Cảm thức thiền trong thơ Mai Văn Phấn (Luận văn thạc sĩ) – Lê Thị Hương

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO    UBND TỈNH THANH HÓA

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC

 

 

 

 

CẢM THỨC THIỀN TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN

 

 

Lê Thị Hương

Người hướng dẫn khoa học: PGSTS Hỏa Diệu Thúy

 

 

 

PGS TS Hỏa Diệu Thúy (phải) và Ths Lê Thị Hương

 

 

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC VIỆT NAM

Thanh Hóa, 2020

 

 

MỤC LỤC

 

 

A. PHẦN MỞ ĐẦU 

 

1. Lý do chọn đề tài

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu      

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu      

4. Mục tiêu nghiên cứu     

5. Phương pháp nghiên cứu       

6. Đóng góp của luận văn 

7. Bố cục của luận văn     

 

B. PHẦN NỘI DUNG

 

Chương 1: VỀ NHÀ THƠ MAI VĂN PHẤN VÀ “LƯƠNG DUYÊN” VỚI THIỀN    

 

1.1. Mai Văn Phấn - Nhà thơ với khát vọng “vượt thoát”

1.2. Mai Văn Phấn- Lương duyên với Thiền     

1.2.1. Quan niệm về “Thiền”        

1.2.2. “Thiền” trong văn học Việt Nam   

1.2.3. “Thiền” trong thơ Mai Văn Phấn như là mối lương duyên

 

Chương 2. CẢM THỨC THIỀN TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG

 

2.1. “Nhân duyên” tạo nên vẻ đẹp hài hòa của thế giới        

2.1.1. Mọi sự tồn tại đều có “nhân duyên”        

2.1.2. Những chiêm ngẫm về các mối quan hệ trong “nhân duyên” 

2.2. Xây dựng triết lý hạnh phúc theo tư tưởng “buông bỏ”, “giải thoát” thuận theo tự nhiên     

2.2.1. “Buông bỏ”, thuận theo tự nhiên sẽ thấy bình an, tự tại         

2.2.2. Hạnh phúc trong sự sẻ chia, thương yêu, hòa ái

2.2.3. Hạnh phúc trong an nhiên, khiêm cung trước vạn vật muôn loài    

 

Chương 3: “THIỀN” TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN HÌNH THỨC

 

3.1. Hình thức ngắn gọn, tối giản của bài thơ, dòng thơ      

3.1.1. Bài thơ có cấu trúc tối giản

3.1.2. Dạng thức câu vắt dòng    

3.2. Cách diễn đạt giàu tính ám dụ và biểu tượng          

3.2.1. Diễn đạt bằng hình thức ám dụ    

3.2.2. Cách diễn đạt giàu tính biểu tượng        

3.3. Tổ chức ngôn từ đậm sắc thái Thiền         

3.3.1. Sử dụng ngôn ngữ Thiền với mật độ đáng kể      

3.3.2. Ngôn ngữ siêu thực nhưng đậm triết lí tôn giáo Thiền   

 

C. KẾT LUẬN     

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO     

 

 

 

 

A. PHẦN MỞ ĐẦU

 

 

1. Lý do chọn đề tài

 

1.1. Mai Văn Phấn hiện là một trong số những nhà thơ đương đại tạo được sự chú ý của dư luận độc giả hiện nay trên diễn đàn thơ Việt Nam. Ông có thơ dịch ra tới 30 thứ tiếng, như: Thụy Điển, Niu Di-lân, Anh, Mỹ, Ca-na-đa, Ô-xtrây-li-a, Hàn Quốc...  Với 16 tập thơ và 1 tập tiểu luận phê bình in trong nước, có 21 tập in ở nước ngoài,  Mai Văn Phấn còn là diễn giả về thơ ở nhiều giảng đường đại học Hàn Quốc. Ông từng vinh dự nhận giải thưởng Cikada 2017 của Thụy Điển (giải thưởng sáng lập năm 2004 dành cho các nhà thơ Đông Á), giải thưởng của Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Hoàng gia Cộng hòa Serbia 2019, giải thưởng của Hiệp hội Dịch giả văn học Cộng hòa Montenegro 2020...

 

1.2. Thơ Mai Văn Phấn là thứ thơ “tạo sinh” (mượn chữ của Hồ Thế Hà: Thơ tạo sinh nghĩa Mai Văn Phấn). Thứ thơ ấy không thể đọc một lần, thậm chí, “đọc đôi ba lần cũng như chưa đọc”. Mai Văn Phấn từng bộc lộ nhu cầu bứt thoát làm mới ngòi bút của mình: “Thật kinh hãi phải ngắm nhìn một nghệ sỹ cứ đứng mãi một chỗ mà biểu diễn quá nhiều lần một tiết mục tới gần như vô cảm (…) Quá trình vượt thoát khỏi cá tính chính là quá trình vong thân (…) Truyền thống không chỉ đơn thuần là sự kế thừa, nó cũng liên tục là những vong thân. Nói cách khác, đó là quá trình sáng tạo để tìm đến những giá trị cao hơn mang tính dân tộc”[33; tr 226]. Tư tưởng sáng tạo ấy đã tạo nên nguồn mạch luôn luôn mới từ cả cấu trúc hình thức ngôn từ đến nội dung tư tưởng khiến thơ Mai Văn Phấn giống như một quần thể kiến trúc ngôn từ vừa lộng lẫy vừa bí ẩn, vừa quen thuộc vừa lạ lẫm. Thơ ấy kích thích sự tò mò, song, cũng dễ làm nản lòng những cách đọc dễ dãi. Vì vậy, khó hi vọng có thể khám phá hết, khám phá xong thơ ấy một lần.

 

1.3. Trong nhiều phương diện gây chú ý của thơ Mai Văn Phấn, người đọc dễ ấn tượng và bị cám dỗ trước vẻ thanh tĩnh, trong trẻo nhưng thâm sâu từ nội dung đến hình thức của thơ ông. Đọc những bài thơ ấy có cảm giác về một thế giới an hòa, ẩn đằng sau sự lặng lẽ, thanh tao là những trầm tư, suy ngẫm về bản chất và những quy luật của vạn vật trong đó có con người. Điều này rất gần với biểu hiện của triết lý “Thiền” trong phật giáo với tư tưởng gạt bỏ tạp niệm để tập trung cho điều cốt lõi sáng suốt nhất. Biểu hiện vừa rất gần gũi vừa rất mới mẻ này đã làm nên sức hấp dẫn khi tiếp cận thơ Mai Văn Phấn.

 

1.4. Là một giáo viên giảng dạy bộ môn văn trong nhà trường phổ thông, mục đích tìm hiểu văn chương đương đại nhằm đáp ứng mục tiêu cải cách giáo dục “mở” hiện nay trong việc lựa chọn tác giả và tác phẩm để giảng dạy. Việc lựa chọn thơ của Mai Văn Phấn - tác giả đang gây chú ý trên văn đàn Việt Nam sẽ đáp ứng mục tiêu sư phạm này.

 

Xuất phát từ những cơ sở lí luận và thực tiễn trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Cảm thức thiền trong thơ Mai Văn Phấn”. Chọn đề tài, người viết hy vọng sẽ khám phá thêm về những yếu tố nhân sinh quan, thế giới quan của nhà thơ, đồng thời giúp người đọc hiểu thêm một khía cạnh mới trong nhận thức khám phá thế giới của một hồn thơ đầy sáng tạo.

 

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu

 

Mai Văn Phấn thuộc nhóm nhà thơ luôn ở vị trí tiên phong theo hướng đổi mới tư duy thẩm mĩ thơ. Hành trình thơ Mai Văn Phấn là hành trình đi từ nhận thức đến nỗ lực đổi mới phương thức thể hiện. Đó là khát vọng mãnh liệt của một chủ thức đi tìm cái mới, cái đẹp trong cõi thiêng thi ca.Trong bài Mai Văn Phấn và thi pháp mộng du xuyên thế giới tác giả  Đỗ Minh Tuấn viết: “Mai Văn Phấn khước từ sự sàm sỡ của văn hóa quảng trường để đòi hỏi một nghi lễ cho sự đối mặt cùng cái cái mới. Anh muốn những ai bước vào thế giới của thơ anh cần tuân thủ những quy ước, những luật chơi”[33; tr137]. Không phải ngẫu nhiên, thơ Mai Văn Phấn luôn gây chú ý với độc giả yêu thơ và trở thành đối tượng được quan tâm của giới nghiên cứu. Luận văn sẽ hệ thống các công trình, bài viết về thơ Mai Văn Phấn theo hai hướng nghiên cứu sau:

 

2.1. Những bài viết, công trình nghiên cứu chung về thơ Mai Văn Phấn

 

Có thể coi Hội thảo thơ mang tên “Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn, khác biệt và thành công” tổ chức tháng 5/2011 tại Hải Phòng là cuộc ra mắt rầm rộ các bài viết nghiên cứu về tác giả, tác phẩm thơ Mai Văn Phấn.

 

Có thể nhận thấy ý kiến chung của các tác giả bài viết khi khẳng định sự dấn thân vào niềm đam mê sáng tạo của tác giả. Trong bài mở đầu hội thảo nhà văn Đình Kính khẳng định: “Mai Văn thơ Phấn là nhà tiên phong sáng tạo theo hướng đổi mới, cách tân, định hình tư duy thẩm mĩ mới và anh đã được đánh giá cao (…) ngoài sự tài hoa, đam mê, phông văn hóa, tri thức, sự kiên trì nhẫn nại trong sáng tạo, anh còn là nhà thơ dũng cảm và giàu bản lĩnh” [33; tr 6].

 

Cao Năm cũng khẳng định tố chất nghệ sĩ của nhà thơ và không dè dặt trong việc đề cao bản lĩnh sáng tạo  của tác giả: “Mai Văn Phấn dường như sinh ra là để năng động và sáng tạo, sáng tạo không ngừng, con người hiện thân của sự sáng tạo!” [33; tr.33].

 

Đào Huy Hiệp trong bài Mai Văn Phấn - Những chặng đường sáng tạo thơ  cũng cùng quan điểm: “Mai Văn Phấn đã cắm một cột mốc thơ đáng ghi nhận trên hành trình chinh phục ngôi đền thơ hiện đại. Đến nay đã ngót 30 năm. Chặng đường thơ sắp tới của anh còn dài và xa trước mặt. Mà cột mốc hôm nay đã đánh dấu một trưởng thành” [33; tr.75].

 

Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến thán phục: “Nếu có nhà thơ nào đó đang lặng lẽ luôn tự đổi mới thơ mình và phá vỡ các nhịp điệu mòn cũ trong các thể nghiệm thơ hôm nay, theo tôi, người đó phải là Mai Văn Phấn. Từ trữ - tình – cổ - điển, anh “bay” thẳng một mạch vào hậu - hiện - đại, rồi từ đó “lao” vào vòng xoáy đầy ấn tượng của thơ - cách - tân” [ 33 ; tr.420].

 

Nhà thơ Đỗ Quyên trong bài tham luận của mình quả quyết: “Những sáng tạo của Mai Văn Phấn đã đặt ông vào vị trí những nhà thơ hàng đầu của nền thơ đương đại Việt Nam” [ 33 ; tr.130]. Nguyễn Thanh Tâm với Lập thể của ký ức và tưởng tượng xuyên qua “Bầu trời không mái che” cho rằng: “Thơ Mai Văn Phấn quyến luyến người đọc không phải bằng sự mượt mà du dương của vần điệu. Sức hấp dẫn của thơ anh nằm ở thế năng trong cấu trúc ngôn từ và hình ảnh. Đó chính là những lập thể của kí ức và tưởng tượng, những chồng chất, đan cài, lồng hiện của hình ảnh, hình tượng thông qua các thủ pháp nghệ thuật đã được dụng công gia cường. Như một tình nhân khó tính, thơ Mai Văn Phấn khiến người ta mất nhiều tâm sức để chinh phục và khi đã bén duyên thì không thể nào dứt ra được”.

 

Trần Thiện Khanh đề cao tinh thần tiên phong trong cách tân thơ của Mai Văn Phấn và những kết quả ông đã đạt được: “Có thể nói, Mai Văn Phấn thuộc số ít nhà thơ có tham vọng tạo dựng cho thi ca một diện mạo mới từ và trong nhịp điệu đời sống hiện đại. Ông cổ súy cho sự đa dạng về khuynh hướng sáng tác, cởi mở và chấp nhận mọi sự thể nghiệm chuyển đổi” [33 ; tr.501].

 

Trong bài Thơ là ngôi lời, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên có cái nhìn xuyên suốt hành trình thơ Mai Văn Phấn để ghi nhận một thi tài: “Từ những bài thơ đầu tiên anh đã muốn khác, và khác. Vẫn trong cái vẻ lục bát nhịp nhàng muốn thành cổ điển, người thơ đặt vào đấy một sự cân xứng trầm tĩnh khá là lạ nếu ta biết khi anh xuất hiện đang ở tuổi trẻ. Câu thơ sáu tám trong cái chừng mực của khuôn hình nhưng chữ dung và nhịp thơ của người viết đã chất chứa một sự thăm dò để bung phá. Anh là một người làm thơ chững chạc ngay từ đầu, có ý thức ngay từ đầu… Và quả thật, mỗi tập thơ của Mai Văn Phấn ra đời là một sự khác. Nó được đẩy tới trên con đường đi tìm. Quyết liệt, nhẫn nại, nhà thơ đưa thơ  vào những ngõ ngách tâm hồn mình và những thế trận, ma trận chữ”.

 

Văn Giá trong bài Thơ sinh ra để nói về niềm hy vọng của con người cũng có đánh giá tổng thể về cống hiến của thơ Mai Văn Phấn: “Trong tính toàn thể nhất quán, thơ Mai Văn Phấn đã cất lên những niềm hy vọng mãnh liệt và cảm động của con người. hy vọng làm nên sự sống, thăng hoa sự sống. tắt hy vọng nghĩa là sự sống cũng lụi tàn. Và hy vọng cũng chính là sự sống. Biểu hiện thì đa dạng, nhưng đích đến quy chụm. Mai Văn Phấn đã thi triển tư tưởng này một cách nhất quán, nồng nhiệt, càng về sau càng sáng tỏ”. Nhà nghiên cứu còn cảm nhận: “Toàn bộ thơ Mai Văn Phấn đã dựng nên một thế giới phồn sinh và hóa sinh bất định (…) Với người nghệ sĩ này, một xác tín hiện lên thật nhất quán: còn sự sống là còn phồn sinh và hóa sinh bất định; và còn phồn sinh hóa sinh bất định là còn khiến con người ta có quyền hy vọng vào những gì đẹp đẽ và nhân bản nhất. Thơ Mai Văn Phấn hát ca niềm hy vọng không bao giờ ngơi nghỉ ở con người”[33; tr 529]

 

Với bài viết Thơ tạo sinh nghĩa Mai Văn Phấn, Hồ Thế Hà đã gọi ra phẩm chất đặc biệt của thơ Mai Văn Phấn ở hai bình diện: thế giới hình tượng và khả năng tạo sinh nghĩa. Theo Hồ Thế Hà “Ý thức đổi mới thi ca luôn thường trực trong từng cảm giác bé nhỏ của chính nguời thơ mà anh tự gọi là “vong thân”  tức phủ định bản ngã thi sĩ trước đó của mình để được tồn tại trong một trạng thái tình cảm luôn luôn mới và trong một trạng thái ngôn ngữ luôn luôn khác – nghĩa là luôn luôn tạo sinh nghĩa – đã làm cho thế giới thơ Mai Văn Phấn không ngừng vận động…”.  Nhà nghiên cứu cũng khẳng định “Mai Văn Phấn là một hiện tượng riêng của nền thơ đương đại Việt Nam – mà là một hiện tượng riêng, liên tục lấp lánh và mới lạ”. [33,tr 223…] Tuy các bài viết chưa thể bao quát hết các phương diện nội dung, nghệ thuật cũng như sự nghiệp thơ Mai Văn Phấn. Nhưng nhìn chung  đều tập chung thể hiện thái độ yêu mến và trân trọng thơ anh. Qua những nhận định chung ta thấy hiện lên một Mai Văn Phấn bản lĩnh trong sáng tác thơ ngay từ buổi đầu tiên xuất hiện, và luôn luôn khao khát và không ngừng đổi mới, sáng tạo trên hành trình đi tìm cái đẹp cho thơ. Đối với Mai Văn Phấn, mỗi bài thơ là một dự phóng, một cuộc lên đường tìm đến những giá trị mới.

