Thi pháp không gian trong thơ Nguyễn Bình Phương (phê bình) - Mai Văn Phấn
Thi pháp không gian trong thơ Nguyễn Bình Phương
Nhà thơ Nguyễn Bình Phương
Mai Văn Phấn
Tin vào đêm
Không tin bóng tối
Nguyễn
Bình Phương
Nguyễn Bình Phương là
một trong những gương mặt nổi trội của văn học Việt Nam đương đại sau năm 1986.
Trên cả hai “sân chơi” văn và thơ, ông đều được đánh giá là một trong những
“tiền đạo” xuất sắc có lối chơi đa dạng, độc đáo.
Trước khi đi sâu
vào thơ Nguyễn Bình Phương, tôi tìm đọc lại những tiểu thuyết quan trọng đã
xuất bản của ông. Những tác phẩm này thực sự cắm từng cột mốc chắc chắn trên hành
trình văn xuôi Việt Nam đương đại: “Vào
Cõi” (Nxb Thanh Niên, 1991), “Những
đứa trẻ chết già” (Nxb Văn học, 1994), “Người
đi vắng” (Nxb Văn học, 1999), “Trí
nhớ suy tàn” (Nxb Thanh niên, 2000), “Thoạt
Kỳ Thủy” (Nxb Hội Nhà Văn, 2004), “Ngồi”
(Nxb Đà Nẵng, 2006), “Mình và
họ” (Nxb Trẻ, 2014), “Bả giời” (Nxb Văn học, 2017), và gần đây
nhất là “Một ví dụ xoàng” (Nxb Hội Nhà Văn & công ty Tao Đàn, 2021)… Các tác phẩm văn xuôi của Nguyễn Bình Phương cho thấy sự kết hợp linh hoạt
và hài hòa giữa kỹ thuật “dòng ý thức” với thủ
pháp “hiện thực huyền ảo”,
làm nên một hiện tượng độc đáo trong văn xuôi Việt Nam đương đại. Văn xuôi
Nguyễn Bình Phương giúp tôi hiểu hơn về hành trình sáng tạo của ông, nó cũng chính
là đất đai, nguồn mạch cho thơ ông đơm hoa kết trái, sinh sôi.
Năm 2015, nhà thơ Nguyễn
Bình Phương xuất bản tập thơ “Xa xăm gõ
cửa” (Nxb Văn học và Công ty Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam). Đây là tập
thơ tuyển từ các tập thơ đã in: “Lam
chướng” (Nxb Văn học, 1992), "Xa
thân" (Nxb Hà Nội, 1997), “Từ
chết sang trời biếc” (Nxb Hội Nhà văn, 2001), “Buổi câu hờ hững” (Nxb Văn học, 2011), và những sáng tác mới nhất
của ông.
Tôi thường xuyên đọc thơ
Nguyễn Bình Phương nhưng luôn có cảm giác nửa như quen nửa như lạ. Quen quen
rồi lạ lạ. Đọc kỹ càng thấy lạ. Trong thế giới nghệ thuật của mình, nhà thơ
thường sử dụng tư liệu, hình ảnh quen thuộc của thơ “truyền thống” làm nền để
sáng tạo những không gian mới mẻ và khác thường. Ông ít khi thay đổi không gian
từ khởi đầu bài thơ, mà thường làm biến ảo hình ảnh trong từng mạch thơ, câu
thơ. Những hình ảnh này là chìa khoá để mở vào những không gian mới, hoàn toàn
khác cái không gian mà ta đã nhìn thấy ban đầu. Thơ của Nguyễn Bình Phương có
thể dung chứa nhiều không gian đan xen hoặc gối lên nhau. Những hiện thực trong
không gian đó ẩn hiện, có lúc được tác giả chủ ý làm “méo” những hình ảnh,
giống như bức tranh được vẽ trên thành một chiếc thạp cổ, một mái vòm. Hay
giống như bóng một ngọn đồi in trên mặt hồ đang xao động nhẹ…
Có thể tham khảo
cách thiết lập không gian thơ của một số tác giả cách tân cùng thế hệ sau 1986
để hiểu thêm những đặc điểm riêng, nổi bật của thơ Nguyễn Bình Phương. Trong
thơ Nguyễn Quang Thiều, Trần Tiến Dũng, ta thấy những hình khối được dựng lên
chính diện, sắc nét và sáng rõ. Để người đọc hình dung được khoảng không phía
sau, các tác giả thường đặt vào trong đó những hình ảnh đứt nối, mờ nhòe. Thơ
hai tác giả này thường khắc họa hiện thực đời sống với cảm giác phóng dật, ngổn
ngang, sắc nhọn. Còn trong thơ Nguyễn Lương Ngọc, những mặt cắt “lập thể” biến hiện
gây ấn tượng về sự rũ bỏ, tái sinh. Thơ Giáng Vân thấm đẫm tính thiền và gần
với siêu thực, cho ta sự quán tưởng về một thế giới trong suốt và tĩnh lặng.
