Cơn mưa ánh sáng trong thơ Lê Ngân Hằng (phê bình) - Mai Văn Phấn

Cơn mưa ánh sáng trong thơ Lê Ngân Hằng

(Đọc “Orient – Trên những vòm cây” của Lê Ngân Hằng, Nxb Hội Nhà văn, 2006)

 

 

Nhà thơ Lê Ngân Hằng

 

 

Mai Văn Phấn

 

Nhà thơ Lê Ngân Hằng đã xuất bản ba tập thơ: “Xe chở mùa” (Nxb Hội Nhà văn, 2003), “Orient – Trên những vòm cây” (Nxb Hội Nhà văn, 2006), “Harvest – mùa màng đọc lại nỗi đau” (Nxb Hội Nhà văn, 2013). Theo đánh giá của tôi, nếu tập thơ “Xe chở mùa” tựa những đốm lửa được nhà thơ thắp lên để nhận biết hướng đi, thì tập thơ “Orient – Trên những vòm cây” chính là chùm ánh sáng của những ý tưởng mới lạ và cảm xúc mạnh mẽ, tạo những đột phá trong thi pháp, đặc biệt là ngôn ngữ thơ. Trong bài viết này, tôi tập trung vào tập thơ thứ hai của chị. Chính tập thơ này đã hội tụ phong cách thơ Lê Ngân Hằng.

 

Có thể gọi tập thơ “Orient – Trên những vòm cây” của nhà thơ Lê Ngân Hằng là một trường ca hiện đại, một giao hưởng thơ. Tập thơ được cấu trúc gồm bốn phần. Phần 1: “từ một đến chín” (Trong mắt côn trùng). Phần 2: “từ mười ba đến hai mươi” (Nơi yên nghỉ và đàn bò). Phần 3: “Người đàn bà” (Nhịp tiếng rên và những vòng tròn). Phần 4: “Trên những vòm cây” (Nơi họ chỉ là một). Cấu trúc này thể hiện trọn vẹn một hành trình, ra đi rồi trở về, đồng nghĩa với rũ bỏ chết đi phục sinh trong một thân xác mới, thắp lên ánh sáng mới. Từ phần 1 đến phần 3 gồm 30 đoạn thơ được đánh số. Dưới mỗi số thứ tự, tác giả có đặt tên cho từng đoạn thơ. Ví dụ: 13 (cánh); 14 (thừa); 15 ()… Riêng phần 4 có 10 đoạn thơ, được đánh số từ 1 đến 10 như biểu đạt một thời kỳ mới, khác biệt để đi đến kết thúc tác phẩm. Cuối phần 1 là ba đoạn thơ đứng độc lập kết hợp với những bức tranh phác chì của họa sỹ Lê Thiết Cương để gợi ấn tượng thị giác. Ví dụ đoạn số 11 khói (chữ khói không để trong dấu ngoặc đơn). Trong nội dung đoạn thơ này chỉ có duy nhất một cụm ký tự (…tỏa…!!!). Họa sĩ Lê Thiết Cương đã dành thời gian thiết kế công phu chi tiết tập thơ. Hình họa bìa sách, những dòng chữ to nhỏ khác nhau trong nội dung tập thơ, tranh minh họa từng trang đều được họa sĩ sắp đặt tạo tương phản theo một ý tưởng riêng. Với cấu trúc ấy, tập thơ “Orient Trên những vòm cây” gợi tôi liên tưởng tới con búp bê Matryoshka của Nga với con nhỏ lồng vào trong con to nhiều lớp, rồi được lần lượt mở ra theo từng phần, từng đoạn thơ. Dựa vào cấu trúc nội dung và cách thiết kế tập thơ, tôi sẽ đi theo trình tự thời gian và tuyến tính chuyển dịch hình ảnh trong đó để minh định rõ hơn những ý tưởng mà nhà thơ Lê Ngân Hằng đã gửi vào tác phẩm.