 

Hai tác giả Ngô Hương Giang và Nguyễn Thanh Tâm có một công trình lên tới trăm trang: Mai Văn phấn và hành trình vào cõi khác. Với định hướng nghiên cứu và lí giải về Mai Văn Phấn như một “mẫu hình nhân học”, công trình chia làm ba chương: chương một Chú giải về thơ Mai Văn Phấn, các tác giả giải thích những vấn đề khúc mắc trong các tập thơ đã xuất bản của nhà thơ; chương hai  Mai Văn Phấn và sự chuyển dịch văn hóa qua thơ. Trong chương này tác giả đi sâu vào lí giải nhà thơ như một hiện tượng từ góc nhìn quan niệm sáng tạo và sự diễn giải kinh nghiệm tri thức bằng lời; chương ba Thơ Mai Văn Phấn trong dòng chảy thơ Việt Nam đương đại. Các tác giả đã khái quát hành trình thơ Mai Văn Phấn từ những tác phẩm đầu tiên qua những tìm tòi, sáng tạo để  luôn mới, luôn khác. 

 

2.2. Các luận văn, những bài viết, công trình liên quan trực tiếp đến đề tài

 

Tính “thiền”, yếu tố “phật giáo” trong thơ Mai Văn Phấn là một hiện hữu. Đã có các bài viết quan tâm đến vấn đề này. Chẳng hạn, nhà thơ Dương Kiều Minh với cuộc trở về “Tâm không trong Bầu trời không mái che” nhấn mạnh đến sự hồi sinh cùng biểu tượng Phật giáo trong thơ Mai Văn Phấn: “Bông cúc hiện ra như ánh sáng của sự giác ngộ, của giải thoát trên lối về độc đáo của cuộc kiếm tìm”[ 33  ;23].

 

Nhà văn Đặng Thân trong “Hành trình cỏ cây xuyên tâm linh” cũng cảm nhận những hình ảnh, biểu tượng hoa trong triết lý phật giáo: hoa sen biểu tượng Phật giáo, bông cúc biểu tượng cho một thế giới tâm linh thanh sạch, đặc biệt cỏ lại là “hình ảnh cội rễ tâm linh Mai Văn Phấn”[33 ;tr 65].

 

Nhà thơ Đỗ Minh Tuấn trong bài Mai Văn Phấn và thi pháp mộng du xuyên thế giới đã đánh giá: “Những bài hay nhất của anh đã thể hiện cuộc luân hồi thi ca và tái sinh thi ca trong cõi vô thường tam thiên thế giới của Phật giáo thấm sâu vào cảm xúc của thi nhân” [ 33 ; tr 89].

 

Tác giả Yên Nguyên còn gọi ra “kinh mạch tôn giáo” trong thơ của Mai Văn Phấn. Tác giả cho rằng: “…tôn giáo trở thành nơi ẩn nấp tinh thần cho nhà thơ trong sự cưỡng bức của đời sống. Trường hợp Mai Văn Phấn hoàn toàn khác, tôn giáo là đức tin chứ không phải liều thuốc tâm thần. Không có một libido nào khiến tôn giáo phải hiện diện trong thơ Mai Văn Phấn. Nếu người đọc muốn thỏa mãn sự tò mò về một hố sâu tăm tối sức mùi ẩn ức tinh thần tất sẽ thất vọng” (Kinh mạch tôn giáo trong thơ Mai văn Phấn)

 

Vũ Thị Thảo trong luận văn thạc sỹ “Đặc điểm nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn” đã dành một luận điểm thống kê các hình ảnh biểu tượng tâm linh và kết luận: “Ý niệm tâm linh giống như luồng ánh sáng linh thiêng soi rọi, phủ ngập lộ trình thơ Mai Văn Phấn” [ 66  ; tr 55].

 

Luận văn của Mai Thị Thảo “Cảm hứng tôn giáo trong thơ Mai Văn Phấn” có lẽ là công trình đề cập trực tiếp đến yếu tố tôn giáo hơn cả. Tác giả luận văn cho rằng “Cảm hứng tôn giáo trong thơ Mai văn Phấn chính là một cách nhìn mới, nhận thức mới trong sáng tác của ông, đã tạo nên những sắc màu riêng biệt thể hiện quan niệm, cách khai thác độc đáo về một thế giới bên ngoài thế giới thực tại. Hay nói đúng hơn, chính là cách nhà thơ tìm đến với một thực tại khác mà ở đó có sự xen kẽ giữa hư và thực. Qua đó, bộc lộ nỗ lực của thi sĩ trong việc kiến tạo một thế giới xuất phát từ điểm nhìn của đời sống thực tại” [65; tr.2]. Từ quan điểm ấy, tác giả luận văn đã khảo sát cảm hứng tôn giáo trong thơ Mai Văn Phấn qua hai phương diện: Thế giới hình tượng và Các phương tiện nghệ thuật. Kết quả nghiên cứu của luận văn là một kênh tham khảo bổ ích cho luận văn của chúng tôi.

 

Như vậy, thơ Mai Văn Phấn đã trở thành hiện tượng gây chú ý với giới nghiên cứu nói riêng, độc giả yêu thơ nói chung. Thơ Mai Văn Phấn gây chú ý ở nhiều phương diện và các bài viết hầu như đã chạm tới những nét ấn tượng nhất của thơ ông. Tuy nhiên, theo thống kê của chúng tôi, hiện vẫn chưa có công trình chuyên biệt nào tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề Cảm thức thiền trong thơ Mai Văn Phấn. Luận văn của chúng tôi muốn góp thêm một cái nhìn mới, một tiếng nói khoa học để soi chiếu thành tựu thơ của một cây bút đang nổi tiếng trên diễn đàn thơ Việt Nam.

 

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

 

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là “Cảm thức Thiền trong thơ Mai Văn Phấn”.

Phạm vi nghiên cứu: “Cảm thức” là điều nhận thức được bằng cảm quan. Thơ Mai Văn Phấn bộc lộ cảm thức Thiền với ảnh hưởng của triết lý Phật giáo rõ nét. Luận văn sẽ tìm hiểu, nghiên cứu biểu hiện này ở cả phương diện nội dung và hình thức tái hiện của tác phẩm.

 

Luận văn chọn tập trung khảo sát ba tập thơ: “hoa giấu mặt”, “thả”, “Tĩnh lặng” là những tập thơ bộc lộ yếu tố Thiền nổi bật nhất. Tuy nhiên, cảm thức Thiền dương như đã trở thành tư duy nghệ thuật trong thơ của Mai Văn Phấn và để những kết luận có sức khát quát, trong quá trình nghiên cứu, luận văn sẽ mở rộng khảo sát thêm những tập thơ khác của tác giả.

 

4. Mục tiêu nghiên cứu

 

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là tìm hiểu, nghiên cứu biểu hiện của cảm thức Thiền trong trong thơ Mai Văn Phấn, qua đó, góp phần đánh giá sức sáng tạo nghệ thuật của cây bút giàu nội lực này.

 

5. Phương pháp nghiên cứu

 

Để giải quyết vấn đề, luận văn sẽ vận dụng một số các phương pháp nghiên cứu chính sau:

 

- Phương pháp thống kê, phân loại: Với đề tài này, thống kê không chỉ được sử dụng như một thao tác khoa học mà trở thành tư duy phương pháp luận trong đánh giá, khái quát vấn đề.

 

- Phương pháp hệ thống: Phương pháp hệ thống giúp tạo nên tính chặt chẽ, lô gic trong triển khai vấn đề và cấu trúc văn bản. 

 

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp này sẽ tạo nên sức hấp dẫn cho luận văn. Những phân tích, cảm thụ văn học và những đánh giá khái quát sẽ làm tăng sức thuyết phục cho những luận điểm của luận văn.

 

Ngoài ra, luận văn sẽ sử dụng thêm một số phương pháp nghiên cứu khác, như: so sánh, đối chiếu, phương pháp nghiên cứu liên ngành để tăng cường tính khách quan, khoa học và sức hấp dẫn cho kết quả nghiên cứu.

 

6. Đóng góp của luận văn

 

Luận văn chọn hướng tiếp cận mới: Cảm thức Thiền – một khái niệm mang yếu tố Phật giáo để tìm hiểu, nghiên cứu thơ Mai Văn Phấn. Từ góc độ tiếp cận này, luận văn hy vọng sẽ khám phá thêm những giá trị độc đáo trong tác phẩm của một nhà thơ có tư tưởng cách tân của nền thơ Việt Nam đương đại.

 

7. Bố cục của luận văn

 

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bố cục thành ba chương nội dung:

 

Chương 1: Về nhà thơ Mai Văn Phấn và “lương duyên” với Thiền

 

Chương 2. Cảm thức Thiền trong thơ Mai Văn Phấn nhìn từ phương diện nội dung

 

Chương 3.  Thiền trong thơ Mai Văn Phấn nhìn từ phương diện hình thức

 

 

 

 

B. PHẦN NỘI DUNG

 

 

 

 

Chương 1:

VỀ NHÀ THƠ MAI VĂN PHẤN VÀ “LƯƠNG DUYÊN” VỚI THIỀN

 

 

1.1. Mai Văn Phấn - Nhà thơ với khát vọng “vượt thoát”

 

Nhà thơ Mai Văn Phấn sinh năm 1955 tại Kim Sơn, Ninh Bình. Năm 1974, ông nhập ngũ, năm 1981 xuất ngũ rồi theo học ngành Ngữ học và Văn hóa Nga tại trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội. Năm 1983, ông tiếp tục tu nghiệp tại Trường Đại học sư phạm Maxim Gorky, Minsk (Thủ đô của Byelorussian SSR).

 

Ngay từ thời còn ngồi trên ghế nhà trường, Mai Văn Phấn đã nổi tiếng là học trò giỏi văn. Thời ở trong quân ngũ, lần đầu tiên gửi thơ đăng báo, bài Hoa xoan gửi báo Phụ nữ Việt Nam đã được đăng ngay. Cứ ngỡ đó sẽ là “cú huých” để chàng trai đam mê văn chương hào hứng dấn bước vào con đường văn chương nghệ thuật. Nhưng dường như khát vọng của chàng trai đam mê thơ kia lớn hơn người ta tưởng. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự, anh bước thẳng vào giảng đường đại học và tu nghiệp ở một chuyên ngành liên quan đến ba thứ: ngoại ngữ, ngôn ngữ và văn hóa, tiếp đó, lại sang trời Tây du học để mang tầm mắt… Mai văn Phấn đã dành 16 năm cho việc tự đào tạo và bổ khuyết những gì mình cần, 16 năm ẩn mình tích lũy và thâu nạp để chuẩn bị cho hành trình “vượt thoát”. 16 năm im lặng, con bướm ngài thu trong kén để mài rũa để rồi đến một ngày nó tung cánh ra trời xanh trong sự ngỡ ngàng.

 

Đó là ngày chùm thơ ba bài Thuốc đắng, Thu về, Em gái đi lấy chồng xuất hiện trên Tạp chí Cửa biển của thành phố cảng và một năm sau đó Thuốc đắng nhận giải thưởng cao nhất của Văn nghệ thành phố (giải nhì không có giải nhất). Liên tiếp hai năm sau, Mai Văn Phấn đạt giải nhì (không có giải nhất) hai cuộc thi thơ trên báo Người Hà Hội và tuần báo Văn nghệ. Kể cũng là một cuộc ra mắt đầy ấn tượng!

 

Song, dường như điều đặc biệt còn ở phía trước, khi các tập thơ của Mai Văn Phấn lần lượt xuất hiện: “Giọt nắng” (1992), “Gọi xanh” (1995), “Cầu nguyện ban mai”(1997), “Nghi lễ nhận tên”(1999), “Người cùng thời”(trường ca, 1999), “Vách nước”(2003), “Hôm sau”(2009), “và đột nhiên gió thổi” (2009), “Bầu trời không mái che” (2010) v.v... giới yêu thơ xứ Cảng ngỡ ngàng. Hóa ra, Mai Văn Phấn đâu có “bình thường” như người ta tưởng. “Sáng tạo là quá trình vượt thoát khỏi cá tính”, như sau này Mai Văn Phấn từng thổ lộ, mục đích, động cơ mỗi lần tác giả lộ diện trên thi đàn là một lần “vượt thoát” chính mình hôm qua. Nhà thơ có lần bày tỏ: “Thật kinh hãi khi phải ngắm nhìn một nghệ sỹ cứ đứng mãi một chỗ mà biểu diễn quá nhiều lần một tiết mục tới gần như vô cảm (…) Quá trình vượt thoát khỏi cá tính chính là quá trình vong thân. Sau mỗi lần ượt thoát, có cảm giác mình vừa may mắn tỉnh ngộ, tái sinh, hay được đầu thai vào một thân xác khác” [49, tr 400]. Lần khác, Mai Văn Phấn bộc lộ khát vọng: “Thật kỳ diệu nếu chỉ bằng sự giản dị mà nói được những vấn đề lớn lao và mới mẻ” (trả lời phỏng vấn báo Thể thao & Văn hóa, 2004). Trong Hội thảo tổ chức tại Hải Phòng năm 2011, giới nghiên cứu sôi nổi nhắc tới những phạm trù “vong thân”, “vượt thoát” trong hành trình sáng tạo của Mai Văn Phấn và xu hướng ghi nhận, khẳng định những nỗ lực ấy của tác giả.  Nhà thơ Bằng Việt, chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội hào hứng bộc lộ: “Tôi rất thích quan niệm “vượt thoát” mà Mai Văn Phấn phát biểu trong một cuộc phỏng vấn. Đúng là nhà thơ phải biết tự làm mới mình bằng cách vượt thoát. Dám vượt thoát cũng đau đớn và chật vật lắm, không dễ dàng gì…”[ 49, tr.15]. Cao Năm một người bạn thơ tại Hải Phòng thú nhận: “Bên cạnh những bài thơ kết hợp được truyền thống với tâm thức, thì không ít bài thơ của anh rơi sa vào rắc rối, bí hiểm, khó hiểu, một số bài như thách đố người đọc”[33; tr.31]. Tuy nhiên, ngay sau đấy, cũng chính người bạn này ngẫm ngợi: “…Mai Văn Phấn không có những năm tự “lột xác” để chui ra khỏi cái vỏ cứng của truyền thống, vần điệu như chính anh giai đoạn 1995 về trước, và như nhiều người khác nữa hiện nay thì thi đàn Việt Nam hiện đại liệu có một giọng thơ Mai Văn Phấn riêng biệt và khá độc đáo như hiện nay?” [49; tr. 32]. Nhà thơ Thi Hoàng từng bộc lộ cùng một lúc những trạng thái đối lập khi đọc thơ Mai Văn Phấn: “Thương sự cách tân, nể sự cách, ghét sự cách tân, phục sự cách tân” [49; tr. 486].

 

Cũng ở Hội thảo này, nhà văn Đình Kính, chủ tịch Hội nhà văn Hải Phòng đánh giá: “Khi đánh giá Mai Văn Phấn, chúng tôi cho rằng ngoài sự tài hoa, đam mê, phông văn hóa, tri thức, sự kiên trì nhẫn nại trong sáng tạo, anh còn là nhà thơ dũng cảm và giàu bản lĩnh. Anh làm thơ như nghệ sỹ tự tin đi trên sợi dây mảnh, dù bên dưới là vực sâu hiểm trở, nhưng vẫn luôn tự tin rằng mình sẽ đến được đích” [33; tr. 10].

 

Có thể dẫn thêm nhận xét này của một nhà thơ, đồng thời là chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam – nhà thơ Hữu Thỉnh: “…Phấn phức hợp và kỳ khu. Phấn cầm roi ra lệnh cho các con chữ, Phấn đáo để chống lại sự nông cạn, cùn mòn. Chàng thử sức cả thơ ngắn và trường ca. Từ cách đặt tên bài đến chia đoạn, vắt câu, chỗ nào cũng tuân theo phương châm cách tân triệt để…”[ 33; tr. 588]

 Hiện Mai Văn Phấn đã xuất bản 33 cuốn thơ và một cuốn phê bình - tiểu luận, trong đó 21 cuốn xuất bản ở nước ngoài. Thơ ông đã được dịch ra 32 thứ tiếng đã hiện diện trong hơn 50 tuyển tập thơ và tạp chí quốc tế. Ông cũng từng nói chuyện thơ ở nhiều trường đại học Hàn Quốc.

 

Năm 2017, Mai Văn phấn giành giải thưởng văn học Cikada của Thụy Điển (Giải thưởng được sáng lập năm 2004 trao cho các nhà thơ Đông Á)

 

Năm 2012, tập thơ “Bầu trời không mái che” trở thành một trong 100 tập thơ bán chạy nhất trên trang website thương mại điện tử lớn nhất thế giới Amazoon. Tháng 6 năm 2014, Mai Văn Phấn có 2 tập thơ song ngữ Việt Anh và 1 tập thơ song ngữ Việt – Pháp vào top 10 trong 100 tập thơ châu Á bán chạy nhất trên Amazon.

