẫn mê dại,
thô ráp đan xen với tinh tế:
“Không còn ai trên
cánh đồng mù mắt
Bà tôi đâu, đòn gánh gãy đâu rồi
Sấm mất giọng, đỉnh núi già mất bóng
Mất hay còn, than thở để làm chi” (Văn bản lần thứ
nhất).
Bài thơ “Đoản ca về buổi tối” ghi
nhận tâm thế hãi hùng của một người khi tận mắt chứng kiến những cảnh tượng đời
sống bị biến dạng, đổ vỡ:
“Một góc phố một hiệu
kim hoàn bị phá cửa
Và trong quán rượu một người say đâm chết một người
say”.
Đó là hiện thực hay phi
thực? Thật khó mà xác định!
Bức tranh trong thơ
Nguyễn Quang Thiều lúc đậm lúc nhạt, khi rõ nét khi mờ ảo như vẽ lên bóng tối
chỉ vừa đủ để hình dung và kích thích trí tưởng tượng phong phú của chúng ta:
“Chúng ta sống quờ quạng
trong những tháng năm bóng tối nham nhở. Nhiều hơn thành phố vùi sâu vào đất.
Những thành phố ra đi vĩnh viễn và mang theo những cây đèn. Chúng ta bới đất và
nâng những cây đèn, như nâng những thi thể ngừng thở đã lâu nhưng da thịt vẫn
còn ấm nóng” (Nhân chứng của một cái chết).
Lại có lúc như vẽ lên ánh
ngày vừa rạng hình ảnh những đứa trẻ trong trắng, thơ ngây lung linh như những
giọt sương trên đầu gai nhọn:
“Quanh các con tôi thế
giới đang tự sát
Hai đứa bé không hay vẫn bứt lá vườn
Còn sót lại sau mùa cây sưng phổi
Bày cơn mơ lên mảnh đất cuối cùng” (Con bống đen đẻ
trứng).
Nhà thơ nhiều lúc là
người quan sát, với cái nhìn khách quan, tỉnh táo và lạnh lùng trước nghịch lý
đáng sợ của đời sống thực tại:
“Và vẫn nhìn thấy
Cuộc làm tình ban ngày
Của những kẻ thất nghiệp
Trong chính công sở của họ
Và vẫn nhìn thấy
Nơi ngã tư một chiếc xe tải
Cán nát một cô gái
Nhưng bó hoa cô cầm trên tay
Vẫn nở nốt bông cuối cùng
Và vẫn nhìn thấy
Linh hồn những người đã chết
Xếp hàng trước cổng trụ sở Tòa án thành phố” (Nhật ký ghi dưới
gốc cây gần quảng trường).
Chính trong cơn đau đớn
khốn cùng, vật vã và vô vọng ấy, nhà thơ là người đi cầu tự cho tương lai của xứ sở mình.
Đọc thơ Nguyễn Quang
Thiều, ta được chứng kiến một hiện thực đời sống với nhiều gam màu dị biệt,
lạnh lùng u tối nhưng không bi lụy, tuyệt vọng. Nhà thơ đã sử dụng ánh sáng rất
ảo diệu trong những tác phẩm của mình. Ông thường thắp trên phông nền thẫm tối
một vài đốm sáng, vệt sáng nhỏ nhoi nhưng có sức lan tỏa mạnh mẽ. Đốm sáng đó
có thể là ngọn đèn hạt đỗ, vài con đóm đóm, một tia chớp…, nhưng cho ta thấy rõ
con đường và hướng đi của ông:
“Nhìn xa chân trời
nơi bình minh hé môi cười là bóng
Những gót chân đích thực, những gót chân đang khuất
Như những vệt nước lớn bay hơi nhẹ nhõm không rên
rỉ điều gì…
Cho đến khi từ vòm miệng nồng hôi, nhớp nháp
Những cái lưỡi của người tìm được lối ra” (Bình minh đang
lên).
Bằng linh cảm nhạy bén
và khả năng tiên tri của thi sĩ, Nguyễn Quang Thiều đã nhìn thấy khoảng cách từ bóng tối tới ánh sáng:
“Chúng ta ngỡ bóng
tối chứa đầy vũ trụ
Thực ra chỉ mỏng như màng mắt người mù
Và chỉ cần bước thêm một bước
Chúng ta sẽ sáng lên sau những hãi hùng” (Bóng tối).