 

Cảm nhận trực khởi của tôi khi đọc “Orient - Trên những vòm cây” là mọi chuyển dịch trong đó đều phát ra ánh sáng. Ngay từ phần mở đầu tập thơ, tác giả đã tạo cảm giác mạnh và lạ để hút người đọc vào những vòng xoáy bất tận của những hình ảnh bất ngờ xuất hiện và chuyển động nhanh. Như vì sao, mắt côn trùng, lá khô, chân hương cháy dở, ngọn thuỷ triều…

 

Nơi những người đàn bà ẩn giấu hương thơm

Nơi người đàn ông chọn mùa hít thở” (phần 1, đoạn 2).

 

Trong tập thơ của Lê Ngân Hằng thường xuất hiện hình ảnh chủ đạo cùng những hình ảnh phụ họa. Những hình ảnh chủ đạo chuyển động độc lập trong một từ trường cảm xúc mạnh và nhất quán. Tôi cảm giác chúng ngụt cháy tựa những ngọn đuốc và di chuyển giữa những hình ảnh phụ, như vô vàn ngọn nến nhỏ vừa được thắp sáng: 

 

Đêm tối. Hoang mang. Mù loà. Sợ hãi

Quyết liệt. Nồng nàn. Khoái cảm. Hiến dâng. Tất thảy” (phần 3, đoạn 30).

 

Tôi được thưởng thức, chiêm nghiệm và hân hoan giữa một thi giới trong suốt và rực rỡ. Ánh sáng đan lồng vào ánh sáng. Lúc lan tỏa nhu hòa, lúc rực rỡ chói gắt, lúc đơn độc nhấp nháy… Tất cả đồng hiện làm nên một trận mưa ánh sáng trong “Orient - Trên những vòm cây”.

 

Xuyên suốt tập thơ là nhân vật nàng – cái tôi trữ tình, lúc độc thoại, lúc tra vấn. Nhân vật này luôn ẩn hiện và phát ra ánh sáng. Hãy nghe nhân vật Nàng xưng danh cùng bạn đọc:

 

Bên sông Ngân hằng đêm

Đang bay lượn những linh hồn phiêu dạt

Sống mà không cần hình hài trọng lượng

Đã nhận lấy số phận.” 

 

Đây nữa là mục sinh quán, trú quán trong “lý lịch trích ngang” của chị: 

 

Vòng tay đất nâu những thứ quả cây những hương thơm mùa những ngọn gió mùa

tha hương da diết” (phần 1, đoạn 1).

 

Ngay tại đoạn 2 của phần 1, thơ Lê Ngân Hằng mở ra trước mắt người đọc một đời sống khác. Cái khác gây ấn tượng ở đây là điểm nhìn của nhà thơ “Nơi mọi thứ bắt đầu kết thúc”. Từ đây, ánh sáng mở ra chậm rãi như những cánh hoa, như vệt sáng của con đom đóm trong đêm tối. Lần theo từng câu thơ, tôi cảm nhận những đốm sáng riêng lẻ kia đang tụ lại soi cho chúng ta thấy con đường phía trước: 

 

Trên đôi cánh côn trùng yếu ớt

Trên cặp mắt côn trùng loé sáng

Trên thân thể côn trùng trần trụi

Co duỗi chuyển động

Những chuỗi chân bò đi rất chậm” (3 - nó).

 

Nhà thơ Lê Ngân Hằng đã khai mở “Orient - Trên những vòm cây” bằng nghi lễ trang nghiêm và thành kính. Đoạn thơ sau đây cho tôi liên tưởng tới vị giáo sĩ đang chầm chậm đặt tay lên cuốn kinh thánh và bắt đầu cầu nguyện. Vị giáo sĩ-thi sĩ ấy đang thành tâm nhìn vào khoảng không trước mặt, khấn nguyện bằng những giấc mơ thi sĩ của mình: 

 

Mơ! Đôi mắt của côn trùng

Rong chơi trong thế giới này

Mơ! Thân xác của côn trùng

đang run rẩy dưới làn mưa ấm

Mơ! Chân côn trùng chuyển động” (3 - nó).

 

Rời không gian của giáo sĩ-thi sĩ, tôi trở lại ranh giới Nơi mọi thứ bắt đầu kết thúc để cảm nhận đầy đủ sự dồn nén, hội tụ cho cơn mưa ánh sáng sắp vỡ oà. Trong đoạn 4 (trốn) của tập thơ, tôi được hình dung nhân vật nàng đang cùng vạn vật nén căng thành chiếc lò xo lớn, thành đám mây khổng lồ chờ thời điểm bật dậy, bung mở… Nỗi cô đơn của nàng ở đây không cô lập mà lan ra, chìm sâu xuống đáy của sự chờ đợi: 

 

Úp mặt trong bóng tối tăm trong ngàn vạn lá xanh trong nắng chiều tà trong những cơn mưa ngọt ngào, trong sự thức”.