 

Mai Văn Phấn  được xem là gương mặt thơ ca tiêu biểu của Việt Nam trong 20 năm qua bởi những nỗ lực cách tân không mệt mỏi. Ông là nhà thơ có ý thức học hỏi những nền thơ ca hiện đại đi trước, sẵn sàng thu nạp kỹ thuật của các trường phái, triết thuyết để thử nghiệm làm mới, làm khác biệt tác phẩm của mình. Thơ ông nghiêng về lý trí, điêu luyện về dùng chữ, tân kỳ trong áp dụng các kỹ thuật trường phái thơ ca khác nhau; xử lý hài hòa giữa thành tựu thơ ca truyền thống và sự cách tân hiện đại. Mai Văn Phấn đang hướng đến một giọng thơ Việt dựa trên quan điểm thẩm mỹ cá nhân độc lập. Mai Văn Phấn đã khẳng định được những bước đi vững chắc và táo bạo của mình trong lĩnh vực văn học nghệ thuật. Chính sự cống hiến hết mình cho văn học nghệ thuật nói chung, đặc biệt là thi ca, Mai Văn Phấn đang có một vị trí vững vàng trên thi đàn thơ Việt Nam hiện đại.

 

1.2. Lương duyên với Thiền

 

1.2.1. Quan niệm về “Thiền”

 

Nhắc đến Thiền, người ta nghĩ ngay tới một phương pháp tu hành trong đạo Phật, cụ thể là một phương pháp thực hành để luyện tâm trí được Đức Phật chia sẻ sau khi Ngài giác ngộ vào năm 35 tuổi. Sau đó, Phật giáo Đại Thừa đã hệ thống lại thành một trường phái Phật giáo được gọi là Thiền Tông (lấy thanh tịnh làm gốc, lấy việc ngồi yên lặng để ngẫm nghĩ đạo lý làm phép tu). Ngoài Phật giáo, Thiền còn có mặt trong nhiều tôn giáo khác như: Đạo giáo, Ki tô giáo.

 

Tuy nhiên, hiện có nhiều cách định nghĩa về Thiền: Từ điển Phật học Hán Việt của Phân Viện nghiên cứu Phật học xác định: “Thiền” là thuật ngữ Hán Việt được phiên âm từ chữ Dhyàna, trong tiếng Phạn từ Dhyàna là danh từ phái sinh từ gốc động từ √dhyā (hoặc √dhyai). Nguyên nghĩa của từ này là sự tư duy, tập trung lắng đọng, “suy nghĩ” hoặc “chiêm nghiệm”, chủ trương tập trung trí tuệ để suy nghĩ. Theo cách phát âm của chữ Trung Hoa là “Ch’an Na” mà ta đọc là “Thiền Na”, còn có các cách phiên âm Hán Việt khác như “Đà diễn na” hay “trì a na” dịch nghĩa là “Tịnh Lự” (Tịnh = Định; Lự = Tuệ nghĩa là đình chỉ các tư tưởng khác, chỉ chuyên chú suy nghĩ vào một cảnh), hay nói một cách khác là “Chiêm nghiệm trong tĩnh lặng” – tĩnh tâm (Từ điển Phật học Hán Việt của Phân Viện nghiên cứu Phật học, trang 1271). Từ điển Hán – Việt của Thiều Chửu giảng nghĩa: “Thiền” là một nhánh âm của từ “Thiện” có nghĩa là: “lặng nghĩ suy xét, đạo Phật lấy thanh tĩnh xét tỏ chân lý làm tôn chỉ nên gọi là Thiền”[ 15; tr. 439]. Từ điển Tiếng Việt (chủ biên Hoàng Phê) chiết tự ngắn gọn: “Thiền vốn có nghĩa là “tĩnh”, dùng để chỉ cái thuộc đạo Phật, nói chung. Đạo thiền, Cửa thiền”[35; tr .1192]. Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Long – Gia Huy chủ biên) cũng cùng nghĩa này: “Thiền – yên lặng, nghĩ ngợi: đạo thiền, tọa thiền, tham thiền” [35; tr. 990]. Theo Từ điển tiếng Anh Oxford, Thiền là sự thực hành suy tư sâu sắc trong tĩnh lặng để cho tâm người thực hành an tịnh. Từ điển Meriam – Webster thì đưa ra hai định nghĩa khác nhau: Thứ nhất, Thiền là ngâm mình trong sự trầm tư mặc tưởng hay sự phản tỉnh; Thứ 2, Thiền là tham dự vào việc luyện tâm với mục đích hướng đến sự tỉnh thức tâm linh ở một cấp độ cao. Theo từ điển Cambridge, Thiền là hoạt động hướng tới sự tập trung vào một đối tượng để được trầm tĩnh và buông xả. Cũng có ý kiến cho rằng: Thiền là thuật ngữ Hán - Việt, gọi đầy đủ là Thiền - na được phiên âm trong tiếng Phạn, là danh từ phái sinh từ gốc động từ. Có thể coi Thiền là sự kết hợp giữa thân thể và ý niệm trong thời gian - không gian hiện tại để nhận biết sự vật, hiện tượng và ý niệm. Thiền là để tĩnh tâm, gạt bỏ mọi tạp niệm để nhận thức bản ngã và thế giới xung quanh một cách đúng đắn, sáng suốt nhất.

 

Như vậy, dù là nghĩa chiết tự hay nghĩa diễn giải, “Thiền”đều được hiểu là tĩnh lặng, tập trung, suy xét, giác ngộ. Thiền xuất phát từ Phật giáo, mang tư tưởng cốt lõi của Phật giáo, vì vậy, Thiền trở thành biểu tượng Phật giáo, đồng nghĩa với Phật giáo: Cửa Thiền, Tu Thiền, Đạo Thiền. Khái niệm “Thiền” mà luận văn sử dụng sẽ theo tinh thần này, “Thiền” chính là Phật giáo. Song, có gì khác nhau giữa hai cách gọi “Phật” và “Thiền”? “Phật”,  dịch âm từ ngữ Sanskrit cổ nghĩa là: “giác ngộ” (thấy/ biết tất cả, không gì là không thấy/ biết, không lúc nào là không thấy/ biết. Đức Phật chính là người thấy/ biết tất cả - người “giác ngộ”. Thái tử Tất Đạt Đa sau khi “giác ngộ”, đạt đạo được gọi là đức phật Thích Ca Mâu Ni. Thiền là hành trình, là cách thức để đến “giác ngộ”, “Phật” là kết quả, “Thiền” là hành trình, để thành “Phật” phải “Thiền” và “Thiền” thành chính quả sẽ là “Phật”. Phật tính của Thiền chính là: tĩnh tại, khoan hòa, buông bỏ, tập trung, sâu sắc.

 

Tuy nhiên, luận văn không nghiên cứu toàn bộ tư tưởng của Phật giáo mà chỉ lấy “thiền” làm tư tưởng cốt lõi, với những biểu hiện phật tính của Thiền, như: tĩnh tại, khoan hòa, buông bỏ, tập trung, sâu sắc…

 

Luận văn  cũng sẽ lấy những đặc điểm này như là chỉ dẫn để khảo sát phẩm chất thơ Mai Văn Phấn. Bởi, từ tư duy đến trực giác, thơ Mai Văn Phấn bộc lộ dấu ấn Thiền rất rõ nét.

 

1.2.2. “Thiền” trong văn học Việt Nam

 

Đạo Phật có mặt ở Việt Nam từ sớm, đã từng là “Quốc đạo”, vì vậy, yếu tố Thiền hay Phật tính đã xuất hiện trong đời sống văn chương từ lâu. Văn học đậm sắc thái Phật giáo Thiền tông thời Lý - Trần giữ địa vị mở đầu nền văn học viết nước ta. Tiếng nói thi ca trong sáng, lạc quan với nền tảng tri thức thâm sâu đã tạo ra một mạch thiền ngầm luân lưu trong lòng văn học dân tộc:

 

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

(Ai bảo xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua sân trước một nhành mai)

Mãn Giác Thiền sư (1052 - 1096)

 

Hãy đọc bài thơ của Thiền sư Từ Đạo Hạnh (1072 – 1117) bàn về triết lý Có Không (Hữu Không) sâu thẳm tình yêu và tự tin trước cuộc sống vĩnh hằng:

 

“Tác hữu trần sa hữu

Vi không nhất thiết không

Hữu không như thủy nguyệt

Vật trước hữu không không.”

 

(Có thì có tự mảy may

Không thì cả thế gian này cũng không

Kìa xem bóng nguyệt lòng sông

Ai hay không có, có không là gì?)

 

 Nhìn hoa rơi mà không thấy xuân tàn, thấy được bước đi của thời gian nhưng không vì thế mà hoài tiếc quá khứ, vẫn nhìn về phía trước chủ động, vui vẻ đón nhận quy luật với tin thần “lạc tận”:

 

“Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai

Sự trục nhãn tiền quá

Lão tùng đầu thượng lai

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.”

 

(Xuân đi trăm hoa rụng

Xuân tới, trăm hoa cười

Trước mắt việc đi mãi

Trên đầu già đến rồi

Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua, sân trước một nhành mai.)

 

Chỉ là chuyện đói thì ăn, khát thì uống thôi mà Trần Nhân Tông (1258 – 1308), sư tổ của Thiền phái Trúc Lâm, đã chỉ ra cốt lõi sâu sắc của triết lý Thiền: 

 

“Cư trần lạc đạo thả tùy duyên,

Cơ tắc xan hề khốn tắc miên.

Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch,

Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.”

 

(Cư trần vui đạo hãy tùy duyên,

Đói cứ ăn no, mệt ngủ liền.

Báu sẵn trong nhà thôi khỏi kiếm,

Vô tâm trước cảnh hỏi gì thiền.)

“Cư Trần Lạc Đạo Phú”

 

Đó là thứ Thiền nhập thế, Thiền ngay trong cuộc sống thường hằng. Hãy sống cuộc sống vui vẻ, hồn nhiên như cỏ cây giữa đất trời. Với cái tâm trong sáng, không mưu cầu vụ lợi, không ganh đua tị hiềm, “vô tâm” cám dỗ thì đó chính là “của báu” sẵn trong nhà đâu phải tìm kiếm ở đâu? Giữ được lối sống ấy chính là “Cư Trần Lạc Đạo”, là Thiền. Đấng quân vương giàu trí tuệ và tài đức cũng là một tâm hồn thơ thật lãng mạn:

 

Bán song đăng ảnh mãn sàng thư,

Lộ trích thu đình dạ khí hư,

Thụy khởi châm thanh vô mích xứ,

Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ.

 

(Đèn song chếch bóng, sách đầy giường,

Đêm vắng, sân thu lác đác sương,

Thức dậy tiếng chày đâu chẳng biết,

Trên cành hoa quế, nguyệt lồng sương)

(Nguyệt)

 

Nhưng đó là vẻ lãng mạn thanh tao của bậc trí giả. Một mình  trong đêm thanh tĩnh, đọc sách quên cả thời gian, cho đến tận lúc trăng đã chếch bóng, đã nghe tiếng nhịp chày của nhà ai đó dậy sớm… Nhìn ra, “sân thu lác đác sương”, trên cành hoa quế “nguyệt lồng sương”! Một không gian thanh khiết được cảm nhận bởi một tâm hồn thanh khiết. Chất Thiền tạo nên cốt cách, tâm hồn bậc minh quân thi sỹ và chính cốt cách ấy, bản lĩnh tâm hồn ấy đã dẫn dắt dân tộc Việt tạo nên thời đại Đông A lừng lẫy trong lịch sử bốn ngàn năm.

 

Ở Nguyễn Trãi, ta thấy trong thơ có tất cả các cấp độ ảnh hưởng, các mức độ nông sâu của Thiền. Có nhiều bài Thiền ngữ, Thiền điển xuất hiện rất nhiều, nhất là  trong những  bài thơ đề vịnh danh lam, du chơi Phật tự, những bài xướng họa tặng tiễn cùng giới tu hành chẳng hạn bài Đề Đông Sơn tự:

 

“Quân thân nhất niệm cửu oanh hoài,

Giản quý lâm tàm túc nguyệt quai.

Tam thập dư niên trần cảnh mộng,

Sổ thanh đề điểu hoán sơ hồi.”

Dịch nghĩa:

 

Một niềm quân thân vấn vít mãi trong lòng,

Để đến nỗi suối rừng phải thẹn vì lời nguyền xưa của ta.

Giấc mộng cõi trần đã hơn ba mươi năm,

Vài tiếng chim kêu mới gọi tỉnh lại.

(Nguyễn Trãi 1962: 24)

 

Bài thơ nói về tinh thần con người vì đời, con người tu dưỡng và hành động theo tinh thần của nhà Nho, nhưng trong những phút giây  bất chợt, vụt thấy đời người như cõi mộng hư ảo không thực. Con người cá nhân có lúc sực tỉnh như vừa quan cơn mộng. Bài thơ có những Thiền ngữ như “mộng cõi trần”, “mộng tỉnh”...  Bài thơ  này về cơ bản là tinh thần thẩm mỹ của thơ ca nhà Nho, nhưng là nhà Nho trong những tâm trạng bất an trên con đường hành đạo, tâm vẫn nặng nỗi quân thân nhưng khi lục vấn vẫn đã thấy chút xao lòng với giấc mộng Nam Kha và Thiền thanh tịnh quyến rũ. Bài thơ có đôi chút ý vị  Thiền, do cả xúc cảm và Thiền ngữ đem lại.

 

Trong kho tàng thi ca Nguyễn Trãi, còn  có nhiều bài thơ mà chất Thiền tiêu biểu hơn, tập trung hơn nữa. Có những bài Thiền đã là hồn cốt của thi ca.

 

Đề Yên Tử sơn Hoa Yên tự

 

“Yên Sơn sơn thượng tối cao phong,

Tài ngũ canh sơ, nhật chính hồng.

Vũ trụ nhãn cùng thiên hải ngoại,

Tiếu đàm nhân tại bích vân trung.

Ủng môn ngọc sóc sâm thiên mẫu,

Quải thạch châu lưu, lạc bán không.

Nhân miếu đương niên di tích tại,

Bạch hào quang lý đổ trùng đồng.”

(Nguyễn Trãi 2001: 265)

 

Dịch nghĩa:

 

Đề chùa Hoa Yên ở núi Yên Tử

Trên dãy núi Yên Tử ở ngọn cao nhất,

Mới đầu canh năm mặt trời đã đỏ rực.

Cảnh vũ trụ, mắt nhìn ra tận ngoài biển xanh,

Tiếng nói cười, người ở trong làn mây biếc.

Bao bọc trước cửa, những cây giáo ngọc xum xuê nghìn mẫu,

Treo trên đá, những dải châu lơ lửng giữa từng không.

Di tích vua Nhân Tông năm xưa còn đó,

Trong ánh hào quang tỏa ra giữa hai lông mày,

Trông thấy rõ mắt có đôi con ngươi.

(Nguyễn Trãi 2001: 265- 67)

 

Đây là một bài khá đặc biệt trong số các bài thơ của Nguyễn Trãi còn để lại. Cũng có thể vì thời điểm ẩn cư nhàn dật khiết tâm linh, tinh thần tác giả khá siêu thoát, nhưng cũng có thể là chút gợi hứng từ không gian Yên Tử và di tích cũ của đức Phật Hoàng khiến cho chất Thiền nổi bật và sâu đậm đến bất ngờ trong thế giới thẩm mỹ của nhà Nho Nguyễn Trãi. Bài thơ vừa có tính chất thơ vịnh cảnh, vịnh danh thắng, kết hợp thơ cấu tứ hình tượng và cảm hứng kiểu thơ đăng cao. Đăng cao không chỉ viễn vọng và thấy tầm nhìn xa hơn, mà chủ thể thẩm mỹ cũng cảm thấy cõi trần tục lụy rời xa hơn. Thế giới tiên cảnh trùng điệp rất có chiều sâu và bề rộng. Tầm vóc của thế giới nhân sinh rộng mở theo tầm nhìn của mắt. Tinh thần chủ thể đồng nhất với không gian vũ trụ bao la không giới hạn. Sự rộng mở của không gian và tầm nhìn có tiềm chứa yếu tố buông bỏ lãng quên thế giới vật dục và đời thường chật hẹp. “Vũ trụ nhãn cùng thiên hải ngoại; Tiếu đàm nhân tại bích vân trung” là hiện hữu của tâm vô trụ, vô ngại và tự do tự lạc. Ngàn mẫu trúc xanh  làm nền thực rất đậm   cho những dải mây treo lơ lửng  nửa thực nữa hư “lạc bán không” tạo thêm chất họa của tranh sơn thủy không hư tịch mịch huyền ảo rất Thiền. Bài thơ đặt nền trên cao nhất, đi từ xa thẳm “cõi ngoại chi cõi phương ngoại chi phương” (cõi ơi ngoài cõi phương ở ngoài phương) do Thiền nhãn chiếu rọi tới, rồi trở về cảnh quan xung quanh nửa hư nửa thực của mây của trúc, rồi dần hồi quy về thế giới nội tâm  rất có chiều sâu ở hai câu kết hun hút thăm thẳm thấu cả bề dầy thời gian và tâm ý. Có cái tán thành, cái đồng cảm, cái sùng thượng, tôn thiêng với đức Phật Hoàng và không gian linh thiêng Yên Tử. Bài thơ vừa là đặc trưng thẩm mỹ siêu thoát, vượt giới hạn và quy ước mang tính siêu việt của Thiền cộng thêm với chất hào mại, phóng khoáng du nhiên tráng đại kỳ vỹ phi phàm kiểu Trang Tử, nhưng Thiền là chủ đạo. Nếu đặt trong  nấc thang gia tăng dần của hàm lượng và chiều sâu chất Thiền trong thơ Nguyễn Trãi thì đây là bài đậm và sâu hơn cả.