Hoặc thơ Nguyễn Đức Tùng gần đây dung chứa nhiều không gian tiếp nối, đóng-mở
bất ngờ, làm hiển lộ những vẻ đẹp thảng hoặc, miên viễn…
Thơ Nguyễn Bình
Phương có lối cấu trúc không gian khác biệt so với thơ các tác giả tôi vừa dẫn.
Ông vận dụng lối kiến trúc hài hòa và tinh tế của phương Đông, kết hợp với cách
tạo hình trong không gian ba chiều của chạm lộng – một nghệ thuật chạm khắc dân
gian của người Việt. Tôi hình dung bề mặt không gian thơ Nguyễn Bình Phương ít
gai góc sắc nhọn và thường được làm cho phân tán, lu mờ đi. Chúng giống như một
vòm cây rì rào, một mái đình mờ sương sớm, hay những đám mây lững thững hơn là cây
đại thụ trước cuồng phong, dãy núi trùng điệp, những đỉnh tháp vút cao… Những
thi ảnh được nhà thơ thao túng, biến hóa đã làm bề mặt không gian thơ thay đổi.
Những hình ảnh ấy thường bị uốn cong thay vì bị bẻ gập, đứt đoạn như thơ của
một số tác giả khác. Tôi coi đây là không gian thơ độc đáo được tạo nên bởi thi
pháp Nguyễn Bình Phương.
Qua năm tập thơ đã được
công bố, chúng ta có thể hệ thống được cách tạo dựng và bài trí không gian thơ
của Nguyễn Bình Phương. Vị trí của những hình ảnh được ông sử dụng thường ít
dịch chuyển, hoán đổi, hoặc đảo lộn như thơ của một số tác giả cách tân cùng
thế hệ. Nhìn từ góc độ chủ thể sáng tạo cũng như người tiếp cận văn bản, theo
tôi, biến động của một bài thơ là diễn trình tư tưởng kết hợp với sự lan tỏa
của cảm xúc. Kết thúc diễn trình ấy, trật tự hình ảnh trong thơ Nguyễn Bình
Phương thường ít thay đổi. Xin dẫn các câu thơ sau đây:
“Kia bông hoa nức nở
trong yên tĩnh
Trăng hoang vu lượn sóng triền đồi
Kia chiếc lá chót cành
Hơi thở cuối
Run lên trời không mây” (Biền biệt).
Ở đây, bông hoa, trăng, triền đồi, chiếc
lá, hơi thở, mây đã làm xong bổn phận trong thế
giới thơ Nguyễn Bình Phương. Chúng ít khi tái hiện trong những khổ thơ tiếp
theo bằng những dáng vẻ, thân phận khác. Những hình ảnh ấy vẫn ở nguyên vị trí
như lúc mới xuất hiện, nhưng ánh sáng của chúng đã mở ra những không gian khác,
với những hướng chuyển động khác.
Tôi xin dẫn thơ
của nhà thơ Trần Tiến Dũng để so sánh. Trong khổ thơ sau, hình ảnh con chim
được nhà thơ cho xuất hiện trong những khoảng không giao nhau và đặt trong liên
tiếp câu nghi vấn rời rạc, do đó, liên tục biến hóa, thay đổi:
“Được gì khi là chim?
Bóng rớt xuống đất là phân
Được gì khi có cái nhìn chim?