 

Trong kìm nén tột cùng để chìm vào tịch lặng, Lê Ngân Hằng luôn lắng nghe và cảm nhận mọi chuyển động bất tận của đời sống, cũng chính là sự chuyển dịch tâm sinh lý, trạng thái của chị tìm về cõi giới khác: 

 

Trong khi đám lá cây nhảy múa

Trong khi chồi hân hoan hé nở, những lá khô lặng lẽ về cội

Trong khi những dòng sông ngầu đỏ

Trong khi lời thì thầm đứt quãng

Trong khi vết thương nhức nhối

Trong khi sự ghen tuông bùng phát

Trong khi giấc mơ tắt lịm”.

 

Tôi hình dung hình ảnh trong thế giới thơ Lê Ngân Hằng tại thời điểm này giống như hình họa của những bức tranh trừu tượng. Họa sĩ  không vẽ những hình ảnh được trông thấy mà thể hiện những gì cảm thấy, được gợi ra. Những hình ảnh quen thuộc đều bị bóp méo, uốn cong. Như nong kén, khung cửi, con bướm, cây chuối, cái bánh đa, con mèo, tôm cá, con chữ, đàn kiến, hạt vừng đen, gốc cây, ngõ nhỏ, bức tường, rêu, bàn ghế… Tất cả như đang căng tràn dãn nở chờ đợi giờ phút được bùng nổ:

 

Thúng mủng nong nia dần sàng… chum vại và… cái giếng nước

Há cái miệng tròn của chúng nói một điều gì đó về thôn quê” (6 - vườn).

 

Nàng trong “Orient - Trên những vòm cây” đã hóa thân thành mùa màng, cây cối xanh tốt, thành lũ bướm đập cánh, thành chim cất tiếng hót. Nàng đã tắm đẫm nỗi cô đơn trong mùa hạ và ngủ quên: 

 

chỉ thức dậy trên những ngọn cây khi mùa xuân đến

… Đợi chờ cơn rạo rực nhú lên mùa trăng mới bắt đầu” (4 - trốn).

 

Và, nàng đã tự ví mình như con sâu di chuyển trong một khu vườn. Khái niệm “tha hương” của loài sâu trong con mắt nhà thơ là rời khỏi cái cây nó vừa trú ngụ. Lê Ngân Hằng hé lộ một phần bí mật của khu vườn ấy trong câu thơ: 

 

Một hôm nàng thả mình rơi xuống đất mà chẳng ai biết lý do thực sự” (5 - miền).

 

Cũng từ thời điểm này, những hạt mưa ánh sáng chính thức được “khai hỏa”. Mưa bắt đầu rơi lác đác từ đoạn thơ số 13 (cánh) khi Nàng đã nhón gót rời đi. Rồi dồn dập, những câu thơ như nhịp thở gấp gáp sau đây cho tôi liên tưởng tới tâm trạng của người mẹ lúc lâm bồn, hay hình ảnh con chim non lần đầu run rẩy đứng lên thành tổ: 

 

Đầu tiên là linh cảm bắn ra những mũi tên điện bủa vây mọi phía

Tiếp đó là sự mơ hồ run rẩy

Tiếp đó là sự ngạt thở cuống quýt

Tiếp đó là sự mù màu bởi luồng ánh sáng trở nên chói lòa  rực rỡ”.

 

Cơn mưa ánh sáng trong thơ Lê Ngân Hằng hiển lộ hình ảnh một người đàn bà trong quyền thiêng làm mẹ, trong bổn phận làm vợ, làm người tình với đầy ắp những âu lo, khắc khoải về hạnh phúc, khổ đau nhưng tuyệt đẹp và sáng rỡ. Những câu thơ giàu linh cảm và tơ mảnh sau đây tái hiện đầy đủ vẻ đẹp linh ẩn và rất đáng yêu của đời sống này: 

 

Không rung chuyển được

Đôi cánh quá trong mỏng của nàng

Im lặng ngắn ngủi” (15 - và).