 

Trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, chất Thiền biểu hiện qua mối giao cảm với thiên nhiên, tạo vật, ngầm chứa những triết lí sâu sắc về cuộc đời. Vì thế mà khi từ quan về quê, rời xa sống vật chất chìm đắm  trong  vinh hoa, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thụ hưởng những ưu đãi của thiên nhiên hào phóng bằng một tấm lòng hòa hợp với tự nhiên. Tận hưởng tài lộc từ thiên nhiên bốn mùa, nhà thơ cũng được hấp thụ tinh khí trời đất để gọt rửa bao lo toan vướng bận riêng tư. Nhà thơ sống giữa bao la của đất trời, an nhiên, tự tại: “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá/ Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” (Thơ Nôm, bài 73). “Tìm nơi vắng vẻ”cũng là tránh nơi lợi danh huyên náo, nhưng không phải là trốn tránh, là cách biệt với thế giới bên ngoài, xa rời cuộc sống. Nguyễn Bỉnh Khiêm trở về với công việc của bậc tao nhân mặc khách “cày mây, cuốc nguyệt, gánh yên hà”, trở về với“một mai, một cuốc, một cần câu” của một lão nông.  Nguyễn Bỉnh Khiêm  an bần lạc đạo, ung dung, tự tại  biểu hiện của một phong thái sống cởi mở, hồ hởi với tạo vật, biết gắn mình với thiên nhiên. Cũng giống Nguyễn Trãi, ông về với ruộng vườn, hòa mình với thiên nhiên, sống thật thanh nhàn giữa trăng hoa, chim muông: “Bến nguyệt, thuyền kề, hai bãi mía/Am mây, cửa khép một cành pheo” (Thơ Nôm, bài 83). Ông cũng tìm được ở đó một không gian đất trời không thoảng chút hoa lệ, không mang hơi thở giàu sang phú quý, chỉ có màu xanh của cây cỏ, màu vàng của ánh trăng: “Vườn rau sáng dạo sương vương dép/ Bến cá đêm về, trăng đầy thuyền”(Ngụ hứng, bài 4). Ông có những câu thơ diễn tả tinh tế cảm xúc vừa hư, vừa thực của mối giao hòa giữa nhà thơ và thiên nhiên: “Cày mây, cuốc nguyệt, gánh yên hà/ Nào của nào chăng phải của ta/ Đêm đợi trăng cài bóng trúc/71) hay “Cửa trúc vỗ tay cười khúc khích/ Hiên mai vắt cẳng hát nghêu ngao” (Thơ Nôm, bài 83). Tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm thanh thản. Ông thả hồn mình quyến luyến với những bến nước, thuyền câu, mây chiều, gió sớm…Cuộc sống của ông thanh đạm với các món ăn dân dã măng, giá, cá, tôm, dưa , hoa… Có thể nói, cái nhàn, tình yêu thiên nhiên của Nguyễn Bỉnh Khiêm vừa mang hơi thở của thiền học, lại vừa thấm đẫm chất “quy ẩn” của Đạo giáo vừa đau đáu tấm lòng hướng về nhân dân của Nho gia. Nó không phải là cái thiền thuần chất như trong thơ của các bậc tu hành thời Lý – Trần nhưng nó cũng thật đáng quý. Nguyễn Bỉnh Khiêm sống trong những biến động đầy rối ren, loạn lạc của chế độ phong kiến nước ta giai đoạn đầu thế kỷ XVII với chiến tranh phong kiến liên miên, triều đình mục nát, vua quan sa đọa, người trí thức yêu nước trở nên bất lực trước thời cuộc. Như một lẽ tất yếu, họ tìm cách lánh đời, xa rời chốn quan trường nhiều thị phi. Nguyễn Bỉnh Khiêm gọi đó là “chốn lao xao”- cái chốn đua chen danh lợi, nhiều lời ra tiếng vào đầy hiềm khích. Tâm sự lánh đời trong Nguyễn Bỉnh Khiêm trước hết là một thái độ sống đầy chất Nho, Lão, sau đó là một tâm thức sống, cảm quan sống mang nặng chất thiền. Ông xem giàu sang phú quý như một giấc mộng nên ông rời bỏ chốn nhộn nhịp, phồn hoa đô hội, tìm về nơi hoang vắng, sống giản dị, đạm bạc, đơn sơ. Cái chốn hỗn độn đầy mưu mô xảo quyệt ấy, nhà thơ đã xa lánh từ lâu:“Nép mình qua trước chốn lao xao/ Mấy sự bên tai gió thổi phào/ Cửa trúc vỗ tay cười khúc khích/ Hiên mai vắt cẳng hát nghêu ngao”, hay: “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn người đến chốn lao xao”. Nhà thơ bỏ ngoài tai mọi đối đãi, so sánh, giàu nghèo, hơn thua, phải trái của thế sự trần ai. Buông bỏ cũng là một thái độ sống của thiền, thường gọi là vô vi: “Tếu táo câu thơ cũ rích/ Khề khà chén rượu hăng xì/ Trăng thanh gió mát là tương thức/ Nước biếc non xanh ấy cố tri”. Tinh thần thiền học trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện ở lối sống vô úy, không sợ hãi, không lo âu. Đó là tâm thiền: sống không tham lam, không sân (nóng nảy), si (si mê) nên thoát khỏi mọi phiền não, khổ sầu. Nhà thơ chọn lối sống thanh nhã, lên rừng núi hòa cùng thông, trúc, ngày ngày cùng bè bạn đàm đạo kinh sách thánh hiền, đêm đêm trải lòng cùng ánh trăng diệu vợi lấp lánh dưới hồ xanh: “Lánh trần đến náu thú sơn lâm/ Lá thông đàn tiếng trúc cầm/ Sách cũ ngày tìm người hữu đạo/ Ao thanh đêm diễn nguyệt vô tâm”. Thái độ lánh đời ấy rõ ràng không phải rời bỏ cuộc sống tươi sáng, tốt đẹp của nhân dân lao động mà là rời bỏ cái chốn quan trường đầy thị phi, đua chen danh lợi. Ta hiểu vì sao Nguyễn Bỉnh Khiêm lánh đời mà vẫn thương dân, lo lắng cho cuộc sống của nhân dân hay sáng tác những vần thơ đạo lý gần gũi với nhân dân. Nguyễn Bỉnh Khiêm còn thấy được triết lý vô thường của nhân sinh, vũ trụ: “Lần nữa ngày qua tháng qua/ Một phen xuân tới một phen già/ Ưu ái vằng vặc, trăng in nước/ Danh lợi lâng lâng: gió thoảng qua”. Ngày tháng trôi nhanh như nước chảy qua cầu, thế nên tất cả mọi mưu cầu danh lợi, ưu tư phiền não xưa nay đều không có thực, chỉ là ảo ảnh như bóng trăng in dưới dòng nước, cho nên lòng thi nhân thấy lâng lâng, nhẹ nhõm, trút sạch mọi vinh nhục, danh lợi, thịnh suy…Đó là thái độ an nhiên tự tại trước lẽ vô thường, sinh diệt biến đổi của vũ trụ. Sống ở am Bạch Vân, ông có thời gian ngẫm nghĩ về thế sự, nhân tình và phát hiện ra những quy luật vận động bên trong của cuộc sống. Vận dụng vốn hiểu biết về âm dương, ngũ hành, bát quái, ông nhận thấy trong vũ trụ rộng lớn có sự tồn tại và hài hòa giữa âm và dương, từ đó phát hiện ra quy luật “tuần hoàn đắp đổi nhau vốn lẽ thường” (Trung tân quán ngụ hứng). Chính vì thế ông nghiệm sinh lẽ đời với con mắt một triết nhân: “Vinh nhục một cơ hằng đắp đổi/ Ắt là từng thấy một hai phen” (Thơ Nôm, bài 39) hay: “Thế sự tuần hoàn đắp đổi/ Từng xem thua được một hai phen” (Thơ Nôm, bài 44). Thi nhân nhận thấy sự tuần hoàn của cuộc đời là lẽ thường nên thái độ của con người thường là lặng lẽ ngắm nhìn cuộc đời vinh nhục, được thua của cuộc đời là lẽ thường nên vị trí của thi nhân thường là đứng trên hoàn cảnh, nghịch cảnh, đứng trên mọi cái xấu xa của xã hội để suy nghiệm về nó. Vì lẽ đó thơ ông mạng đậm màu sắc thiền.

 

Tóm lại, lần theo mạch nguồn của các bài thơ Thiền ta thấy các nhà thơ mang trong mình tư tưởng nhập thế, không lánh đời, thoát tục, “cư trần lạc đạo”. Ẩn chứa trong các bài thơ mang hơi hướng Thiền là cái tình, cái thú “nhàn” và cao hơn cả là sự trải lòng với chính cõi Người, cõi trần thế. Trong các bài thơ Thiền giữa đạo và đời có một sợi dây gắn kết và ánh xạ vào nhau. Đạo là sự thể hiện ở đời, còn đời là thước đo để đạt đến đạo. Vì thế những bài thơ Thiền từ văn học trung đại vẫn luôn lấp lánh những giá trị riêng và trường tồn mãi trong nền văn học nước nhà.

 

Trong văn học Việt Nam hiện đại, mỹ cảm thơ thiền bàng bạc ẩn hiện trong Thơ mới. Ngay cả khi thi sỹ thể hiện cảm xúc tình yêu đôi lứa cũng có sự hòa nhịp của chữ “duyên”:

 

Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên

Cây me ríu rít cặp chim chuyền

... Anh với em như một cặp vần

(Xuân Diệu, Thơ duyên).

 

Gái quê của Hàn Mặc Tử phảng phất phong vị xuân vĩnh cửu của tạo hóa:

 

Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi

Hổn hển như lời của nước mây

Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc

Nghe ra ý vị và thơ ngây...

(Mùa xuân chín)

 

Khi trong sáng hồn nhiên, cũng có khi là giọt lệ chia ly, tiếng hờn lưu lạc, hoặc đắng cay, sầu khổ… thi nhân cảm nhận cuộc sống trong chuỗi mạch luân hồi tiền kiếp:

 

“Ta còn để lại gì không?

Kìa non đá lở nọ sông cát bồi,

Lang thang từ độ luân hồi

U minh nẻo trước xa xôi dặm về.”

(Vũ Hoàng Chương)

 

Bùi Giáng cũng cảm nhận thế giới hiện hữu là “cõi tạm”, cứ ngỡ dạo gót trần gian chơi một chút rồi đi, nhưng “có ngờ đâu ở mãi đến bây giờ”. Thi sỹ cho rằng, “đến” rồi “đi” ở cuộc đời này thật nhẹ nhõm. Phải chăng, đây chính là quan niệm mang tinh thần “buông xả” của Thiền:

 

“Rồi tôi cũng phải xa tôi

Đời tài hoa cũng xa xôi ven trời.”

 

Trịnh Công Sơn xem thế giới, cuộc đời như cõi phiêu bồng, mình là “hạt bụi” trong cõi phiêu bồng tuyệt vời ấy:

 

“Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi

Để một mai vươn hình hài lớn dậy

Ôi cát bụi tuyệt vời

Mặt trời soi một kiếp rong chơi…”

 

Trong tâm hồn Trịnh Công Sơn, có hai con người thiền sư và thi sĩ. Thiền sư đi tìm chứng ngộ tâm linh, còn thi sĩ đi tìm cái đẹp trong cảm xúc bao la của vũ trụ vạn hữu.

 

Thơ và Thiền đều thuộc về thế giới cảm nhận bằng tri giác và trực giác. Thiền không thể dùng ngôn ngữ để diễn đạt và thơ cũng không thể dùng lời để diễn đạt hết xúc cảm của nội tâm. Thơ và Thiền cùng có tố chất siêu nhiên đó. Phạm Thiên Thư trong bài “Đưa em tìm động hoa vàng” đã phát hiện ra sự gặp gỡ mang tính thoát tục này giữa thiền sư và thi sỹ:

 

“Mùa xuân mặc lá trên ngàn

Mùa thu mặc chú bướm vàng tương tư

Động Nam Hoa có Thiền sư

Đổi kinh lấy rượu tâm hư uống tràn.”

 

Những hấp dẫn từ bước đi của thiên nhiên, như khi xuân về cây thay lá, khi thu đến cả không gian lộng lẫy sắc vàng không chỉ hấp dẫn thi nhân mà còn hấp dẫn cả thiền sư. Cực tả vẻ đẹp, sức hấp dẫn của thiên nhiên đến nỗi, trước cảnh sắc thiền sư sẽ “đổi kinh lấy rượu” để rồi say bất tận trong hoan lạc với thiên nhiên. Song, đây chỉ là cách Phạm Thiên Thư muốn cực tả sức hấp dẫn của thiên nhiên mà thôi.

 

Cũng như vậy, một cây bút khác cũng mượn Phật, Niết Bàn, Như Lai để diễn tả sự thanh khiết của tình yêu, cũng như sự tôn thờ tình yêu vĩnh cửu:

 

“Tim này ví xẻ làm đôi

Nửa dâng cúng Phật chao ôi còn nàng?

Lung linh dưới ánh trăng vàng

Như lai Điều ngự trên làn tóc em.”

(Ngốc Tử)

 

Có thể nói, thơ mang màu sắc, yếu tố Thiền khá đa dạng, có thể là ảnh hưởng của tư tưởng, triết lý Thiền, song nhiều khi, các cây bút chỉ “mượn” Thiền làm giả thiết để diễn đạt dụng ý khác.

 

Trong văn học Việt Nam đã có một mạch chảy văn hóa Thiền, Mai Văn Phấn kế thừa và bước vào mạch chảy ấy như một thứ lương duyên.

 

1.2.3. “Thiền” trong thơ Mai Văn Phấn như là mối lương duyên

 

Mai Văn Phấn từng quan niệm “Nhà thơ, theo tôi phải là nhà văn hóa. Kiến thức văn hóa ấy lắng sâu vào nhà thơ một cách tự nhiên, và tới một hoàn cảnh “hữu duyên” nào đó, nó đột khởi dâng lên thành cảm xúc thi ca” [49; tr. 457]. Trong quan niệm được diễn đạt ngắn gọn trên đây, ta bắt gặp những từ như “hữu duyên”, “đột khởi”, đó là ngôn ngữ nhà Phật. Chắc chắn, trong 16 năm ẩn mình đọc sách, Mai Văn Phấn đã từng nghiên cứu kỹ về đạo Phật và không chỉ đạo Phật. Tác giả rất nhiều lần nói về trạng thái nhập định hành “thiền” của chủ thể trữ tình: Bình minh vắt ngang ngực/ Lúc tôi bắt đầu hành thiền (Tĩnh lặng); Tôi ngồi kiết già/ Dưới chân cầu nước phẳng lặng (Tĩnh lặng. 14); Tọa thiền cạnh bông hoa/ Hương thơm như ngưng lại (Tĩnh lăng. 16) v.v…  Ông thú nhận: “Tôi tìm thấy mẫu mực trí tuệ của thơ ở các kinh bổn của những tôn giáo, nhất là Cựu ước, Vệ Đà và những sử thi như Iliade, Mahb-harata …Thực chất đó là những bản thánh thi siêu phàm. Những tác phẩm kinh điển ấy đã khiến thơ tồn tại được qua những thời hạn tệ hại nhất của loài người; và đã khiến người đọc thông tuệ hơn, cao thượng hơn…” [49; tr.435]. Gặp gỡ chính là đây! Khởi duyên chính là đây! Trí tuệ trong các kinh bổn và một tâm hồn có khát vọng được mới, luôn luôn mới, “vượt thoát” chính mình đã tạo nên nhà văn hóa trong nhà thơ Mai Văn Phấn. Tuy nhiên, có thể nhận thấy, dường như đạo Phật, với triết lý Thiền đã có sức hấp dẫn đặc biệt với Mai Văn Phấn. Trong thơ ông, chất “thiền”, yếu tố “thiền” luôn ẩn hiện, từ hình thức đến nội dung, bàng bạc trong những tập thơ đầu tay, đậm nét ở những tập sau. Thiền trở thành tư duy thơ Mai Văn Phấn, thành mỹ cảm thơ, “tham dự” vào hành trình “vượt thoát” của khát vọng cách tân.