Ánh sáng là thực phẩm
Được gì khi ý thức tự do chim?
Đưa ngực ra gió” (Đưa ngực đón gió).
Trong thơ của Nguyễn
Bình Phương, thoạt đầu, những hình ảnh xuất hiện thường gợi cảm giác hết sức
quen thuộc, gần gũi. Đôi lúc, dường như nhà thơ như có ý “trêu đùa” người đọc.
Đó cũng là cách Nguyễn Bình Phương dắt người đọc vào thơ mình bằng những câu mở
đầu thường là tối giản và dung dị. Như giọng mời
khách nhỏ nhẹ, khiêm nhường: Mưa đằng đông (Mùa), Tháng Tám phơi áo bờ rào (Bài hát vu vơ), Tôi nhón gót về (Làng Phan), Cô gái đến với anh (Hình ảnh cuối cùng), Tít phía
chiều (Không tên), Này cô em
dáng hiền hiền xinh xinh (Hỏi),
Một cái chức nhỏ nhẹ (Gửi
những khổ sở), Rồi ai cũng biết (Miêu tả những ngày mưa)...
Cảm giác quen
thuộc vẫn tiếp tục khi ta đã bước hẳn vào bên trong ngôi nhà thơ của Nguyễn
Bình Phương. Trong đó là những hình ảnh đặc trưng không gian văn hóa Việt:
“Qua bức tường đổ
hàng xóm chửi nhau
Mồ ông cha cày xới
Con Thà Khèo ngồi bậu cửa phì phèo hút thuốc” (B – Sang thị xã, trường
ca “Khách của trần gian”);
“Bức tường hoa sứ đổ
Còn lại bóng chỗ ngồi” (Bài thơ 5
khổ).
Thậm chí, còn bắt gặp
những hình ảnh cổ xưa hiện về trong không gian hiện đại, đa điểm nhìn của
Nguyễn Bình Phương:
“Gió tắt một ngọn đèn
dầu
Em mặc áo the em ra nơi hẹn” (Áo đêm);
“Rót một chén rượu
Mùa đông đỡ hoang tàn” (Rượu một mình);
“Hỡi ai mà bỏ đi
trăng lác đác” (Cái bóng)…
Lại có khi là sự pha
trộn giữa hiện thực huyền ảo với độc thoại theo kiểu “dòng ý thức”:
“Không em
Ngày rũ mình bước lên bản chữ Nôm cũ kỹ
Và ai đó không phải là gà
Cất tiếng gáy” (Không em).
Tương tự, trong bài thơ
“Bâng quơ”, Nguyễn Bình Phương như đã
trải một tấm chiếu cạp điều mời khách vào ngôi nhà thơ của ông:
“Dưới gầm trời ẩm ướt
Người cuối cùng đang nghĩ về em”.
Theo thói thường, khi
bước đến ngõ một ngôi nhà thân quen, người ta hay lướt qua
mà ít chú ý tới những hình ảnh quá gần gũi như giàn trầu không, con mèo tam
thể, cây cau, vại nước… Nhưng với thơ Nguyễn Bình Phương lại khác. Quen đấy mà
chỉ dạo vài bước thôi, ta sẽ được chứng kiến những hình ảnh quen thuộc kia bỗng
nhiên biến hiện kì ảo, không thể đoán định. Chính thế, nên tôi tự hỏi, những
hình ảnh tiếp theo này trong bài thơ “Bâng
quơ” đang di động trong thế giới nào, cõi âm hay chốn dương gian:
“Người cuối cùng lắng
nghe tiếng chuông
Ngân nga lên tóc em lên làn da xa thẳm…
Khung cửa hẹp bỗng làm anh hồi hộp
Có một người trở về sau ánh chớp
Lặng lẽ mang đi hư ảnh cuối cùng”.
Hình ảnh một người trở về sau ánh chớp có
thể ví như tiếng nhai vỡ hạt sạn trong một món ăn quen. Cách “nấu nướng” này
của Nguyễn Bình Phương có thể làm cho những “thực khách” vốn quen với những món
ăn tinh túy sẽ cảm thấy dị ứng, khó chịu. Nhưng sau tiếng vỡ của hạt sạn kia, ta
bắt đầu biết hoài nghi với những quan niệm cũ, biết thay đổi sở thích, và quan
trọng hơn, có được nhận thức khác về vẻ
đẹp phi truyền thống.