Chỉ cần bước thêm một bước, đó là cách nghĩ, cách gợi, một gọi mời của thi sĩ khi
ranh giới giữa đen-trắng, xấu-tốt, thị phi là vô cùng mỏng manh.
Những cuộc lên đường
cũng là điểm đến trong chuyển động thơ Nguyễn Quang Thiều. Đó là khi con tằm
chui ra từ vỏ kén, là mầm cây bật lên từ khe đá, là cơn mưa xuống ngọn đồi trơ
trọc, đích đến phía chân mây mù mịt, là sự dũng cảm nhích lên nửa bước chân,
những mất mát thua thiệt trong đời sống được đền bù:
“Và giờ đây trong bóng
tối của tháng Chạp đông cứng như một chiếc hàm thiếc
Tỏa rừng rực hơi nóng những bao hạt giống
trong tiếng nghiến kiên trì khủng khiếp của bánh xe
đi đến cánh đồng đang chờ quyền phép của tháng
Giêng ban tặng” (Quyền phép của thời gian).
Sự ra đi trong thơ Nguyễn Quang Thiều là ánh sáng để “Dựng
lên tất cả những cái thây của bóng tối đầm đìa”, để tái tạo hàn gắn, sắp đặt lại thế giới... Đọc thơ ông, ta
thấy tương lai tốt đẹp, ngập tràn hy vọng, thấy ấm áp, ân cần:
“Người đang đến. Người
đang trở về
Con đường tinh kết. Con đường lan tỏa”. (Nhịp điệu châu
thổ mới).
Đến cuối mỗi bài thơ, ta
như vừa tự tìm được một lối rẽ, vừa tự mình đặt tay lên những nắm cửa để giải
thoát mình sang một không gian khác, một hoàn cảnh khác...
“Thức dậy và rút những
chân hương ra khỏi ngực mình” (Nhịp điệu châu thổ mới).
Đây cũng là trạng thái
thường thấy khi kết thúc mỗi cơn mộng du
của thi sĩ Nguyễn Quang Thiều. Ở đó, thường mở ra không gian bất tận để người đọc
nhận ra mình đang đứng trong áp lực của những cơn gió lớn:
“Tôi ra sông lấy lòng tay
múc một miền nước lớn (Chiếc bình gốm).
Và, ông đã thấy
Con đường và số phận dân
tộc chúng ta từ một đỉnh đồi” (Bài ca những con chim đêm).
Thi pháp và những cách
tân
Không gian thơ Nguyễn
Quang Thiều luôn động chuyển, biến hóa bất ngờ. Mỗi câu thơ, hoặc đoạn thơ chỉ
là một phần nhỏ không hoàn thiện của thi ảnh, giống như người đang ở lưng chừng
núi, có thể đặt tay lên một tảng đá trong trùng trùng núi non mà không mường
tượng hết được hình thể tổng quan của nó.
Bài
thơ “Dưới trăng và một bậc cửa” dẫn ta vào một không
gian hỗn độn những hình ảnh: chiếc
lá non, bóng cây, con dế mèn, bối tóc, ổ trứng, dãy số, con chó, ổ đất, v.v... Nếu chỉ chăm chú vào những
chuyển động của những hình ảnh đơn lẻ ấy, người đọc sẽ không bao giờ gặp được
vẻ đẹp thơ ca trong đó, thậm chí sẽ thấy chúng rời rạc, khô cứng và có thể
không còn ý nghĩa. Cần phải chuẩn bị một tâm thế khác, cách nhìn khác khi tiếp
cận thơ Nguyễn Quang Thiều. “Dưới trăng
và một bậc cửa”, rốt cục, phải chăng là khao khát tìm đến một thế
giới hoàn mỹ những vẻ đẹp bất tuyệt và đó là cảm xúc phát sinh từ một tâm thế
tái sinh, tìm lại những gì đã mất đi, đã chết?
Thơ Nguyễn Quang Thiều
ít chú trọng vào những điểm “nhói sáng” của cảm thức mà dần trải ra trong chiều
dài và độ sâu của những hình ảnh. Những đứt gãy, rời rạc, như không có liên
kết, tạo ra độ giãn cách giữa những nhóm hình ảnh được làm sáng lên trong không
gian thẫm tối, độ tương phản rõ rệt.