 

1.2.3.1. Sự gặp gỡ từ trong “tâm tính”

 

Từ bài thơ đầu tiên là bài Thuốc đắng đã thấy dấu hiệu của một cái tâm “phật tính” với sắc thái “thiền” qua hình ảnh người cha trong bài thơ âm thầm trìu mến bên con trong đêm lạnh, lặng lẽ suy ngẫm từ chén thuốc đắng chữa bệnh cho con đến “chén đắng” cuộc đời. Cứ thấy ám ảnh cái tứ “đời là bể khổ” trong những chữ, những hình ảnh bộc lộ nghiệm suy về lẽ đời, về quy luật của được – mất, cho – nhận: Đưa hương phải nhờ rễ cay/ Mồ hôi keo thành chai tay/ (…) Khi lớn bằng cha bây giờ/ Đáy chén chắc còn bão tố

 

Đến hai tập thơ “Giọt nắng” (1992), và “Gọi xanh” (1995) đã bộc lộ rõ tâm tính của chủ thể trữ tình, đó là con người của lối sống có trước, có sau, có nhân có nghĩa, có mối liên hệ chặt chẽ với triết lý “nhân – quả” trong đạo phật: 

 

Biết ơn sợi tóc trên đầu

Buộc ta vào những nhiệm màu khói sương

(Bâng quơ)

 

Có lúc, còn trực tiếp nói về chữ “duyên” với Thiền, với Cửa chùa:

 

Hoàng hôn như một cửa chùa

Hư không trên ngón tay vừa đi qua

Ta ngồi nhập định cùng hoa

Thành chuông ai thỉnh ngân nga cỏ mềm

Cầm tay gió dắt vào đêm

Mà hồn xanh lỡ để quên cuối trời

Dấu chân xin cát chớ vùi

Cho ta về lại luân hồi kiếp sau.

(Qua hoàng hôn)

 

Trong cuộc lãng du tưởng tượng, nhà thơ đắm mình phiêu du trong trạng thái “hồn ra khỏi xác” để có cảm giác được “lâng lâng” trên những cánh hoa, được “lang thang” khắp mọi xó như hồi bé thơ khi mẹ vắng nhà, một cảm giác “vượt thoát”, “buông xả” với thực tại để được sống “hồn nhiên”, thơ thới với tâm hồn trẻ thơ vô tư, thanh sạch. Đây chính là biểu hiện của “tâm tính thiền” trời sinh vốn sẵn có:

 

Khi tôi ngủ say hồn ra khỏi xác

Lâng lâng trên những cánh hoa

Lang thang như xưa lúc mẹ vắng nhà

Quên thể xác đăm chiêu lầm lũi

(Hồn nhiên)

 

Đằng sau cuộc thoát xác, ra đi rồi nhập về đã giúp « tôi không là tôi» của hiện tại với bao nhọc nhằn, đua chen, hoang mang, nghi hoặc, cô độc để là «một cái tôi mới», tinh khôi, thánh thiện, nguyên sơ. Cái tôi ấy khởi đầu nguyên cớ và cũng chi phối mạnh mẽ đến hành trình « vượt thoát » của Mai Văn Phấn sau này.

 

Trong tập Giọt nắng cũng vẫn là những «giọt thơ » trong trẻo, ngọt đằm, vọng chiếu những âm điệu, sắc màu của sự sống được lọc qua tâm hồn an nhiên, thư thái. Phải có một tâm thiền căn cốt lắm mới có thể cảm nhận được sự huyền bí, bước chuyển màu nhiệm của thiên nhiên như thế này:

 

Anh nghiêng vào chiếc lá

Lá bỗng đôm đốm vàng

Có giọt sương lạnh giá

Rơi xuống hồn anh đang

 

Lẫm chẫm vào xốn xang

Cho lòng mềm tơ lụa

Xin em hong lên gió

Xem sợi nào ngân nga

(Chân thật)

 

Mong ước được hòa nhập với thiên nhiên bằng tấm chân tình thiện lương, mộc mạc:

 

Gieo mình xuống phù sa

Bàng hoàng nghe tách vỏ

Ủ chân thật vào giữa

Chờ mùa xuân nảy mầm

(Chân thật)

 

Sự hòa nhập biến thành con dế cho thấy tâm hồn trẻ trung, nhạy cảm và rất lành của chủ thể trữ tình:

                                    

Giờ tôi đứng lên bằng đôi chân con dế

Trên ngọn cỏ mềm lướt đi nhè nhẹ

Cố gọi lên bằng tiếng loài người

Lỡ qua cửa rừng không ai nhận ra tôi

(Ngủ quên trong rừng)

 

Thiên nhiên là bầu bạn, là tri kỷ với một tâm hồn thiện lương thích hòa nhập:

 

Cầm tay gió dắt vào đêm

Mà hồn xanh lỡ để quên cuối trời

Dấu chân xin cát chớ vùi

Cho ta về lại luôn hồi kiếp sau.

(Qua hoàng hôn)

 

Tâm hồn ấy luôn biết nâng niu từng khoảnh khắc hạnh phúc, luôn ứng xử với mọi mối quan hệ bằng cặp mắt thương yêu, trìu mến:

 

Hạnh phúc nào bằng ta bên nhau thảnh thơi, như được xoải mình nơi chân đê cát mịn. Anh hôn lên ngực em căng đầy thơm mát, chiều ngọt ngào cánh cò cánh vạc, qua môi anh khẽ đậu xuống hồn. Căn phòng mình chẳng còn những bức tường bao quanh và không gian thành thời gian thánh thiện…

 

Dễ hiểu tại sao chủ thể trữ tình ấy đến với Thiền, bắt gặp ở Thiền sự dịu dàng, từ bi, độ lượng, sâu lắng. Đối với ai đó Thiền là giải thoát nhưng với Mai Văn Phấn, Thiền là tri kỷ. Ông tìm thấy ở Thiền sự tương giao, gần gũi về tư tưởng và cả phương thức ứng xử, hành xử với cuộc sống.

 

1.2.3.2. Sự gặp gỡ trong mỹ cảm

 

Tư tưởng hành đạo của Thiền thực sự hấp dẫn và dường như đã trở thành mỹ cảm lý tưởng trong thơ Mai Văn Phấn. Ông thường có xu hướng đem đối tượng so sánh ra chiếu ứng với thế giới của Thiền – biểu tượng của tôn quý, của sự cao cả, huyền bí:

 

Nỗi nhớ biến thành sương khói

Lá khô thoát xác bay lên

Tôi thì nồng nàn như đất

Để em linh ẩn chùa chiền

(Thoáng thu)

          

Tình yêu và nỗi nhớ tình yêu vốn là địa hạt « kị húy » với Thiền, nhưng thật lạ, Mai Văn Phấn đem hai thứ đó đặt cạnh nhau, so sánh với nhau mà không bị «vênh», không bị lệch pha mới thật tài. Hóa ra, tác giả đã tìm ra bản chất mỹ cảm của hai thế giới ấy: cùng thiêng liêng và thoát tục. Thiền là như vậy, tình yêu chân chính và có văn hóa cũng vậy, nó sẽ được « thiêng » hóa trong cảm xúc ngưỡng mộ của người mình yêu. Nhà thơ Nga Lecmontop cũng đã từng ví tình yêu với «tượng thờ», «miếu thờ» đấy thôi: Tượng thờ dù đổ vẫn thiêng/ Miếu thờ bỏ vắng vẫn nguyên miếu thờ  (Không, tôi nào nữa yêu em). Trong bài Mùa thu, tác giả nhìn mùa thu, sắc vẻ của mùa thu ra sắc vẻ của «người thiền», cả hai đều có vẻ hấp dẫn từ sự «tĩnh lặng», thanh tao như «giọt sương dịu mát» và trong cảm nhận của Mai Văn Phấn, Thiền không quay lưng với cuộc sống, trái lại mà làm tăng hương vị cho cuộc sống, khiến người ta biết trân quý cuộc sống hơn, tha thiết, tình cảm với nhau hơn:

 

Tĩnh lặng tựa người thiền

Tựa giọt sương dịu mát

Trong hương thơm trái ngọt

Và tiếng chim tìm nhau...

(Mùa thu)

 

Dường như Mai Văn Phấn đã tìm thấy trong đạo Thiền sức cám dỗ của triết lý sống an hòa, buông bỏ những thứ ngoài thân, coi trọng tinh thần, coi trọng tự nhiên, nâng niu bản chất của sự sống. Khát vọng dâng hiến dưới đây không chỉ là thái độ «buông/ xả » mà là tận hiến để sinh sôi, một cách buông bỏ cái ngoài thân để tập trung cho cái:

 

Tôi chếch choáng rỗng không chiếc hũ

Đợi những mùa vàng tạo rực hiến dâng

(Tự thú trước cánh đồng)

 

Cùng góp với ai ngọn lửa

Dẫu là mình thành lá khô

(Anh về)

 

Thái độ “buông/ xả”  theo cách dâng hiến trên đây đâu phải là thái độ chán đời, quên đời mà ngược lại, trân quý cuộc sống/ thế giới nhân sinh hết sức. Tuy nhiên, đây là thái độ của bậc thức giả, “diệt” để “sinh” với tinh thần chủ động, tận hiến vô tư, khoáng hoạt. Vũ trụ, hoa cỏ, con người là đồng nhất thể trong một chiêm ngắm, nhập hòa vào nhau trong vô biên và vô cùng thời gian. 

 

Mai Văn Phấn có hẳn một tập thơ «thả», chữ thả  này liệu có gần gũi hoặc lấy cảm hứng từ chữ buông, xả của Thiền chăng? Mai Văn Phấn “thả” chứ không “buông”, “thả” của Mai Văn Phấn là buông nhưng hỉ, nộ, ái, ố của cõi phù du để hòa vào thiên nhiên cỏ cây hoa lá, núi sông, nhật nguyệt nắng gió... tĩnh tâm thả hồn lắng nghe âm thanh vi diệu của vạn vật, đón nhận từng khoảnh khắc mọi thay đổi của vũ trụ. Vì vậy, “thả nhưng không theo nghĩa buông bỏ để tìm thảnh thơi, mà ngược lại, “thả” theo nghĩa tự do hoàn toàn trong cảm thức để mong đòi tìm đến tận cùng của thức nhận cuộc đời, cảm thấu con người, chìm sâu vào yêu thương trong cõi sống. Trong chuyến thả mình vào cõi sống ấy, nhà thơ đã gặp nhiều đốn ngộ thấm thía: 

 

Nỗi niềm đem thả trong cây

Qua sương giá đến rạng ngày trổ hoa.

Lỡ vin vào bóng mây qua

Lỡ nghe đắm đuối tiếng ma gọi đò

Đầu kim tựa có ai chờ

Khâu ta vào với ỡm ờ xửa xua.

Hoa ngâu vừa lịm cuối mùa

Nhẩn nha tiếng mõ bỏ bùa tiếng chuông

(Gom nhặt cuối mùa)

 

Những va vấp, thậm chí cả những lầm lỡ được “tự kiểm điểm” thấm thía. Nhưng khi người ta nhận ra lỗi lầm nghĩa là lúc người ta đã “ngộ giác” và một khi đã “tỉnh thức” thì từ nhận thức đến tâm thế hành đạo trở nên bản lĩnh trong một cốt cách tiên du: Hoa ngâu vừa lịm cuối mùa/ Nhẩn nha tiếng mõ bỏ bùa tiếng chuông. Trong tập “thả” luôn đầy ắp những bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, vẻ đẹp tươi non, nguyên sinh, tinh khôi trong sự giao hòa tuyệt đối giữa con người và đất trời. Nhà thơ đắm say cùng thiên nhiên, con người và cuộc sống. Để đón nhận “thả” cũng phải đứng ở tâm thế đó, phải để lòng thanh tịnh, bình yên, không vướng bận, thả hồn mình lắng sâu vào thiên nhiên và cuộc sống để lắng nghe âm thanh của hạt sương rơi như tiếng chuông chùa trong trẻo ngân nga, tiếng lá cây xào xạc suốt đêm thu, vẻ đẹp khi thời khắc giao mùa, hay việc đọc sách, uống trà, dỗ cháu ngủ, đi tảo mộ,... thôi cũng làm chúng ta ngộ ra bao điều khó có thể cảm nhận được trong cuộc sống xô bồ, nhốn nháo. Và phải có một tâm thế thư thái, tĩnh lặng, tự tại, đúng với tinh thần của Thiền mới lắng nghe, nắm bắt, tan hòa vào khoảnh khắc tuyệt mỹ, diệu kì ấy. Tâm thế trôi thong thả, hòa nhịp, để được lắng nghe, được tan chảy và trải lòng với thế giới thiên nhiên là một sự giao hòa trọn vẹn nhất: Tràn/ Tôi/ Trôi (Nghe tiếng nước - 450). Và phải cùng một xuất phát điểm, bình đẳng, không phân biệt vị thế mới cảm hết cái đẹp mỏng manh, dịu dàng kia của đất trời, thiên nhiên: Cúi xuống/ Con ốc sên và tôi/ Chạm vạch xuất phát (Mải nhìn mưa phùn - 14). Cái đẹp trong trẻo của thế giới tự nhiên và cái đẹp ở cách nâng niu, trân trọng thiên nhiên, vạn vật của chủ thể thẩm mỹ vẽ nên bức tranh đẹp, thực mộng đan xen đầy ấn tượng, ám ảnh: Nhụy hồng tươi/ Cánh trắng tinh khôi/ Mở bầu trời hơi thở/ Xương cốt mùa đông/ da thịt mùa xuân…

 

Khi đã “đốn ngộ”, tâm hồn trở nên thơ thới, cặp mắt nhìn thế giới bằng lăng kính trong veo, tinh tế: Tôi nhìn thấy trên đỉnh đồi/ một bông hoa cỏ may vừa nở/ ánh sáng phát ra từ đó/ Bình minh đang phát ra từ đó/ soi rõ chân đồi, lối ra bìa rừng/ những con chim bay đi buổi sớm/ tôi cũng vừa thoát khỏi ký ức của tôi (Nơi cội nguồn thế giới)

 

Từng khoảnh khắc đốn ngộ tạo nên những phát hiện riêng, không chỉ làm người đọc bất ngờ mà chính chủ thể cũng bất ngờ, ngạc nhiên: Không phải nơi nào khác/ mà chính từ bông cỏ may kia/ đang làm nên một ngày tuyệt đẹp (Nơi cội nguồn thế giới) v.v…

 

Tác giả còn có tập thơ “Tĩnh lặng”, tĩnh lặng để tập trung suy ngẫm là trạng thái của Thiền, là triết lý của Thiền, đến Mai văn Phấn, “tĩnh lặng” trở thành mỹ cảm, ở đây cảm xúc thăng hoa cùng với lý trí, giác ngộ, tạo nên những vần thơ giàu triết lý, thâm sâu:

 

Lặng yên cho nước chảy

Xối xả lâu lạnh toát mình đá

Mùa xuân đấy sao?

Dây hoa leo đường mòn

Tiếng chim dội xuống róc rách

Đá nhắm mắt an nhiên nước cuốn

Mùi ổi chín thơm len lỏi trong rừng

(Đá trong lòng suối)

          

Tĩnh lặng để cảm nhận thế giới bằng mọi giác quan cùng một lúc và khi ấy, ta nghe trong tiếng chim hót có tiếng nước suối róc rách, ta cảm nhận thấy “mình đá” lạnh trong triếng nước róc rách, thấy “mùi ổi chín” len lỏi khắp rừng… Hình như thiên nhiên vốn là như vậy, rất khó tách bạch các dạng thức tồn tại. Người ta vẫn phải mượn dạng thức này để diễn tả dạng thức kia đó sao. Mai Văn Phấn nhận ra, trong tĩnh lặng, ta có thể cảm nhận được sự hòa trộn huyền diệu các cung bậc của thiên nhiên. Muốn vậy, người ta phải tạo ra cho mình sự tĩnh lặng, không gian tĩnh lặng, tĩnh lặng trong tâm. Phải chăng tác giả muốn nói rằng “tĩnh tâm” cũng là một sự thụ hưởng, dĩ nhiên, đó là sự thụ hưởng tinh thần.