Nguyễn Bình Phương đã
làm thay đổi tuyến tính, các chiều kích, biên độ tưởng tượng trong một bài thơ.
Thủ pháp này chính là “bí quyết” để tạo ra những khoảng không riêng biệt trong
các tập thơ của ông. Tôi xin dẫn một số câu thơ tiêu biểu, cho thấy phần nào
thủ pháp kiến tạo không gian độc đáo của Nguyễn Bình Phương. Đây là cách ông
lấy một hình ảnh trong câu thơ vừa xuất hiện để mở cánh cửa vào một không gian
khác:
“Một người be bé mơ
thấy sóng
Sóng trở mình xóa trắng mộng bể Đông” (Ẩn dụ);
“Mây đêm bay về phía chân trời
Chân trời run rẩy sáng” (Thật
xa xôi).
Có lúc nhà thơ biến những khát vọng, những
câu trả lời thành hình ảnh cụ thể, đầy cảm xúc:
“Có một đêm vô hình cao chất ngất
Sáng nào tới được (Xa
thân);
kìa cô em lúm đồng tiền xinh xinh
Là bác sĩ hay là gì ấy nhỉ?
Hun hút hành lang hẹp” (Hỏi);
“Chúng ta nhìn thay người thương binh ấy,
vào ban mai, vào trưa, vào sẩm tối. Đêm thì anh nhìn giúp chúng ta” (Về một người thương binh hỏng mắt).
Hoặc lại dùng một hình ảnh huyền ảo khiến những
hình ảnh hiện thực trước nó cũng nhuốm màu huyền ảo:
“Bạn bè đi làm kiếp vợ chồng
Đom đóm yêu nhau lập loè chốn
cũ” (Nhập chiều);
“Ngoài chuồng trâu vọng tiếng cọ sừng
Một người nựng con
Phát con
Rồi ru
Một người xách đèn đi vào sương mù” (Ngày đông),
“Xa xa
Dưới lòng đất ẩm
Bộ xương cá
rùng mình lặng lẽ ấm dần lên” (Hồi lại).
Những câu thơ tôi gạch chân chính là “huyệt
đạo” trong những bài thơ của Nguyễn Bình Phương. Chúng xuất hiện, làm đảo lộn
khoảng không, vây lấy những hình ảnh tưởng như bất động trước đó. Những hình
ảnh ấy như được ai vẽ lên một mặt giấy, một bức tường… Rồi bất chợt trở nên
sống động trong một thế giới khác. Phía sau những hình ảnh kia chính là một
cánh cửa, một khoảng không khác thường hay một đường hầm nối vào sâu hút. Những
câu thơ làm “huyệt đạo”, làm “mắt bão” ấy
của Nguyễn Bình Phương tựa chiếc bập bênh bỗng nhiên thả bổng bật tung người
bạn chơi ở đầu bên kia lên.
Thơ Nguyễn Bình Phương không
chỉ tiếp biến lối viết “dòng ý thức” kết hợp với “hiện thực huyền ảo” của tiểu
thuyết, mà thỉnh thoảng đan xen với những khuynh hướng nghệ thuật khác như
Tượng trưng, Siêu thực, để làm nên một thế giới thơ xô lệch độc đáo, đa điểm
nhìn. Đó là thế giới siêu nhiên, đến từ quá khứ, từ tâm tưởng, có khả năng hiển
linh cùng đời sống dương gian.
Khá nhiều bài thơ của
Nguyễn Bình Phương xuất hiện những nhân vật, có tích truyện. Có thể gọi những
bài thơ này là truyện cực ngắn được viết bằng ngôn ngữ thơ. Những nhân vật
trong bài thơ thường ẩn hiện trong một thế giới huyễn ảo, siêu thực, dìu bạn
đọc vào những cảm giác mê sảng, đặc biệt ấn tượng. Bài thơ “Cắt tóc” có cốt truyện khá độc đáo, thú
vị. Nhân vật Tôi ngồi cắt tóc kín
đáo nhếch môi cười để
mặc cho khuôn mặt cùng những sự thật sau bức tường kia già đi theo thời gian.