Có vẻ như chỉ riêng thi
sĩ nhìn thấy:
“Con bống cái chửa hoang
ngơ ngác và thường chết ngất; Hai cánh tay tôi – hai vây cá rách
tướp
Dìu nỗi sợ chửa hoang đi tìm ổ đất buồn”.
Nếu không bị cuốn vào dòng chảy mộng mị của
hình ảnh thơ Nguyễn Quang Thiều, người đọc khó lòng đi tới thông điệp đích thực
nhà thơ muốn gửi gắm. Ông thường ghi lại những trạng thái ám thị đặc biệt,
trong đó, hình ảnh, sự vật vẫn mang chứa những đặc tính thông thường của đời
sống hiện thực, đồng thời vẫn có sức thôi miên, ám ảnh kỳ lạ: một linh hồn cây, ổ lá mục đến vũ
hội bầy bọ chó, một nồi
bột bánh…
Nguồn cội và quê nhà
luôn da diết khắc khoải trong thơ Nguyễn
Quang Thiều ngay từ tập thơ đầu
tay “Ngôi nhà 17 tuổi” đến tập thơ “Cây ánh sáng” (Nxb Hội Nhà văn, 2009):
“Sông Đáy chảy vào đời
tôi
Như mẹ tôi gánh nặng rẽ vào ngõ sau mỗi buổi chiều
đi làm về vất vả
Tôi dụi mặt vào lưng áo người đẫm mồ hôi mát một
mảnh sông đêm” (Sông Đáy).
Hình ảnh đôi rùa mai nâu đã để lại dấu ấn rất riêng biệt của
một tình yêu trong sáng, thơ ngây:
“Sao ta không chạy
nữa, sao ta dừng lại?
Sao ta không trườn xuống sông như đôi rùa mai nâu...”
“...Ta chạy qua bao cánh đồng, qua những mùa cỏ dại
Hạt cỏ tươi dạt vào túi áo ướt của em” (Dòng sông).
Thơ ông càng ám ảnh hơn
khi kiệm lời và được sắp đặt trong những tổ hợp từ đậm chất Nguyễn Quang Thiều.
Nếu chú tâm, ta dễ dàng nhận ra lối mở vào không gian thơ, cũng như thần thái
thơ Nguyễn Quang Thiều thường nằm ngay ở câu thơ đầu tiên trong mỗi bài, chẳng
hạn như:
“Hãy mang tôi về xa
nữa” (Bài hát),
và:
“Các con cháu tôi đến
trước” (Bữa tối).
đã thực sự phát lộ ý
tưởng chủ đạo của bài thơ. Từ ý thức đó, nhà thơ thường chuẩn bị kỹ tâm thế,
cấu tứ cho bài thơ của mình, và cảm xúc mạnh ập đến là đặt bút viết:
“Thức dậy từ cơn mơ, cả
cúc áo cũng không cài hết” (Dòng sông);
“Những ngón chân xương
xẩu, móng dài và đen toẽ ra như móng chân gà mái” (Những người đàn bà
gánh nước sông);
“Người nắm chặt những hạt
giống và thả vào bầu trời đất nâu” (Hòa âm của những đa bào);
“Không còn gì cho tôi khóc sớm nay ngoài cánh đồng rau
khúc” (Tôi khóc những
cánh đồng rau khúc);
“Tiếng súng bắn tỉa
lần thứ nhất vang lên” (Trong tiếng
súng bắn tỉa).
Cũng chính những câu thơ
bỏng rát đầu tiên ấy đã cất tiếng nói từ bên trong, kích hoạt cho những phản
ứng dây chuyền tiếp theo trong cả bài thơ.
Trong thơ Nguyễn Quang
Thiều, hiện thực khắc nghiệt của đời sống thực tại và hiện thực tiên tri, tưởng
tượng… được khúc xạ, thăng hoa, hắt sáng từ cảm quan, tư biện của thi sĩ. Tất
cả được hiện hữu trong thơ ông vừa đau đớn vừa da diết, vừa chằm bặp vừa lạnh
lùng. Ông luôn thổn thức và hân hoan, đau đớn và thất vọng trong tư thế một
công dân đầy trách nhiệm:
“Không nhìn thấy nhà tù
nào mà mỗi ngày tôi mất đi một cỏ
Không nghe tiếng súng nào mà ngực cỏ vỡ đêm đêm” (Gọi hồn).