 

Hơn hết lúc này

Ai hãy ở yên chỗ đó

          

“Ở yên” để vạn vật tự sinh sôi một cách hồn nhiên, “ở yên” mới có cơ hội nhận ra sự nhiệm màu của tạo hóa và “ở yên” chính là để bảo vệ sự sống tích cực nhất:

 

Bó gối những gốc cây

Nhắm mắt ngọn gió đồi

Hạt giống rơi trong bùn ngấu thảnh thơi

Ngày mai mặt đất này

Và thế giới sẽ đổi khác

(Mùa trăng)

     

Có thể nói, Mai Văn Phấn đã tìm thấy ở Thiền – tư tưởng của triết lý Phật giáo những giá trị hấp dẫn. Nhà thơ đã bị/ được dẫn dắt bởi ánh sáng của tư tưởng Thiền, coi đó là mẫu mực của trí tuệ, là chân lý của tâm hồn. Thiền đã vào thơ Mai Văn Phấn ở tinh thần và giá trị cốt lõi: an hòa, tự tại, tĩnh lặng, suy tư và tập trung cho giá trị bản chất cốt lõi. Thiền vào thơ Mai Văn Phấn là Thiền “nhập thế”, không phải quay lưng với cuộc đời, là thứ Thiền mà đấng minh quân Trần Nhân Tông – sư tổ Thiền phái Trúc Lâm từng ban dạy: Cư trần lạc đạo thả tùy duyên/ Cơ tắc xan hề khốn tắc miên/ Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch/ Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền (Cư trần vui đạo hãy tùy duyên/ Đói cứ ăn no, mệt ngủ liền/ Báu sẵn trong nhà thôi khỏi kiếm/ Vô tâm trước cảnh hỏi gì thiền (Cư Trần Lạc Đạo Phú).

 

Thiền trở thành mục tiêu, sự chỉ dẫn tư duy mỹ cảm trong thơ Mai Văn Phấn, đến lượt mình, tác giả đưa Thiền vào đời sống, vào thơ ca để thanh lọc và nuôi dưỡng tâm hồn. Nhìn thế giới qua lăng kính Thiền, Mai Văn Phấn khiến thế giới trở nên nhiều lớp nghĩa, phồn sinh mà trong sáng, nồng nàn trong sự nguyên sơ, tràn trề năng lượng:

          

Cuộn chảy

trong tiếng gào những dải phù du

đáy sông quặn thắt chưa hết sáng

Hoàng hôn ngậm chặt ánh ngày

lửa co giật

sục sôi mầm nụ

đỉnh cây ngùn ngụt bốc cao

(Đất mở)

 

Thiền trong cảm thức của Mai Văn Phấn không còn là nghi lễ hành đạo khô cứng mà trở thành triết học hiện sinh, bám rất chặt với cuộc sống hiện tồn và vì cuộc sống này mà lên tiếng. Thiền trong thơ Mai Văn Phấn lấy xuất phát điểm từ cuộc sống và quay về với cuộc sống trong những suy ngẫm tươi mới. Thơ ấy, nên đọc lặng lẽ, bởi những khoảng lặng đằng sau ngôn ngữ mới là vô giá, đó là “thiền” trong thơ.

 

Tiểu kết:

 

Thiền – phương pháp và cũng là triết lý tu tập của đạo Phật đã đi vào đời sống và tâm thức dân tộc Việt Nam lên đến nghìn năm. Từ đời sống tư tưởng, Thiền đã bước vào văn chương. Truyền thống thơ Thiền đã có ở Việt Nam hàng trăm năm mà đỉnh cao là thời Lý - Trần.

 

Mai Văn Phấn đến với Thiền như là mối lương duyên. Lương duyên bắt đầu có lẽ từ những tháng năm đầu tư nghiên cứu để chuẩn bị cho hành trình sẽ đi rất xa trên con đường sáng tạo. Mai Văn Phấn đã tìm đến Thiền và đã gặp gỡ với tư tưởng thâm sâu, thẫm đẫm tinh thần nhân sinh, nhân ái. Triết lý từ Thiền đã gợi ý và dẫn dắt những ý tưởng nghệ thuật đầy sáng tạo cho cây bút đam mê “vượt thoát” này. Sự cẩn trọng, từ tốn với một nền tảng cảm xúc điềm tĩnh, sâu sắc kết hợp với phông văn hóa rộng đã giúp những cách tân trong thơ Mai Văn Phấn luôn gây chú ý và tạo thiện cảm nơi người đọc.

 

 

 

 

Chương 2:

CẢM THỨC THIỀN TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN

NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG

 

 

Không phải ngẫu nhiên, giới chuyên môn cho rằng, thơ Mai Văn Phấn có “cốt cách văn hóa” (từ dùng của Đỗ Quyên). Cốt cách văn hóa ấy, trước hết đến từ tư tưởng thơ. Có thể nói, bước vào thế giới thơ Mai Văn Phấn, người đọc có cảm giác choáng ngợp, bối rối trước những nội dung tư tưởng mà tác phẩm đặt ra. Ở đây, luận văn quan tâm tới những vấn đề bắt nguồn hoặc có liên quan đến những triết lý của Thiền.

 

2.1. “Nhân duyên” tạo nên vẻ đẹp hài hòa của thế giới

 

Chữ “Duyên” trong Thiền Đạo vốn có gốc Hán, nghĩa là nguyên nhân, nguyên do, nguyên cớ phát sinh ra sự việc. Vì vậy, tùy theo mục đích, kết quả của “duyên” mà có: hữu duyên, nhân duyên, thiện duyên, tùy duyên, ác duyên, nghịch duyên v.v…, Đó là Đạo Tự nhiên. Dường như rất tâm đắc với Đạo Tự nhiên này nên Mai Văn Phấn đã khai thác và dùng tri thức minh triết ấy để cảm nhận và diễn tả về sự tồn tại của thế giới.

 

2.1.1. Mọi sự tồn tại đều có “nhân duyên” 

          

Đọc thơ Mai Văn Phấn, thấy thế giới tự nhiên từ vĩ mô (bầu trời, mặt trời, trái đất, biển, dòng sông, cánh đồng…) đến vi mô (bông hoa, thậm chí hoa cỏ may, cuốn sách, trái táo, tảng đá, cái gai,…); Từ hữu hình có thể cảm nhận bằng các giác quan đến những vô hình chỉ có thể cảm nhận bằng linh giác, tưởng tượng…, trong thế giới ấy, tất thảy sự hiện hữu của mỗi sự vật hay hiện tượng đều có nguyên cớ, căn nguyên, nghĩa là đều có “nhân duyên”. “Nhân duyên hình thành nên thế giới, là cốt lõi của sự tồn tại:

 

Và thấy trong tiếng chim

Một ban mai vừa nở

Một bọc trứng vừa nở

Trong chiếc nôi sương mờ

(Người cùng thời)

          

Không biết từ lúc nào, nhưng từ khi có “nhận biết” đã thấy ban mai luôn gắn liền với tiếng chim, tiếng chim xuất hiện cùng với ban mai. Cách diễn đạt: “thấy” ban mai “nở” trong tiếng chim cứ như tiếng chim là căn nguyên của ban mai vậy. Đó là cách diễn đạt của “Thiền”, cái này là khởi duyên của cái kia, song là nhân duyên. Thế giới hình thành và tồn tại bởi “nhân duyên”. “Bọc trứng” nhân duyên hình thành nên thế giới: Một bọc trứng vừa nở/ trong chiếc nôi sương mờ. Tác giả nhiều lần thể hiện nhận thức ấy, nhận thức về sự sống, sự hình thành, liên kết, ràng buộc lẫn nhau tạo nên hành tinh xanh này:

 

Từ hốc đen tra hạt

Đọt mầm bật dậy

Chim bay

Ngọn rễ non biết được

Đất ôm trời đã lâu

Căng tràn nhựa mật

Vỏ hạt vừa buông

Thả xanh về tít tắp

Ngày lên thăm thẳm

Lá mầm che mặt đất sum suê

(Tỉnh dậy trong mưa)

    

Trời và đất, ngọn và rễ, hạt và lá mầm… hóa ra, có mối quan hệ thật thân tình, ấm áp: “ôm nhau” gắn kết, là duyên của nhau, “duyên” ấy đã tạo nên nguồn sống “căng tràn nhựa mật” và từ đấy “mặt đất sum suê”, “thả xanh tít tắp”, “ngày lên thăm thẳm”… Sinh giới đều có mối liên hệ lẫn nhau, là “duyên khởi” của nhau trong Đạo Tự nhiên.      

              

Tỉnh dậy cỏ cây láng ướt bầu trời

Mưa quần tụ mái nhà gõ nhịp

Mặt đất mềm hơi thở lan nhanh

Em luống cuống kéo chăn che ngực

Ngỡ ai qua đây xếp lại căn phòng

(…)

Vùi vào nhau hạt mầm bé nhỏ

Rơi trong nụ hôn tinh sương

(Tỉnh dậy trong mưa)

 

Cỏ cây, mưa, hạt mầm, mặt đất, em, mái nhà, căn phòng … tất cả đều “bình đẳng” dưới bầu trời, “mưa” chạm đến tất cả, tác động đến tất cả, mỗi “sự vật” có cách “phản ứng” khác nhau từ tác động ấy: cỏ cây láng mướt, mái nhà gõ nhịp, mặt đất mềm ra, những hạt mầm vùi vào nhau cựa quậy, em kéo chăn che ngực… “Mưa” – một hiện tượng của thiên nhiên, xuất hiện kéo theo vô vàn những hiện tượng khác, sự việc khác, trực tiếp và gián tiếp. Mưa trở thành nhân duyên cho nhiều thực thể: “cỏ cây láng mướt”, “đất mềm ra hơi thở lan nhanh”, “hạt mầm rơi trong nụ hôn”,  “em luống cuống kéo chăn che ngực”... Mọi sự vật trong thế giới không tồn tại độc lập mà luôn có liên hệ với nhau, ảnh hưởng/ tác động/ chi phối lẫn nhau, tạo nên sức sống, hình hài, cảm xúc, trạng thái… của vạn vật. Thể hiện mối liên hệ ràng buộc này của tự nhiên quả không dễ. Mai Văn Phấn đã dấn thân vào hành trình tìm hiểu và thể hiện mối nhân duyên này của tạo vật với ngòi bút tài hoa.

          

Thơ Mai Văn Phấn đầy ắp những mối “duyên” thiện lành, đẹp đẽ, thể hiện sức sống tự nhiên trong mối quan hệ nhân ái, an hòa.

 

Đây là chữ “duyên” trong bài Buổi sáng mùa hè:

 

Lá sen và ngó sen

Tỉnh dậy trong vòng tay của nước.

          

Sen được ôm ấp, nuôi dưỡng trong “vòng tay của nước”, nhờ nước, sen khoe sắc và ngát hương. Mối quan hệ giữa sen và nước là “lương duyên”, “hữu duyên”, “thiện duyên”. Sự sống, cái đẹp được tạo nên bởi chữ “duyên”, giống như hiện tượng này:

 

Hương trong vườn

Tiếng chim khách

Từng chùm

(Hoa bưởi)

          

Hoa bưởi nở vào mùa xuân, đấy cũng là mùa sự sống muôn loài trỗi dậy sau những tháng khép mình ngủ đông, hoa bừng hương thơm dụ ong bướm, chim líu lo gọi bạn tình và xây tổ trong những lùm cây… Cả hoa và cả âm thanh tiếng chim đều “từng chùm” (!) Sự sống động, vui tươi, vẻ rực rỡ, viên mãn, phồn thực của sự sống được diễn tả trong cái từ mang sắc thái định lượng độc đáo này: “chùm”!

 

Luôn nhìn các hiện tượng trong mối liên hệ của chữ “duyên”, Mai Văn Phấn tạo ra một thế giới đầy cảm xúc và cũng thẳm sâu chân lý về những giá trị. Đọc thơ ấy, không chỉ thấy vang ngân cảm xúc mà còn giúp những nghĩ suy được khai mở:

 

Quả trứng

Ấp trong đôi cánh

Của mẹ

Tôi ngủ say trong khí núi

Bóng cây

Nước giã gạo

Tiếng chân hươu nai

Nằm trong vỏ trứng

Tôi dần thành hình kiến

Hình chim chóc, gia cầm

Như bao muông thú

Tôi lớn bằng giấc mơ

Của ánh bình minh

Của cơn mưa

Bầy sao sa

Trái đất

 

Mỗi sự vật được sinh ra vốn đã có nhân duyên với thế giới này. Theo Phật giáo, có bốn thể của sự sinh: có sự sinh từ trứng (noãn sinh), có sự sinh từ bào thai (thai sinh), có sự sinh từ nơi ẩm thấp (thấp sinh) và có sự sinh nhờ chuyển hóa (hóa sinh). Trong đoạn thơ này, có tất cả bốn dạng “sinh” đó: quả trứng (noãn sinh), mối quan hệ “mẹ - tôi” (thai sinh), những loài vật gợi thân phận thấp bé (thấp sinh). Song, dù được sinh ra như thế nào cũng đều có “duyên” với thế giới này, đều có chung chân mệnh: sống, khát sống trở thành sứ mệnh của mỗi sinh linh. Để một sự sống hình thành, lớn lên và tỏa sáng cần biết bao nhiêu tác động, nâng đỡ, bao nhiêu thương yêu dồn đắp. Cách diễn đạt: “Tôi dần thành hình kiến/ hình chim chóc, gia cầm/ như bao muông thú” vừa khoa học, lại vừa siêu thực, vừa trí tuệ  vừa giàu cảm xúc. Đọc những câu thơ này, một suy nghĩ “liên văn bản” chợt đến: thế giới này là một văn bản và trong “văn bản” ấy, mọi sự vật hiện tượng được tổ chức chặt chẽ trong cấu trúc huyền diệu của nhà tổ chức siêu việt: Đấng Tạo Hóa!

 

Đạo Thiền quan niệm vạn vật trong vũ trụ, một vật sinh ra, cái gì cho nó sự sống gọi là “nhân”, cái gì thêm thắt vào gọi là “duyên”. Mọi sự vật, hiện tượng đều do nhân và duyên hòa hợp với nhau mà thành. Ví như hạt giống là nhân, đất, nước, ánh sáng, nhà nông...là duyên. Nhân duyên hòa hợp mà sinh ra quả.

 

Quả ngọt

Rễ đẩy

Trời

Chiếc cuống bé nhỏ.

 

Hay:    

                                        

Cây bầu trời

Chiếc rễ

Ta tìm nhau

Tự chăm lấy đất...

  

“Duyên” có thể là sự gặp gỡ như có sự sắp đặt vô tình của tạo hóa, đó là sự tương đồng, tương duyên giữa người này với người kia... Con người, vạn vật khi đã có “duyên” đều hướng về nhau, tương hỗ với nhau, cùng phát triển. 

 

Thiền sư Nhất Hạnh cũng có một bài thơ – kệ diễn đạt mối quan hệ tương duyên này:

 

…Thơ trong từng đốm lửa hồng

Nắng cất chứa trong lòng gỗ thơm

Khói ấm đưa thơ về trên trang ngoại sử

Nắng vắng trong hư không, nhưng nắng chất đầy một lò sưởi đỏ

(Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt)

 

Mọi sự vật hiện tượng luôn nhập vào nhau, đó là triết lí của tứ đại luôn cùng hiện hữu tạo nên muôn vật. Thiền sư thấy rõ cái “duyên”của tạo vật, thấy trong lòng gỗ thơm có nắng, thấy chữ viết trên gỗ thơm từ gỗ. Ông thấy mặt trời ở trong khúc gỗ cho nên mới có thể đốt được khúc gỗ mà sưởi ấm cho mình và người khác. Thơ của thiền sư Nhất Hạnh chứa đầy triết lý thiền: nếu không có nắng thì không thể có mưa, nếu không có mưa thì hạt cây không thể nảy mầm. Nhân duyên tức là ở chỗ đó, duyên thuận thì nhiều thiện pháp thuận theo và ngược lại.         

       

Cũng trong cái mạch nguồn ấy, thơ Mai Văn Phấn thể hiện nhân duyên của vạn vật. Thơ ông luôn có sự đan kết, giao thoa giữa các đối tượng, hiện tượng. Các sự vật, hiện tượng luôn xuất hiện, tồn tại trong mối tương giao:

 

Tiếng chim, giấc mơ, giọt nước rơi…

Thành đường kẻ dọc

 

Giọng nói, nỗi buồn, nụ hôn…

Là đường kẻ ngang

 

Đường kẻ giao nhau

Là đốm sáng

Lúc soi đường

Lúc làm lóa mắt

(Tĩnh lặng. 8)

          

Tiếng chim, giấc mơ, giọt nước hay giọng nói, nỗi buồn, nụ hôn…dù là thiên hay con người đều có “vị trí”, chỗ đứng, “giá trị”, ý nghĩa ngang nhau, đều là “đốm sáng” trong cõi trần thế này, tất cả đều là “đường kẻ” đan dệt nên sự sống, vũ trụ. Song, xin nhớ, đừng tuyệt đối hóa vai trò của “chúng”, không cái gì là giá trị bất biến, những “đường kẻ” kia có khi là “đốm sáng”, nhưng có lúc lại làm “lóa mắt”.