 

Từ đoạn thơ thứ 19 (thế), thơ Lê Ngân Hằng như cơn mưa rào xối xả trút “ánh sáng” xuống mặt đất. Khi loài côn trùng thức dậy tấu bản nhạc hành khúc không có đoạn kết, thì những “hạt mưa chữ” trong “Orient - Trên những vòm cây” ào ạt rơi xuống thắp sáng cả không gian mà trước đó còn u uẩn, mù mịt: 

 

Nơi chiếc giường chỉ là vật dụng chứng kiến bóng đêm. Đã nhớ nhung. Đã tình tự. Đã đắm mê. Đã đau. Đã khóc. Đã gục ngã. Đã khao khát. Đã đợi chờ. Đã hiến dâng. Đã reo ca. Đã tìm. Đã đến. Đã từ biệt(19 - thế); 

 

Những chân hương đã cháy đến cùng mùi hương

Rồi tất thảy tan biến vào yên tĩnh vòm cây đồng cỏ” (20 - hương).

 

Hình ảnh người phụ nữ được nhà thơ khắc họa rõ nét nhất trong phần 3 “Người đàn bà - Nhịp tiếng rên và những vòng tròn”. Người đàn bà trong “Orient - Trên những vòm cây” là biểu tượng của lòng nhân ái, vị tha và cũng là sức mạnh cứu rỗi mọi mất mát khổ đau trên thế gian. Người đàn bà trong thơ Lê Ngân Hằng mang nội hàm của Đạo Mẫu. Trong đoạn thơ thứ 21 (từ đoạn thơ này đến hết tập thơ tác giả không đặt tên), những câu thơ có nhịp điệu gấp gáp, phập phồng và tuôn chảy, cho tôi liên tưởng tới những câu hát văn (chầu văn, hay còn gọi là hát bóng) trong nghi lễ hầu đồng ở các đền Mẫu. Để tạo cảm giác mê hoặc dìu dặt đưa người đọc vào trạng thái mông lung, huyền ảo, phải chăng nhà thơ đã vận dụng nghệ thuật dồn phách, đảo phách của hát văn để thay đổi nhịp điệu những câu thơ sau: 

 

Nghe trong mình

Người đàn bà từng nhịp tiếng rên

khát

hạn hán

nứt nẻ

Xác xơ

rời rã

hoang thẳm

buồn

dốc thở

đê mê

cơn đau phù sa phù sa

đôi bờ sông trào dâng ngầu đỏ

đỡ những con cá ngày sinh nở”.

 

Khi được hỏi về thông điệp mà nhà thơ định gửi tới bạn đọc thông qua “Orient – Trên những vòm cây”, nhà thơ Lê Ngân Hằng đã tâm sự: “Người phụ nữ luôn rơi vào những mâu thuẫn, ràng buộc giữa thể xác và linh hồn, nguy cơ bị tước đoạt dần cảm xúc trong xã hội thực dụng hiện đại là rất lớn. Giờ đây, họ chịu nhiều áp lực hơn, nhiều biến động tinh thần hơn. Điều này xảy ra cùng với đổ vỡ, bế tắc và thất vọng… Do vậy phụ nữ cần tự mình giải phóng về mặt tinh thần. Chỉ có sự tự do đích thực trong ngõ ngách tinh thần thì người phụ nữ mới thực sự bay lên và phát triển, mới có thể là chính mình[1].

 

Tôi đã nhận ra đôi cánh tự do bay bổng mang tinh thần giải phóng trong tập thơ “Orient - Trên những vòm cây” của nhà thơ Lê Ngân Hằng. Bằng cảm xúc căng tràn, kết hợp với nhịp điệu tự do, phóng dật, thơ Lê Ngân Hằng mang đến bạn đọc cảm giác về sự yêu đương, ân ái bất tận như sự gieo trồng, sinh sôi trên khắp thế gian. 