Bài-thơ-truyện-cực-ngắn này có cái kết mở gây bất ngờ:
“Một người cực lạ
Rũ khăn choàng váng vất bước ra”.
Đọc thơ Nguyễn Bình
Phương, tôi thường “cảnh giác” với những hình ảnh tưởng như thân thiện, bỗng
chốc chúng có thể biến thành những thần linh, hồn ma, quỷ quái. Những hình ảnh
dưới đây tựa những linh vật trong Bái Vật Giáo:
“Đom đóm lập loè bay
qua thành phố
Để lại nụ cười mơ hồ xanh” (Áo đêm);
“Cuối cùng
chiếc gương cũng trào ra những bóng hình ứ đọng” (Ở nơi không có
cánh);
“Chết không thở cùng
hoa
Thở cùng người đàn bà xa lạ” (Nhẹ).
Tạo ra hiện thực không
gian “uốn vặn” là một thủ pháp nghệ thuật, cũng là một thi pháp đặc trưng trong
suốt hành trình sáng tạo của Nguyễn Bình Phương. Tôi có cảm nhận không gian ấy
được ông kiến tạo, giáp nối bằng những “mặt cong” với nhiều sắc thái. Ở tập thơ
“Lam chướng”, những bề mặt
không gian được tạo ra có phần đơn giản hơn những bài thơ viết sau này. Hiện
thực không gian trong giai đoạn đầu này được Nguyễn Bình Phương dựng lên bảng
lảng, sương khói, mơ màng như bức tranh lụa. Những sự kiện đồng hiện thường
dung dị, ít chồng lấn và sáng rõ hơn những bài thơ trong tập thơ “Buổi câu
hờ hững” và những thi tập sau đó. Tuy vậy, không gian thơ trong “Lam
chướng” vẫn là những hiện thực không gian “cong” như tôi đã viện dẫn. Hình
ảnh trong “Lam chướng” có thể ví như những hình họa trên những
chiếc bình gốm với nước men rạn tự nhiên, ngoằn ngoèo như mê lộ. Nhưng ở những
tập thơ sau này, không gian thơ Nguyễn Bình Phương thường được đan xen, mấp mô,
chồng lấn nhiều hơn.
Trong bài thơ “Không đề” của tập thơ “Lam chướng”, những hình ảnh
xuất hiện trong khổ đầu bài thơ tựa những con số trên bảng máy tính. Chúng được
liệt kê một cách dung dị và hiền lành:
“Có người lính chống
cằm nhìn vỏ đạn
Có đàn ri bay qua nóc nhà thờ
Có dòng suối chảy qua những tầng rễ
Có góa phụ chít khăn bằng sương”.
Ở những câu thơ mở đầu
này, từng con số kia vẫn nằm im. Chúng chỉ thực sự hoạt động (làm tính) khi bàn
tay của nhà thơ đánh thức chúng bằng câu thơ sau:
“Đêm nay nước mắt
giáng trần
Con đom đóm nhỏ xiu đêm nay lạc mẹ
Ngủ nhờ giấc ngủ trẻ con”.
Con đom đóm được nhà thơ đặt vào giấc ngủ trẻ con, theo tôi, là một hình
ảnh khác thường kết nối tất cả những hình ảnh rời rạc tưởng như nằm yên trong
khổ thơ đầu. Cách tạo những “mặt cong” trong trường hợp này khá giản dị, tuy
vậy, hiệu ứng của nó lại gây nhiều bất ngờ cho người đọc.
Thơ Nguyễn Bình Phương
giai đoạn kế tiếp trở nên đa diện hơn trong cách hiển thị hình ảnh và sắp đặt
không gian. Những tư liệu, hình ảnh mang theo nhiều tâm trạng được nhà thơ sử
dụng trong bài thơ thường sắc lạnh và rời rạc hơn trước khi nó được “uốn cong”.