Nhiều lúc Nguyễn Quang
Thiều đã nhìn thấy cả những vẻ đẹp lộng lẫy, gần gũi tưởng như có thể chạm được
tay vào, nhưng như bao người cùng thế hệ, có lúc ông thấy như không thể bước
thêm được nữa:
“Kìa những cái cây lộng
lẫy và kiêu hãnh trong gió gào rít giữa đêm
Và một kẻ đang gắng sức tìm lối đến Thiên đường
nhưng lại không ngước được mắt lên” (Những công việc
của tháng Mười Một).
Bằng ngôn ngữ thơ giàu
hình ảnh và sắc bén, thơ Nguyễn Quang Thiều cho chúng ta thấy được cốt lõi và cả
mặt trái của đời sống, thấy được những khiếm khuyết, bệnh tật, và cả ung nhọt
thậm sâu trong từng cơ thể:
“Chúng ta săn tìm xác
chết những con tôm
trong lọ mắm
Theo cách của chim ưng
Chúng ta xé những chiếc bánh mì
Bằng động tác của báo
Chúng ta cắt dao vào ngón tay trỏ
Nhìn xuống gầm bàn chúng ta chửi
Chiếc giày chân phải
Hay tranh chỗ của chiếc giày chân trái
[…] Và lúc đó có người đứng dậy
Đi vào bóng tối
Và quay nhìn lại
Thấy mình mẩy chúng ta cắm đầy giáo
Phóng tới từ một đấu trường khác” (Bức thư đề ngày 25
tháng 12).
Ta ít thấy trong thơ Việt trước đây những cấu
trúc câu lạ lẫm, những ngôn từ ẩn dụ tạo những va đập, xung động mạnh như trong
đoạn thơ trên. Thủ pháp ấy cũng thể hiện
trong đoạn thơ của Nguyễn Quang Thiều viết về khung cảnh và nhân vật trữ tình:
“Anh ngắm nhìn những
ngón tay em
gục ngã như nạn nhân trên trường bắn
Anh ngắm nhìn đôi môi em đầy đọa
Một ý nghĩ nổ tung trong bản nháp
Chiếc bút dừng mạnh ở một điểm và tì mạnh” (Bản thông cáo).
Hiện thực đời sống trong
thơ Nguyễn Quang Thiều hiện lên
phức tạp và đa diện, từ mặt người, mặt ma quỷ, mặt súc vật, mặt gỗ… Đọc thơ ông thấy
cái Ác và cái Thiện luôn xung đột dữ dội, từ đó thoát ra niềm khát khao muốn
đồng hóa nhau với đủ mọi sắc thái:
“Một con rắn rúc vào đám
tóc anh và nằm phục cái lưỡi anh lộ ra
nó muốn giết anh khi đơn âm đầu tiên của anh phát
nổ” (Hoa tiêu).
Biểu tượng con
rắn trong thơ Nguyễn Quang
Thiều biến ảo khôn lường, lúc là gã
thợ xẻ giả dối trong bài thơ
“Hồi tưởng tháng Bảy”, lúc là con mồi trong bài thơ “Những con
mồi”, hoặc bầy chim ăn thịt trong “Bản tuyên ngôn của cơn mơ”…
Như
trên đã trình bày, tập thơ “Sự mất ngủ của lửa” là bước khởi động nhưng
lại chính là cột mốc quan trọng cho hành trình cách tân thơ của nhà thơ Nguyễn
Quang Thiều. Những tập thơ khác sau nó là những chuyến đi tiếp nối hành trình
đó của ông. “Nhịp điệu châu thổ mới” (Hội Văn học nghệ thuật Hà Tây,
1997), “Bài ca những con chim
đêm” (Nxb Hội Nhà văn, 1999), “Cây
ánh sáng” (Nxb Hội Nhà văn, 2009) thực sự mở
tiếp con đường đã khai phá từ thập niên chín mươi với việc bung nở những thi
ảnh khác biệt. Đó là một cánh
đồng vải liệm thơm tho, con chuột đồng cắn môi bên bông hoa cổ tích, bình minh đang
phơi tóc trong bóng tối; hay những câu thơ cứ găm vào tâm trí người đọc như
một cái dằm gai buốt nhức:
“Tôi khóc những miếng
bánh nóng như một cái lưỡi rơi vào bếp tro bụi bặm” (Tôi khóc những
cánh đồng rau khúc).
hoặc:
“Chàng quỳ xuống và
ngước lên cây ánh sáng vĩ đại nhất đang tỏa mãi tán lá ban mai khổng lồ” (Cây
ánh sáng).