 

Nàng nguyện tìm linh hồn mình ở khắp mọi nơi

Đi qua những cây cầu đêm để đến nơi nghi lễ vũ hội nổi loạn yên tĩnh

Trong cùng sâu âm u hang tối có thể bao bọc tiếng rên đứt quãng của nàng

Khiến cho những rãnh sâu hang sinh nở trắng trong vô tận kín đáo

Khiến eo hông bờ vai chuyển động nhịp điệu mùa màng phồn thực” (đoạn 22).

 

Cuộc cách mạng giải phóng tính dục và nữ quyền hiện vẫn là vấn đề được toàn nhân loại quan tâm. Luce Irigaray[2], một nhà nữ quyền người Pháp đã kêu gọi giải phóng những xung năng tính dục cho phụ nữ. Nói khác đi, đó chính là cuộc giải phóng thiên tính nữ trong mỹ học tính dục. Jean Lacroix[3] đã nói: “Ở đâu bản năng nghèo nàn, nhân cách cũng nghèo nàn”.

 

Bản năng tự nhiên được biểu đạt trong thơ Lê Ngân Hằng mang mỹ học tính dục có khởi nguyên từ thiên tính nữ. “Chừng nào cuộc đời còn đi lên thì hạnh phúc và bản năng là đồng nhất” – Friedrich Nietzsche[4]. Bản năng đã tạo ra hấp lực cho mọi vẻ đẹp, mọi dịch chuyển đến được đích của ước mơ, chân lý. Vẻ đẹp tính dục trong tập thơ “Orient – Trên những vòm cây” một lần nữa khẳng định, dục tính là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên nền tảng và phong cách của tác phẩm văn học. 

 

Cùng bầu vú này chàng đã uống no nê đã run rẩy đã cuống cuồng lục tìm trong cơn đói khát”.

 

Tôi đã gặp câu thơ ấy ẩn hiện trong nhiều trang thơ của Lê Ngân Hằng. Tôi nói ẩn hiện vì họa sĩ Lê Thiết Cương đã sử dụng những ký tự của câu thơ làm điểm nhấn trong những bức tranh, những trang đồ họa của ông. Câu thơ này như những tia chớp, thi thoảng lại bất ngờ xuất hiện trong cơn mưa ánh sáng của Lê Ngân Hằng. Tính dục thường được ví như bữa tiệc của hoan lạc và vui thú nơi trần thế. Nói cách khác, tình yêu, niềm ái ân nam nữ chính là ân sủng của Thượng Đế ban cho con người được tham dự trước vào cõi Thiên đàng, nơi hoa trái của ơn cứu độ. Theo quan niệm của Thiên Chúa giáo “Chính trong sự tự do hoàn hảo thấm đậm ân sủng do Bí tích Hôn nhân đem lại, tương giao tính dục được đưa từ cõi chết bước vào cõi sống, được nếm trước niềm hoan lạc họ sẽ được tận hưởng đời sau[5].

 

Trong phần ba của tập thơ này, nhà thơ Lê Ngân Hằng đã biểu đạt “ơn cứu độ” ấy bằng bút pháp hiện đại, hậu hiện đại. Bản năng dục tính thường được nhà thơ thể hiện bằng cảm xúc mãnh liệt. Và đặc biệt, bản năng được đặt trong không gian thơ tràn đầy ánh sáng nên được người đọc cảm nhận về sự thiêng liêng, phồn sinh mà không thấy bất kỳ sự dung tục nào: 

 

Người đàn bà và nhịp tiếng rên mạnh hơn kinh nguyện (26).

 

Mối tương giao trong ái ân đưa đến sự trao hiến vĩnh cửu. Đặc biệt hơn, ngôn từ trong tình yêu và ái ân thường được Lê Ngân Hằng biểu đạt gợi cảm và ám ảnh, nhằm chi phối ý chí và cảm xúc của người đọc: 

 

Nghe trong mình

Trong tiếng thở thoi thóp của khu vườn trồng một loài hoa thức xuân đã chết

Ai? Ai?

Ai đã vô cảm mang linh hồn rực rỡ ấy đi? Chôn sống nàng xuống miền đất khác” (27).

 

Orient – Trên những vòm cây” đưa bạn đọc tới một cõi khác, một cảnh giới khác. Trước khi vào đoạn kết thứ 30 của phần ba tập thơ, nhà thơ Lê Ngân Hằng để “cơn mưa ánh sáng” ấy dần tạnh. Chị đã viết về “Một dấu hỏi đề trên bia mộ chôn cất những dấu hỏi?”: 

 

Người đàn bà và nhịp tiếng rên, có phải nàng không?” 