          

Không ít lần, Mai Văn Phấn bộc lộ suy ngẫm này: 

 

Tôi bình đẳng

Hòa trong thế giới

(Tĩnh lặng. 13)

          

Nhìn chung,  “nhân duyên” trong thơ Mai Văn Phấn vẫn là chữ duyên nồng nàn sự hòa quyện của tình duyên, lương duyên:

                                          

Màu hoa chừng rất vội

Hồn ta cứ la đà

Chắp tay làm chiếc lá

Ngỡ mặt mình đơm hoa

(Nghi Tàm)

    

Trong những hình ảnh thơ dưới đây, sự sống hiện ra vừa lãng mạn, dịu dàng vừa thiêng liêng:

                                       

Đôi bướm ái ân

Phía dưới

Sương đọng thành giọt

(Trên tàu lá chuối)

 

Thi nhân gọi cuộc giao phối của đôi bướm là cuộc “ái ân” (tình và nghĩa), thiêng liêng làm sao! Tàu lá chuối (đứng lặng im) trở thành chiếc giường thanh sạch và lãng mạn cho cuộc tình. Những hạt sương khẽ khàng, tế nhị “nép” xuống phía dưới lặng lẽ đến trở thành “giọt” từ lúc nào! Cuộc ái ân của đôi bướm đã được tác giả cảm nhận và tái hiện bằng thái độ tôn trọng chữ “duyên”.   

          

Lần khác, lại là một phát hiện ngộ nghĩnh:

 

Con nhái bén

Thè lưỡi

Liếm trăng

(Ngồi giữa lá sen)

          

Đêm trăng, chú nhái bén ngồi giữa lá sen, một hình ảnh quen thuộc trong các ao đầm – cả hai đều thuộc về thiên nhiên hoang dã, nhưng thật đáng yêu. Bỗng có sự xuất hiện ngẫu nhiên: nhái bén thè lưỡi (bắt muỗi) nhưng tác giả (cho rằng) đó là nhái bén “liếm” ánh trăng đang tràn trề khắp không gian. Một sự sắp đặt (cố ý) đầy ngẫu hứng của tác giả trên cơ sở sự xuất hiện của ba thực thể: trăng, nhái bén, lá sen và một thực thể không được gọi tên nhưng có mặt: ao/ hồ. Đôi mắt “hữu duyên” của thi nhân đã tạo tác nên bức tranh thiên nhiên thơ mộng, thanh bình, đáng yêu một cách ấn tượng.

          

Hoặc một phát hiện cũng đầy bất ngờ này:

 

Con bướm

Chờ hoa sen nở

Đuổi không bay

(33. Con mắt nghiêng)

          

Những phút giây hữu duyên của tạo hóa đã được một tâm hồn tinh tế, lãng mạn và vô cùng sâu sắc chụp bắt bằng một chữ “chờ”. Chữ “chờ” đã làm huyền diệu hóa một hình ảnh có thật: chú bướm bị hấp dẫn bởi màu sắc và hương thơm của bông hoa sen đang hé nở. Đó là sự hấp dẫn tự nhiên sinh học, nhưng cái thực đã trở nên thánh thiện bởi cặp mắt thi sỹ. Thi sỹ đã tạo nên chữ “chờ” đầy khao khát và chữ “đuổi” đẩy khao khát thành si mê: “đuổi không bay”! Từ hữu tình ngẫu nhiên thành hữu tình cố ý, nhìn chung đều là cố ý. Chính tâm hồn, trái tim mẫn cảm, giàu tình yêu cuộc sống đã khiến tác giả luôn chụp bắt được những trạng thái hữu tình, hữu duyên rất đẹp của cuộc sống.

          

Nhìn thế giới bằng cặp mắt hữu duyên, nên nhiều lúc thi nhân không dấu nổi cảm xúc lâng lâng, hạnh phúc được hòa trong nhịp sống thường hằng bất tận:

 

Màu hoa chừng rất vội

Hồn ta cứ la đà

Chắp tay làm chiếc lá

Ngỡ mặt mình đơm hoa

(Nghi Tàm)

          

Những câu thơ lãng mạn và nồng nàn xúc cảm yêu thương này chỉ có thể viết khi trái tim người ta đặt tất cả tình yêu và niềm tin vào con người và cuộc sống: 

 

Theo em lạc vào vườn xưa

Nơi các thiên thần đã ngự

Nhớ thương cả lúc anh về

Lòng em cũng thành xứ sở

(Anh về)

          

Dễ hiểu vì sao tác giả luôn thể hiện sự nâng niu những dấu hiệu của sự sống, của mùa màng:

 

Trong mơ thấy ban mai thành lúa vàng ươm

Và dấu chân người gieo thành hạt thóc

Những hạt thóc bồi hồi đang mọc

Rễ yếu mềm líu díu xuống phù sa

(Tiếng gọi từ những cánh đồng)

 

Trân quý những quan hệ tình cảm giữa người với người, đặc biệt là người lao động:

 

Đồng đất quê ta hao hao những mặt người

Một sớm dậy nhìn ta thân thiết thế

Người với người như mưa xuân bên nhau

(Tiếng gọi từ những cánh đồng)

          

Đó là lý do thơ Mai Văn Phấn rất giàu cảm xúc yêu thương, hòa ái. Nhà thơ thường hóa thân vào một sinh linh nào đó: một bông hoa, một con cá, một hạt nước li ti, một dòng sống, một đám rêu ẩm mốc, thậm chí một tảng đá để “trải nghiệm” cảm giác được là “chúng sinh” - vạn vật để thụ hưởng cảm giác được hòa mình, được sẻ chia:

 

Tôi lỡ quên một điều gì quan trọng

Trong bông hoa tường vi đứng lặng dưới chân cầu

Thôi không sao! Những hạt nước li ti vừa bảo thế

Chân trời đang ấm dần, chỉ còn run nhè nhẹ

Tôi hay con cá vừa trườn qua khe đá

Vội hớp lấy những bọt mưa phùn giăng kín mặt sông

(Dấu hiệu mưa xuân)

          

Cả một thế giới ấm áp thương yêu, hòa ái được tái hiện dưới ánh sáng của “nhân duyên”!    

          

2.1.2. Những chiêm ngẫm về các mối quan hệ trong “nhân duyên”

 

Các mối quan hệ trong “nhân duyên” không hề đơn giản, không chỉ có “hữu duyên” mà còn có “nghịch duyên”, không chỉ có “tương duyên” mà có “ác duyên”…, nghĩa là cũng có nghịch lý, tương phản trong sự vận động, tồn tại. Đây có lẽ cũng là tất yếu, thực tiễn không chỉ có sự vận động xuôi chiều, bởi nhiều “tương duyên” ở trường hợp này lại tạo ra “nghịch duyên” cho đối tượng khác. 

 

Gió ra đi

Giam tôi ở đây

Bằng chiếc lá

 

Nhìn khung cửa và chắn song

Tôi biết không thể bẻ gãy

Những đường gân lá

   

Đây là lời của chú côn trùng. Gió làm chiếc lá rơi xuống lấp kín miệng lỗ (cửa nhà của chú). Chú côn trùng bị giam trong “nhà mình” như trong nhà tù. Với chú côn trùng, khung cửa và song cửa sổ nhà tù chính là đường gân của lá mà chú “không thể bẻ gẫy được”, chỉ còn cách đợi chiếc lá úa vàng, tự hủy đi thôi, sự sống của chú côn trùng phụ thuộc hoàn toàn vào chiếc lá. Hóa ra, sức mạnh đâu phải chỉ ở núi cao, sông sâu, núi lửa hay thác lũ…Sức mạnh nằm ở sự tác động, ảnh hưởng. Với chú côn trùng, một chiếc lá cũng đủ để thành “nhà tù” của chú. Không nên coi thường/ đánh giá thấp trước những đối tượng, dù đó là ai, cái gì. Hãy cúi xuống, quan sát và tập trung suy nghĩ.

 

Bầu trời quay trên đầu

Mình thành vật cản

Xung quanh cảnh vật đang lớn

Đang già.

(…)

Quá khứ

Tương lai

Nhìn nhau hai phía

(Tĩnh lặng, 16)

 

Mình sẽ thành “vật cản” nếu không hữu duyên hay tương duyên. Không có gì bất biến, không có gì không thay đổi, không có gì là vĩnh hằng, mọi vật/ hiện tượng đều có “hai phía”… Nhiều khi “nghịch duyên” này để mang tới “nhân duyên” mới.

          

Nhận thức về sự nghịch – thuận của “Duyên”, nhà thơ có lúc hình dung vũ trụ này không có mưa, không có nước, nói đúng hơn, không giữ được nước, khi ấy trái đất như một sinh thể thiếu máu:

 

Trong đất khô gốc cây đang hấp hối

Sợi rễ tua tủa – thiếu máu – chới với

Ở đâu la đà, mướt xanh?

Ở đâu quang hợp?

(…) Gió ở đâu?

Chim chóc đâu?

Ai lay mạnh gốc cây một lúc

Chỉ cần nghĩ thế

Nước mát lan đi khắp cơ thể anh

(Vừa sinh ra ở đó.22)

          

Nghịch lý có khi diễn ra ngay trong/ trên cùng một sự vật, hiện tượng, dẫu vậy, vẫn có một sự hài hòa bên trong nào đó khiến sự sống vẫn nảy sinh, cái đẹp vẫn tồn tại, thậm chí còn tạo ra sự khác biệt mang tính thẩm mỹ:

 

Phía khác xù xì

Nhựa hai bên cũng khác

Trắng Và đen

Nhắm mắt thở nhẹ

Cây đang lớn

Hai nửa cây cùng một màu hoa

Nở chi chít dọc lưỡi rìu ánh sáng.

(Vừa sinh ra ở đó. 38)

 

Đánh giá giá trị của sự vật cũng vậy, không cứ ở vẻ ngoài, hình thức, định lượng mà ở tính hữu ích, là lương duyên mà chúng đem lại cho sự vật, sự việc khác:

 

Rơi vào lòng giếng

Những hạt nước nhỏ

Mang ánh sáng xanh

(…)

Mùa diệp lục

Sinh từ hạt nước

Hình những quả trứng xanh

Dâng

Tràn lên mặt đất

(Tĩnh lặng. 17)

           

Mai Văn Phấn có bài thơ viết về tình bạn, độc đáo trong tư tưởng Thiền:

 

Một chiều bạn không tới

Chim gọi hoài trong cây

Hồn lá rơi loạng choạng

Thiếp đi trên đất dày.

 

Mùa thu trên tay gày

Nâng chén trà lẻ bạn

Bóng mình trong lòng chén

Mà hồn ngoài chân mây

(Bạn – tặng Trương Nam Hương)

          

Không thể phủ nhận tâm trạng u buồn vì “lẻ bạn”, vắng bạn của chủ thể trữ tình: da diết khắc khoải trong “tiếng chim gọi hoài”, bối rối, choáng váng trong hình ảnh “hồn lá rơi loạng choạng”, cô đơn đến cực điểm trong cảm giác “Bóng mình trong lòng chén/ Mà hồn ngoài chân mây”. Tâm trạng này có lẽ, để nói về cuộc chia ly vĩnh viễn, kẻ còn người mất, âm dương cách biệt. Đó là tiếng khóc trước sự ra đi của tri kỷ, là nỗi đau đớn, thậm chí có cái gì như khủng hoảng trong tâm hồn của người ở lại, nhưng tất cả đã được “phong” lại bằng ứng xử điềm tĩnh: Một chiều bạn không tới. Chữ “tới” trong trường hợp này để tránh chữ “đến”, “đi” và “đến” dễ trở thành cặp phạm trù ngược nghĩa diễn đạt sự còn – mất, chia ly. Chữ “tới” đánh lạc hướng, “tới – lui” là cảm giác gặp gỡ, đoàn tụ. Mà tác giả cũng định diễn đạt ý này đấy: Bóng mình trong lòng chén/ Mà hồn ngoài chân mây. Không gặp, không đoàn tụ ở cõi này ta sẽ gặp/ đoàn tụ ở cõi khác. Hiện tại chỉ là cái “bóng” vì “hồn” đã ở bên bạn bạn ơi. Tác giả thể hiện một tình bạn sâu sắc theo kiểu “Bá Nha – Tử Kỳ” hay bộc lộ tâm thái “tùy duyên”? Có lẽ cả hai. Tâm thái “tùy duyên” đã giúp tác giả viết nên những câu thơ xúc động bậc nhất về tình bạn, tình tri kỷ. 

 

Cũng viết về nỗi đau khác, nhưng các tiếp cận của người hành thiền, tâm thiền thì thật sâu sắc, mới lạ:

 

Lưỡi dao sắc lia ngang

Sát gốc cỏ

Những vong hồn còn mắc kẹt

Cùng ngọn cỏ

Vươn tay

Lá cỏ vun thành đống

Làm thức ăn gia súc

Hoặc phơi khô

Vong hồn nào chưa được bay lên

Còn trong vòng nghiệt ngã

Cơn đau đớn sát sinh

Hoang hoải mùi hăng sữa cỏ

“Ra vườn chùa xem cắt cỏ)

          

Biết đâu, có những vong hồn cô đơn nương trong cỏ không còn nơi trú ngụ. Ngạc nhiên hơn, tác giả còn ngửi thấy mùi “sữa cỏ” hoang hoải trong không gian. Tâm hồn phật giáo của Mai Văn Phấn bộc lộ đậm sắc nhất trong hình ảnh thơ: Cơn đau đớn sát sinh/ Hoang hoải mùi hăng sữa cỏ. Phật giáo quan niệm giết loài bốn chân mới phạm luật sát sinh. Mai Văn Phấn nhìn những bụi cỏ xanh non bị xén ngang gốc cũng đau xót nỗi niềm sát sinh. Vẫn biết, trong quy luật sinh – diệt, loài này chuyển sinh trong loài khác, nhưng cái cảm giác nhìn những lớp cỏ tươi non bị xén cắt, tâm hồn hành thiện không khỏi xót đau. Nhà thơ đã hóa thân thành cây cỏ, hóa thân vào những hồn bơ vơ để cảm nhận nỗi đau của quy luật sinh – diệt. Thiền tính trong thơ Mai Văn Phấn thể hiện trong những nhận thức sâu sắc này.

 

Như vậy, vạn vật trong thế giới này đều có nhân duyên tồn tại, chúng có mối liên hệ ràng buộc hữu cơ, chúng nằm trong một chỉnh thể hài hòa, chỉ cần một tác động, ảnh hưởng lên một “bộ phân” nào đó của chỉnh thể, lập tức sẽ gây hậu quả lên các “bộ phận” khác:  

 

Trái đất bắt đầu vòng quay khác

Nhanh hơn

(…)

Đàn ong thợ bay về

Không còn chiếc tổ và con ong chúa

Hương đất lạ hạt mưa

 

Con ngựa trời say tốc độ

Lảo đảo bám chặt nhành cây

Đại bàng xoải cánh đỉnh núi

Biển dồn nghẹn thở cửa sông…  

(Tỉnh dậy trong mưa)

          

Từ nguyên cớ “trái đất bắt đầu vòng quay khác”, tạo nên vô số chấn động, không chỉ là chấn động liên đới mà là chấn động kép, chấn động chồng chấn động. Những thói quen, quy luật bị đảo lộn, phá bỏ, hệ lụy sẽ ập đến, khó mà tưởng tượng nổi…Mai Văn Phấn đúng là nhà sinh thái học khi ông viết những câu thơ này. Nói đúng hơn, từ  nhận thức về chữ “nhân duyên” trong triết học phật giáo, tác giả đã nhìn/ cảm nhận và tái hiện thế giới tự nhiên bằng mối liên hệ logic. Điều đáng kể là, mối liên hệ chặt chẽ mang tính quy luật ấy được diễn tả bằng những hình tượng thơ sống động và đầy mỹ cảm.

Đọc thơ Mai Văn Phấn luôn được thức ngộ trong nhận thức và cả tri thức. Tác giả giúp ta khám phá lại, tri nhận lại những điều giản dị ở ngay xung quanh, mắt ta vẫn bắt gặp hàng ngày nhưng dễ bỏ qua, coi như điều tất yếu hoặc giả, nhỏ bé đến mức không đáng bận tâm. Song, với cách phát hiện mới, ở chiều sâu tư duy phân tích, khái quát, Mai Văn Phấn đã đem lại cho sự vật, hiện tượng những tầm vóc mới.