Ánh sáng trong câu thơ
chói ngời lan tỏa chan hòa nơi người đọc, gột rửa tâm hồn, thanh tẩy uế trọc
tục lụy, đưa con người vươn tới thánh khiết.
Mặt khác, những hình ảnh
quen thuộc như nước, vòm lá, con cá… được
bài trí và chuyển động trong một thế giới kỳ ảo, đã có tác dụng tra vấn và kích
thích mạnh mẽ trí tưởng của người đọc:
“Tôi thấy nước đang chảy
trong những vòm lá. Con cá tiên tri đang ăn những trái cây chín đen.
Hãy nhìn ra sông và kìm nén cảm xúc
Một cái cây thì thào với một cái cây. Rồi tất cả
chợt lặng im như vừa biến mất” (Nhân chứng của một cái chết).
Bên mạch thơ ào ạt, cuộn
xiết, thơ Nguyễn Quang Thiều còn biểu đạt phong phú những cảm xúc tinh tế, thẳm
sâu. Bài thơ “Mười một khúc
cảm” là tổng phổ những giai điệu, phức điệu
của ông:
“Ta là chiếc lưỡi câu bị
bỏ quên đau khổ
Chỉ đợi run lên
trước đôi môi em; Em non bấy đau
trong từng sợ hãi” (Những ngôi sao).
Thế giới thơ của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, từ ánh sáng, bầu
trời, cây cối, súc vật, ngọn đồi đến mọi đồ vật đơn sơ đều có linh hồn, hiển
hiện cùng nhiều thế hệ con người tồn tại phi thời gian. Tất cả như cùng đồng
hiện, thanh minh, cật vấn trước vị “quan toà” Nguyễn Quang Thiều. Trong thế
giới thơ ca riêng biệt ấy, nhà thơ là Chúa tể trị vì, trả lại sự công bằng, tự
do, mở một chân trời khác
dưới ánh sáng của thi ca.
Bài thơ “Linh hồn những con bò” của Nguyễn Quang Thiều là một ví dụ. Nếu cánh đồng cuối cùng, bóng tối, tiếng rống, những
chiếc ách, dàn kèn đồng thuộc về hôm qua, hiện thể… thì đám mây trở thành một biểu tượng của phục
sinh miên viễn nhuốm màu sắc tâm linh:
“Giờ chỉ còn những đám
mây
phiên bản của đàn bò
bay trên cánh đồng
của những con bò khác”.
Trong thơ Nguyễn Quang
Thiều hay nhắc tới bên kia,
dẫn dụ một thế giới khác nữa, quá khứ hay vị lai, chỉ riêng ông nhìn thấy:
“Tôi phải tới những vụ
gieo trồng của cánh đồng bên kia
Bên kia, những lưỡi cày đang được đất dạy dỗ
Bên kia, những nông dân quỳ sụp nghe đất đặt tên
Bên kia, những hạt giống được tắm rửa và đặt vào
võng cỏ” (Điều thiêng).
Những hình ảnh trong khổ
thơ trên không còn ở trong phim âm bản, mà người đọc được tận mắt nhìn thấy một
góc nhỏ trong ngày phán xử Tận thế. Ở đó, lưỡi cày tồn tại hàng ngàn năm nghe đất đai dạy dỗ, người nông dân già chờ đất đai đặt lại tên, những hạt
giống được lên ngôi chờ đợi
vụ mùa khác của kỷ nguyên khác…
Chùm thơ “Chuyển dịch màu đen” là đỉnh cao trong
hành trình cách tân của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, là câu chuyện thơ mang kịch
tính, xung đột, gây ấn tượng mạnh, tạo đa nghĩa... Ngôn ngữ thơ trong bài thơ
gần với ngôn ngữ đời sống, súc tích, từng chi tiết diễn tiến nhanh... Những
mảng màu sáng tối tương phản rõ rệt ngay trong từng mạch thơ. Mỗi câu thơ như lưỡi
bay miết mạnh, dứt khoát trên tấm toan rộng tạo ấn tượng, nhiều đoạn như nhát
búa giáng mạnh vào tâm não người đọc:
“Những con muỗi trộn màu
đen của chúng vào màu đen ngôi nhà để đánh cắp màu đỏ…
Những cặp môi xiết vào nhau như thổ dân xiết hai
miếng đá”.