 

Tương tự như vậy, nhà thơ truy vấn những hình ảnh chủ đạo xuất hiện từ đầu tập thơ: từ hơi thở dốc, đê mê, khô cháy, xác xơ, nứt nẻ, bùn, khói… đến sông, vườn, hương, bão… có phải nàng không? Đến lúc này, tất cả chuyển dịch đều ngừng lại và kết thúc để hoài thai một sinh linh mới: “Tiếng khóc sẽ cất lên Chữ Cái đầu tiên trong những chữ cái ghép O R I E N T”.

 

Orient là từ mang nghĩa Đông phương. là hướng mặt trời mọc. Như vậy, từ Orient trong tập thơ của nhà thơ Lê Ngân Hằng lại thêm những hàm nghĩa khác. Đó là sự phục sinh, sống lại của cái đẹp, của chân lý cứu độ trong những vòm cây. Hình ảnh những vòm cây ở đây được hiểu như một thế giới, một cõi sống, cõi yêu của chị. 

 

Phần 4 của tập thơ mang tên “Trên những vòm cây – Nơi họ chỉ là một” gồm 10 đoạn thơ. Đây là những khúc vĩ thanh của bản trường ca này. Tôi không gọi phần 4 này là cơn mưa ánh sáng tiếp theo, mà đây thực sự là một lễ hội ánh sáng: 

 

Trong ánh sáng của ngày sắp rạng đang tuôn chảy mặt trời đầm đìa

Trên đỉnh lá lung linh”.

 

Trong lễ hội ấy, nhà thơ thắp lên rất nhiều ngọn nến để cảm nhận và tận hưởng niềm hạnh phúc hân hoan trong thế giới “vòm cây” vừa được tái sinh: 

 

Cơn khóc

Cơn buồn

Cơn hứng khởi

Cơn đau đớn cười nói va chạm mơ hồ

Cơn nộ cuồng

Cơn vẫy vùng

Cơn giao phối 

Cơn rống mùi thân thể

Cơn thụ trứng

Cơn sinh sản lửa 

Bùng lên mặt đất tù đầy những cái cây vạm vỡ mang chùm rễ lớn”. 

 

Đọc đến đây, tôi hình dung một cội cây khổng lồ tỏa sáng đang hiện ra trước mắt mình. Trong đó hội tụ đầy đủ cung bậc của đời sống: sinh-diệt, sắc-không, nếm trải-cứu độ… Trong ánh sáng lộng lẫy ấy, bạn đọc được chứng kiến một cậu bé trần truồng mang khuôn mặt “nhân loại lớn” ra đi tìm đến những chân trời khác: 

 

Đôi mắt đôi bàn tay đôi bàn chân dương vật như một loài quả lạ

sinh ra từ một loài hoa lạ lúc liểng trên một vòm cây lạ

lớn chín rụng trong một chuyển động lạ

lượm hái bởi một bàn tay lạ

Trong một mùa lạ ngày lạ thời khắc lạ”.

 

Tôi cũng nhận thấy vòm cây ấy có đường biên khá đậm nét và cách biệt với thế giới bên ngoài. Phía bên ngoài đường biên của cơn mưa ánh sáng chính là những vực sâu, bóng tối thẳm dày: 

 

Những cánh cửa mở tối và sâu như vực thẳm

Như một cái hang đầy nước và khí lạnh

Đêm nào cũng chập chờn nguyện cầu một ngọn đèn một ngọn đuốc

Để rọi sáng để sưởi ấm để chảy đi”.

 

Vòm cây ánh sáng được Lê Ngân Hằng đặt trên nền thẫm đen mờ mịt càng làm gia tăng sự tương phản, tạo thêm ấn tượng về một cõi sống, cõi thơ tuyệt đẹp và huyền hoặc của chị.