Như hình ảnh những người bán hàng mã trong bài thơ “Hàng mã rong” hiện lên dật dờ, phiêu diêu và đi êm ru sang phía tờ mờ:
“Họ không
tới ngày mai những ngày mai chết lặng
Lồng ngực thời tiết trái tim chẳng rộn ràng
Trái tim đập lầm lụi dưới gót chân
Sau mỗi bước cửa thời gian rùng mình lại mở”.
Trong bài thơ “Miêu tả những ngày nắng”, ta còn có thể nghe rõ tiếng va đập hỗn độn
của đời sống công nghiệp. Cách sắp đặt hình ảnh tạo nên những khoảng không gian
hẹp đan gối:
“Một bầu trời phẳng lì
Không mây không gì cả
Tường chói tiếng nói chói
Chói tấm biển chỉ đường ra ga
Gương chiếu hậu quắc lên quái gở”.
Bài thơ “NBP” sau đây mang
đặc trưng cách thiết lập không gian của Nguyễn Bình Phương giai đoạn tiếp sau “Lam Chướng”, và vẫn được ông sử dụng tới
nay.
NBP
“Những bóng tối lảng vảng trên tóc
Trên mặt sông rút dải làn sương bạc
Trong giấc ngủ thâm u bầy người điên ngơ ngác
Đã trở về
Khuôn mặt nước giếng khơi rạng rỡ
Tôi châm thuốc ra ngoài gặp cỏ
Nghĩ đến mình nghĩ đến mình thật nhiều
Nhắm mắt lại và từ từ hiển hiện
Một vườn mía ngọt lúc trăng lên
Tin vào đêm
Không tin bóng tối
Những ngôi đền rụt rè sáng cùng tôi”.
Bài thơ có ba khổ, nhưng
không mang tinh thần tam đoạn luận như thường gặp trong một số bài thơ truyền
thống. Mỗi khổ thơ trong bài dung chứa từng không gian riêng với đa dạng xúc cảm
và tâm trạng. Ở khổ thơ đầu có hai điểm nhói sáng, tôi gọi đó là hai vị trí tác
giả đã chọn để “uốn cong”: Trong giấc ngủ
thâm u bầy người điên ngơ ngác và Khuôn
mặt nước giếng khơi rạng rỡ. Còn trong hai khổ thơ sau, vị trí để “uốn
cong” đều nằm ở câu thơ cuối cùng của khổ: Một
vườn mía ngọt lúc trăng lên và Những
ngôi đền rụt rè sáng cùng tôi. Nối bốn điểm sáng trong bài thơ “NBP” lại, ta
sẽ hình dung một không gian rộng lớn, với những hình ảnh nổi, sống động tựa như
xem một đoạn phim 3D, 4D. Những “mặt cong” này cho ta hình dung rõ nhất về chân
dung Nguyễn Bình Phương, một thi sĩ với đầy những âu lo hoài niệm, nhưng luôn
tin vào những điều tốt đẹp sẽ tới.
Dụng ngôn cũng là một
trong những thủ pháp tạo không gian của nhà thơ Nguyễn Bình Phương. Ông thường
chọn lối diễn đạt gây ám ảnh dai dẳng, mơ hồ hơn là những cách nói bộc trực, đập
mạnh vào cảm giác trực tiếp. Cách dụng ngôn gây nhiều ảo giác mộng mị, gợi sự
tan loãng, phân rã như ông càng tạo cho thế giới thơ của ông thêm đa chiều
những hướng mở. Những hình ảnh như được tăng diện tiếp xúc với thế giới bên
ngoài. Và chúng thường hiển hiện như những ngôi sao ở xa, nhấp nháy, đa bội. Cách
nhà thơ dùng điệp từ, hoặc nhắc lại hình ảnh trong một câu thơ với chủ ý hãm
những chuyển động của chúng chậm lại cũng rất đáng chú ý.
“Có con chim
nâu trong bông hoa nâu” (Khuya
nào).
“Nhuốm gót theo ôi
đầm sương là sương” (Cái bóng).
“Người ngồi cạnh sông
người nói với sông” (Đêm
ngà ngà).
“Tơ
hồng vàng giăng trước ngôi nhà vàng” (Lời hứa muộn).
“Chầm chậm chầm chậm
bò giữa nắng” (Hành trình).
“Ngày hoa bán
đầy phố
Đêm phố đầy bán hoa” (Khoảng giữa)...