Nhà thơ dồn nén cảm xúc
vào những trạng thái đặc biệt, chú
trọng tạo hiệu ứng xung đột cao để bạn đọc cảm nhận được vẻ đẹp thơ ca trong
những không gian lạ thường:
“Ngôi nhà gỗ cắn môi, ổ khóa
hóc chết chẹt một khoảng tối”.
Bên cạnh những mảng “màu
lạnh”, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều có chủ ý khá tỉnh
táo đặt những hình ảnh tương phản, giàu tính trữ tình như:
“Cầu thang gỗ đã ngủ,
những răng sâu đã ngủ
Dìu dịu trên đệm ấm, cơn ngứa thay lông”.
Nhiều lúc ta bắt gặp
những câu thơ như ngọn đèn bất ngờ bật sáng trong góc tối:
“Trong góc phòng, bầy cá
vàng đang giấu mình vào vùng nước tối…
Những vòm cây đã trộn vào nhau
Rễ trộn vào thân và lá trộn vào quả…
Tỉnh giấc trong khuya bởi màu trắng cơn mê
Cố hương xoã tóc đen đi trong gió trắng
Cố hương vật lên như sóng
Cố hương vùi mình như muối triệu năm”.
Bài thơ trộn lẫn giữa giấc mơ với ngổn ngang
hiện thực, giữa khát vọng tự do, hòa đồng và hóa giải những định kiến về sắc
tộc, văn hoá…
Nếu ánh sáng trong tập thơ “Sự
mất ngủ của lửa” là ngọn
đuốc, đèn pha, thì ánh sáng trong tập thơ “Cây ánh sáng” được hắt lên từ đường chân trời rạng
đông, cho ta nhìn thấy hết vẻ đẹp trinh nguyên, bất tận của một sớm mai tuyệt
đẹp. Nó cho ta biết được một ngày mới đang đến với bao khác lạ, nhiều bí ẩn,
bất ngờ. Tập thơ “Cây ánh sáng” cho chúng ta được quyền
tin yêu và hy vọng vào những điều tốt đẹp trên thế gian này.
“Và lúc này chàng nghe
thấy tiếng chân những đàn bà xanh như nước biển bước đi như không bao giờ hết
qua ngôi nhà chàng
Và lúc này những cái cây trên thế gian, những ngọn
nến xanh khổng lồ thắp lên trên tất cả con đường…
Trong một ánh sáng ấy, một âm nhạc ấy, một ngôn ngữ
ấy, trong một bầu trời ấy
Và Người đã biến chàng trở thành một chiếc lá nhỏ
không bao giờ tàn úa
trên cành của tán lá ban mai kỳ vĩ trong vũ trụ
ngập tràn” (Cây ánh sáng).
Lời kết
Hành trình cách tân thơ
Nguyễn Quang Thiều khởi đi từ tập thơ “Sự
mất ngủ của lửa” đến những tập thơ về sau đã định hình một phong cách riêng
biệt. Hành trình ấy, với những trải nghiệm vô cùng phong phú, đã khẳng định tài
năng, bản lĩnh thi sĩ và sự dũng cảm của ông.
Thơ Nguyễn Quang Thiều
không chỉ là một hiện tượng độc sáng, mà sức lan tỏa và tầm ảnh hưởng của nó đã
mở ra một giai đoạn mới cho thơ Việt đương đại. Thơ ông cũng đã lay động một số
tác giả sáng tác theo hệ hình thi pháp cũ. Có thể họ không đổi mới được toàn
triệt, nhưng cũng bắt đầu thay đổi tư duy thẩm mỹ, áp dụng một phần những thủ
pháp mới của một số trào lưu, khuynh hướng hiện đại. Ông là một trong những thi
sĩ tiên phong của dòng chảy thơ cách tân Việt Nam sau 1986.
Sau sự xuất hiện của thơ
Nguyễn Quang Thiều, nhiều tác giả trẻ đã khởi phát đổi mới, cách tân thi pháp.
Những tác giả này dù không ảnh hưởng trực tiếp từ thi pháp trong thơ Nguyễn
Quang Thiều, nhưng đã tiếp nối tinh thần đổi mới của ông để góp phần làm nên
một thế hệ mới rất khác của thơ Việt Nam đương đại.
4/2012
Nguyễn Quang Thiều, “Người thổi sáo 36”, sơn dầu trên toan, 110x90cm, năm 2018