 

Orient – Trên những vòm cây” được Lê Ngân Hằng viết bằng bút pháp hiện đại, có sử dụng một số thủ pháp của hậu hiện đại, như phân mảnh, dung hợp, xoá nhòa ranh giới giữa trung tâm và ngoại biên… Nhà thơ đã giữ được cảm xúc mạnh, căng tràn từ đầu đến kết thúc tập thơ. Ngôn ngữ thơ khá tinh lọc cùng nhịp điệu nhanh, hối thúc tạo cho tập thơ sức lôi cuốn đặc biệt. Tuy vậy, khi nhà thơ mải theo đuổi mạch cảm xúc, một số câu thơ vẫn có vẻ rậm lời. Ví dụ: 

 

Có phải vì thế mà đến giờ nhập quan nơi khu vườn yêu dấu xa xưa trở về trên đỉnh những vòm cây vẫn sáng hân hoan lời mời gọi vẫn hân hoan lời chào quyến rũ vẫn hân hoan bất tận” (phần 4, khúc thứ 10).

 

Mặc dù điều này không hề ảnh hưởng tới cảm nhận của tôi về vẻ đẹp và hấp lực của “Orient – Trên những vòm cây”, song lại là một cản trở không nhỏ khi tôi đọc tập thơ “Harvest – mùa màng đọc lại nỗi đau” của chị. Ở tập thơ sau này, trừ một số bài thơ vẫn giữ được phong độ như trong “Orient – Trên những vòm cây”, còn lại, tôi cảm nhận ngôn ngữ thơ chưa được trau truốt dù nguồn cảm xúc đã đủ chín và mạnh mẽ.

 

Cơn mưa ánh sáng trong “Orient – Trên những vòm cây” của nhà thơ Lê Ngân Hằng đã ngấm xuống cánh đồng thế gian, nơi đất đai luôn khô hạn và bạc màu bởi cái ác, cái xấu xa, những thói hư tật xấu của con người. Tập thơ như một lời nhắc nhở mọi người, hãy mở cửa tâm hồn mình ra để được chiếu sáng, được yêu thương. “Orient – Trên những vòm cây” cũng nhắc tôi nhớ lời Thánh Gioan trong Thánh Kinh: “Ai yêu thương anh em mình thì ở trong ánh sáng[6]. Tập thơ ra đời đã 10 năm và luôn nằm trong “bộ sưu tập” của những người yêu thơ. Tôi đọc tập thơ này liền mạch, khó buông rời bởi “cơn mưa ánh sáng” ấy mê dụ và cuốn hút tôi đi rất mạnh. 

 

Mỗi bài thơ luôn có một đời sống lạ kỳ và yên tĩnh. Nó đánh thức điều gì đó còn khuất lấp, trong một khoảng đồng điệu mà yếu tố khách quan không ngăn cản được.”[7]. Tâm sự ấy của nhà thơ Lê Ngân Hằng cũng hé mở thêm một cánh cửa để người đọc dễ dàng hơn khi tìm vào thế giới với những “vòm cây” lạ lùng của chị.

 

3/2016


__________________

[1] Báo điện tử Vnexpress, 9/3/2007.

 [2] Luce Irigaray (sinh năm 1930): nhà nữ quyền, triết gia, nhà ngôn ngữ học, nhà ngôn ngữ tâm lý, nhà phân tâm học, nhà lý luận văn hóa người Pháp gốc Bỉ.

(Nguồn:https://en.wikipedia.org/wiki/Luce_Irigaray)

 [3] Jean Lacroix  (1900 -  1986): triết gia và nhà viết tiểu luận người Pháp.

(Nguồn:https://www.oxfordreference.com/view/10.1093/oi/authority.20110803100046915)

 [4]  Friedrich Nietzsche (1844 – 1900): triết gia nhà phê bình văn hóa, nhà soạn nhạc, nhà thơ, nhà văn và nhà ngữ văn học người Đức.

(Nguồn:https://en.wikipedia.org/wiki/Friedrich_Nietzsche)

 [5] “Sách Lễ Rôma”, Uỷ Ban Phụng Tự - HĐGMVN, 308.

 [6] “Thánh kinh”, (1 Gioan 2, 10).

 [7] Báo điện tử Vnexpress, 9/3/2007.

 


 



 

 

 

 

 


BÀI KHÁC
1 2 3 

image advertisement
image advertisement
image advertisement




























Thiết kế bởi VNPT | Quản trị