Nhà thơ thường chọn
những từ ngữ khó xác định vị trí, số lượng cụ thể làm điểm dừng, đầu nối cho
những hình ảnh chuyển động: sương,
mưa, mây, gió, cỏ, sao trời, khoảng trống:
“Họ hân
hoan chờ anh ở nơi mây sẽ dừng” (Kẻ
ngoài cuộc);
“Một cái gì tròn vo như
lạc thú
Lim dim chờ cú sút
Bay thẳng vào khung thành mờ sương” (Chơi với con);
“Không ngồi thì đứng vững cùng mưa” (Gửi những khổ sở);
“Tôi
áp tên tôi vào cơn gió” (Một mùa
hè mọi thứ áp vào nhau);
“Những cuộc đời quanh co vô tận
Lơ mơ cỏ và sao
Chẳng ai biết kết thúc ở nơi nào” (Hành
trình);
“Kìa ai
cặm cụi khắc vào khoảng trống những nét u trầm” (Khắc vào khoảng trống).
Ngay cả cách đặt tên cho
những bài thơ của Nguyễn Bình Phương cũng chủ ý thiết lập không gian riêng của
ông. Tôi chậm rãi xướng tên những bài thơ sau và tưởng tượng đó là những âm
vọng của tiếng động, giọng nói, hay tiếng cầu nguyện của những tín đồ
được hắt xuống từ một mái vòm nhà thờ: Nhập chiều, Biền biệt, Khuya
nào, Nhẹ, Thầm, Hồi lại, Mở lời, Đêm ngà ngà, Vọng từ giá sách, Chớp được, Thế
giới mười hai dòng, Thời soi sáng, Người chèo đò lạnh, Ở nơi không có cánh,
Những rơi, rơi và rơi…
“Xa
xăm gõ cửa” là thi tuyển ghi dấu thành công sau hơn hai mươi năm sáng tác của
Nguyễn Bình Phương. Trên chặng đường ấy, ông luôn
có ý thức kiến tạo một không gian thơ độc đáo, riêng biệt. Hiện thực
những “mặt cong” là không gian được ông tạo dựng. Độ “cong” nhiều hay ít của
những hiện thực ấy tuy có khác nhau qua mỗi giai đoạn sáng tác, nhưng luôn nhất
quán làm nên thi pháp không gian thơ của ông. Thi pháp ấy được thể hiện rõ nét
trong cách tạo ra đa dạng ấn tượng các thi ảnh và huyền thoại hóa chúng để
thiết lập một không-thời-gian nhiều chiều, và trải chúng ra theo “dòng ý
thức”. Khối lượng tác phẩm của Nguyễn Bình Phương tuy chưa phải là đồ sộ song
đã chiếm lĩnh một vị trí cao trong nền văn
chương Việt Nam đương đại, và tôi tin rằng tên tuổi của Nguyễn Bình Phương sẽ còn đi xa hơn nữa.
6/2016
____________________________
[1] Dòng ý thức (tiếng Anh: Stream of consciousness) là kỹ thuật kể chuyện trong tác phẩm hư
cấu không phải kịch nhằm thể hiện dòng chảy của vô số ấn tượng – thị giác,
thính giác, thân thể, liên tưởng và tiềm thức – tác động vào ý thức của một cá
nhân và hình thành một phần nhận thức cùng xu hướng tư duy lý trí của anh ta.
Thuật ngữ này lần đầu tiên được nhà tâm lý học William James sử dụng vào năm
1890 trong tác phẩm The Principles of
Psychology (tạm dịch: Các nguyên lý
tâm lý học) của ông... Tiểu thuyết dòng ý thức thường sử dụng các kỹ thuật
tự sự trong độc thoại nội tâm. Có lẽ ví dụ nổi tiếng nhất là tác phẩm Ulysses của James Joyce (1922).
Nguồn: https://www.britannica.com/art/stream-of-consciousness
Bái vật giáo là hình thức tôn giáo thờ cúng những vật được gán cho
những đặc tính huyền bí, có năng lực siêu nhiên; là một trong những hình thức
tôn giáo sớm nhất trong xã hội nguyên thủy.