 

2.2. Xây dựng triết lý hạnh phúc theo tư tưởng “buông bỏ”, “giải thoát” thuận theo tự nhiên

          

2.2.1. “Buông bỏ”, thuận theo tự nhiên sẽ thấy bình an, tự tại

          

Trong Thiền đạo có tư tưởng “buông bỏ” và “giải thoát”. “Buông bỏ” là làm cho rơi rụng đi những ham muốn hiện tại, ham muốn làm người ta thỏa mãn vui thú trước mắt nhưng tiềm ẩn đau khổ thống thiết về sau, nó xui khiến người ta mải chạy theo, tìm kiếm, chiếm đoạt và phải đánh đổi, bị lệ thuộc đến kiệt cùng. Vì vậy, “buông bỏ” chính là “giải thoát”. “Buông bỏ” không dễ bởi đó ham muốn, là nhu cầu cần thỏa mãn, những nhu cầu xuất phát từ bản năng luôn rất mạnh mẽ, vì vậy, tội lỗi và đau khổ luôn đi liền với ham muốn. Để “buông bỏ” cần nghị lực và quyết tâm, cần kiên trì và lý trí, Thiền Đạo gọi là “tu” (rèn, luyện một cách tập trung, bền bỉ) vì là chế ngự tâm. Có lẽ vì vậy mà đạo Thiền gọi là “hạnh buông bỏ”. Thiền sư Ajahn Chah khuyên: Buông bỏ ít bình an ít, buông bỏ nhiều bình an nhiều, buông bỏ hoàn toàn bình an hoàn toàn. Tuy nhiên, cần hiểu bản chất của “buông bỏ”. “Buông bỏ” không đồng nghĩa với mất, tiêu diệt mà là chế ngự, thay thế và hoán đổi. Chế ngự “tham, sân, si” và thay thế/ hoán đổi bằng an nhiên, vô thường, thanh tịnh.

 

Sự am tường văn hóa Thiền khiến Mai Văn Phấn thể hiện sâu sắc triết lý “buông bỏ”, “giải thoát” với tinh thần thuận theo tự nhiên này.

 

Thôi đừng dỗ cỏ lên trời

Khi tan mộng mị biết ngồi với ai

Dấu chân đừng hóa chông gai

Nép vào bóng xế dũa mài hoàng hôn

Ta về đổ bóng xuống vườn

Cho xanh tươi lại từng cơn úa vàng

Ghé môi vào miệng thời gian

Cho hơi thở mọc vô vàn cỏ non

(Tản mạn về cỏ)

          

Tinh thần “buông bỏ” được thể hiện thật thú vị và thâm sâu qua một loạt chi tiết, hình ảnh biểu tượng. “Cỏ”- sinh vật vốn chỉ quen thuộc với môi trường/ không gian sống là mặt đất. Cỏ sẽ “hạnh phúc” nhất, tươi tốt nhất khi bám rễ chắc vào đất, nhưng nếu một ngày nghe theo “dụ dỗ” nào đấy, chạy theo ham muốn “lên Trời” – không gian hoàn toàn đối lập với mặt đất, thì ôi thôi, bất hạnh sẽ tới liền. Như vậy, lời khuyên “đừng dỗ Cỏ lên trời” chính là lời khuyên về “buông bỏ”, chế ngự những ham muốn thái quá, bất thường, nghịch dị. Đó thật ra là những “mộng mị”, không phải khát vọng hay lý tưởng gì cả. Sẽ rất trớ trêu nếu một ngày “tan mộng mị” trở về với thực tiễn cô đơn, tủi hổ “biết ngồi với ai”. Cũng như vậy, để đạt ham muốn, có khi gieo nghiệp chông gai, vì vậy, lời khuyên “dấu chân đừng hóa chông gai” cũng là “buông bỏ”, buông bỏ chông gai kẻo đến một ngày “nép vào bóng xế dũa mài hoàng hôn”. Chỉ còn hoàng hôn nối tiếp hoàng hôn – tàn lụi trong bế tắc, buồn khổ. Bài thơ có 8 câu thì nửa đầu, 4 câu đưa ra cái lý của buông bỏ, nửa sau 4 bốn câu đưa ra cái lý của thuận theo tự nhiên: Ta về đổ bóng xuống vườn/ cho xanh tươi lại từng cơn úa vàng/ ghé môi vào miệng thời gian/ cho hơi thở mọc vô vàn cỏ non. Hình tượng “đổ bóng xuống vườn” vừa cụ thể vừa khái quát, hãy chăm chỉ, cúi xuống, cần mẫn với chính “điều kiện”/ năng lực/ khả năng của mình, trong cái “vườn” của mình, sẽ thấy được hạnh phúc “làm mới” lại “vườn mình”: “xanh tươi lại” cái đã “úa vàng”. Kiên trì, bền bỉ, đam mê “ghé môi vào miệng thời gian”, sẽ lột xác thành tươi mới, ngọt ngào: “hơi thở mọc muôn vàn cỏ non”. Bài thơ mà giống như bài “kệ” của một thiền sư. Khi người ta biết buông bỏ, biết chế ngự những tham vọng, biết thuận theo tự nhiên sẽ hoán đổi từ đau khổ, bất hạnh sang hạnh phúc.

 

Nỗi niềm đem thả trong cây

Qua sương giá đến rạng ngày trổ hoa.

Lỡ vin vào bóng mây qua

Lỡ nghe đắm đuối tiếng ma gọi đò.

Đầu kim tựa có ai chờ

Khâu ta vào với ỡm ờ xửa xưa.

Hoa ngâu vừa lịm cuối chùa

Nhẩn nha tiếng mõ bỏ bùa tiếng chuông.

(Gom nhặt cuối mùa)

          

Hạnh “buông bỏ”, thuận theo tự nhiên thường có kết “nhân - quả” đẹp: Nỗi niềm đem thả trong cây/ Qua sương giá đến rạng ngày trổ hoa, bởi, đó là kết quả của kiên trì và nỗ lực, của miệt mài và hợp quy luật. Cây được chăm sóc, nâng niu, kỳ vọng thì ắt sẽ vượt qua được mọi thời tiết, cho dù là “sương giá” và sẽ “trổ hoa” hạnh phúc. Hi vọng được đáp đền và niềm vui được nhân lên, giọng thơ cho cảm nhận rằng chủ thể trữ tình đã tìm ra được cách ửng xử thuận theo tự nhiên, kiên định tự tâm, bằng lòng với thực tại và hạnh phúc đã đến. Song, không phải ngay từ đầu, chủ thể đã có sự tĩnh tâm, kiên định ấy đâu. Thật ra cũng đã từng: Lỡ vin vào bóng mây qua/ Lỡ nghe đắm đuối tiếng ma gọi đò. Từng theo đuổi, từng “đắm đuối” với những ham muốn mà ngỡ đó là vinh quang, hạnh phúc. Nhưng, như đã thấy, sự tỉnh ngộ đã nhận ra đó chỉ là “bóng mây”, là “bóng ma”, là ảo ảnh, ảo giác. Cả khi có “điểm tựa”, thì điểm tựa ấy cũng là tựa trên “đầu kim” mà thôi. Khi người ta “ngộ giác” về buông xả, tâm hồn được giải thoát khỏi “tạp niệm”, khỏi tham – sân, bỗng thấy nhẹ nhàng thơ thới, chuyển sang say sưa với một hạnh phúc mới, hạnh phú trong an nhiên, buông xả: Hoa ngâu vựa lịm cuối chùa/ Nhẩn nha tiếng mõ bỏ bùa tiếng chuông.

 

Hoàng hôn như một cửa chùa

Hư không trên ngón tay vừa đi qua

Ta ngồi nhập định cùng hoa

Thành chuông ai thỉnh ngân nga cỏ mềm

Cầm tay  gió dắt vào đêm

Mà hồn xanh lỡ để quên cuối trời

Dấu chân xin cát chớ vùi

Cho ta về lại luân hồi kiếp sau.

(Qua hoàng hôn)  

          

Có thể coi đây là lời kết cho sự lựa chọn mục tiêu lối sống, cách ứng xử của chủ thể trữ tình: Nhìn thấy “cửa chùa” trong “hoàng hôn” cuộc đời, nhìn “hoàng hôn” mà thấy “cửa chùa” chứ không thấy bóng tối đang khép lại. Một cái nhìn an nhiên và thật lạc quan. Hóa ra, hoàng hôn không khép lại mà mở ra thế giới khác, bước vào cửa ấy là được phiêu du trong cõi an lạc, tịnh không, làm bạn với hoa cỏ, với gió lang thang đến cuối trời. Và thật thú vị, nếu chọn cách cách sống ấy, thì đâu phải “đời là bể khổ”. Thi sỹ “năn nỉ” được “đầu thai” để sống tiếp cuộc đời nhẹ nhõm này: Dấu chân xin cát chớ vùi/ Cho ta về lại luân hồi kiếp sau. Một thái độ sống tích cực và thật văn hóa! Và đây là hạnh phúc đích thực khi đã tìm thấy triết lý sống lấy “buông xả” – thuận theo tự nhiên làm nguồn cảm hứng sống:

 

Hương hoa vừa đến cùng ta

Mắt chờ ấm cả sương sa cuối chiều

Xuân về trong gió liêu xiêu

Nỗi buồn đã hé ít nhiều lá non

Đài hoa hay bóng trăng tròn

Lung linh buông xuống lối mòn bàn tay

Mùa hoa gom cả ánh ngày

Cho xanh hồn lá nhẹ bay về trời

Thấy mình là gió thoảng thôi

Còn trăm năm giấu nụ cười trong hoa.

(Hoa ngọc trâm)    

          

2.2.2. Hạnh phúc trong sự sẻ chia, thương yêu, hòa ái

          

Dường như trong triết lý “buông xả”, đã chứa đựng cả sự sẻ chia, thương yêu, hòa ái. Bởi tinh thần của “buông xả” là tinh thần độ lượng, khoan dung. Người biết sẻ chia thường rất khoan dung, và đương nhiên, người khoan dung cũng là người giàu tình thương yêu, hòa ái. Như ở trên đã đề cập, trong thơ Mai Văn Phấn chữ “nhân duyên” với những sắc thái “khởi duyên”, “hòa duyên”, “tương duyên” được tác giả tập trung nhấn mạnh, và đây chính là cốt lõi trong cách tác giả thể hiện các cung bậc của hạnh phúc, trong đó có cung bậc của sẻ chia, thương yêu, hòa ái.

          

Đây là cảm xúc của anh trai khi em gái đi lấy chồng:

Đưa dâu qua chiếc cầu tre

Lòng anh chạm lá chua me chạnh buồn

Nắng run trên cánh chuồn chuồn

Ngõ sâu như sợi chỉ luồn buộc quanh

Tuổi em như hoa dành dành

Hương bay đã mắc tơ mành nhện giăng

Ao người ta nước dung dăng

Vầng trăng em cất lên bằng vó thưa

 (…)

Đường trơn cây cỏ dang tay

Quang trành gót nhỏ đỡ gày đồng xa.

Em ơi từ độ vắng nhà

Cá rô kho mặn ăn ba bốn ngày!

Màn lưa thưa gió heo may

Chắc là mẹ ngủ đêm nay chập chờn…

(Em gái đi lấy chồng)

          

Nếu không có câu bộc bạch “Lòng anh chạm lá chua me chạnh buồn” và giới thiệu từ nhan đề bài thơ, không ai nghĩ đây là tấm lòng của anh trai mà cứ ngỡ đó là suy nghĩ và tâm trạng của lòng mẹ. Thương em còn nhỏ dại, trong trắng như bông hoa “dành dành” đã sớm bước vào cuộc sống lo toan gia đình. Thương lo cho tương lai của em sẽ vất vả lam lũ. Cảm xúc của ông anh trai mà giống như mẹ già từng trải xót con. Từ thương em sang thương mẹ, vì đoán chắc mẹ cũng sẽ thương em. Sự hóa thân để diễn tả lòng mẹ như thế này cho thấy tấm lòng chia sẻ, yêu thương của chủ thể trữ tình – anh trai ở đây thật đáng trân trọng: Màn lưa thưa gió heo may/ Chắc là mẹ ngủ đêm nay chập chờn

          

Chắc chắn khi người đàn ông ấy làm chồng, làm cha, những tình cảm thương yêu cũng sẽ nồng nàn trong chia sẻ:

 

Cơn sốt thiêu con trên giàn lửa

Cha cũng có thể thành tro nữa

Thuốc đắng không chờ được rồi

Giữ tay con

                   Cha đổ

Ngậm ngùi thả lòng chén vơi…

          

Con sốt mà lòng cha cũng “thành tro” (!). Nhưng con à, “thuốc đắng” mới “đã tật”. Ép con uống thuốc mà cha như thấy có lỗi. Để con trưởng thành, cha và con chắc còn nhiều lần cho nhau uống “thuốc đắng” nữa. Chuẩn bị cho tinh thần này là trái tim đầy trách nhiệm và tình thương yêu của người cha:

 

Khi lớn bằng cha bây giờ

Đáy chén chắc còn bão tố.

(Thuốc đắng)

          

Thương cảm, sẻ chia, trân trọng với những người trong gia đình tưởng dễ nhưng thật ra vô cùng khó. Nghĩ là dễ bởi đó là những người thân yêu nhất, gần gũi nhất, chia sẻ và dành tình thương yêu lớn nhất cho họ tưởng đó là tất yếu? Không đâu, đó lại thường là những đối tượng dễ bị “bỏ quên” nhất, bị đối xử xuề xòa nhất, vô tâm nhất. Trong xúc cảm, điều này càng đúng, người ta thường dễ “rung rinh” trước cái mới. Vì vậy, cảm xúc chia sẻ, trân trọng như một sự biết ơn trước người bạn đời như thế này (cho dù biểu hiện rất lặng lẽ) cũng thật trân trọng. Ở đây không chỉ người được chia sẻ hạnh phúc mà người chia sẻ cũng thấy mình thật hạnh phúc:

 

Em thở êm như biển lặng tờ

Hay đâu có bão ở trong mơ

Tay em, anh khẽ nâng trên ngực

Như kéo con thuyền lên cát khô.

(Em và biển)

          

Sự nhịn nhường, rộng lượng vốn ở bậc cao hơn của sẻ chia, thông cảm cho thấy tinh thần giác ngộ tư tưởng “buông thả” đã ở cảnh giới cao:

 

Anh là vỏ chát em là nhân

Quấn quýt heo may chuyển ngọt dần

Hôn nhau thành quả rơi trên cỏ

Xanh ủ trên đầu chín xuống chân.

(Quả thu)

 

Sự nâng niu này nữa cũng thật đáng trọng. Trân trọng người mình yêu thương mới là thước đo cao nhất của tình yêu:

 

Chọn bao cánh diều thuở nhỏ

Chỉ thấy chiếc hài cùng chân

Anh đưa tay mình lên nhé

Thành đôi mà vương bụi trần.

(Tìm hài cho em)

          

Có thể bắt gặp rất nhiều, rất nhiều lần những cuộc đối thoại, những lần tự thú trước bạn đời, trước tình yêu

 

Em nói bâng quơ: Mùa xuân rồi cũng tàn!

Anh ghì lấy bao nỗi lo toan đôi vai em gày nhỏ

(…) Nỗi lo toan ơi! Nỗi lo toan sao mà bay bổng thế!

Em có thấy anh nhẹ như cánh chuồn hay cánh hoa không nhỉ

Anh  hỏi thầm đôi vai gầy nhỏ của em.

(Thương em)

          

Hình ảnh một con người đầy trách nhiệm, âm thầm, tinh tế, sẻ chia, cảm thông và trân trọng những tình cảm, mối quan hệ trong gia đình cho thấy vẻ đẹp của một tâm hồn và nhân cách văn hóa. Với những người này, họ thấy hạnh phúc được sẻ chia và yêu thương.

 

Không quá khó hiểu khi người có tình yêu thương, chia sẻ với những người trong gia đình cũng là người có trái tim dễ hòa nhập với cộng đồng, với thế giới xung quanh. Trái tim dễ xúc động và tâm hồn nhậy cảm là sợi dây kết nối họ với cộng đồng. Họ nhậy cảm với những thua thiệt, khổ đau. Đã có khá nhiều bài thơ xúc động viết về sự hi sinh anh dũng của mười cô gái ở ngã ba Đồng Lộc, nhưng những dòng thơ của Mai Văn Phấn vẫn có sự lay động riêng:

 

Tháng này gương lược về đâu

Chân trời để xõa một màu cỏ non

Các cô nằm lại bên cồn

Những chùm bồ kết khô giòn trong cây

(Mười nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc) 

          

Đó là xúc cảm khác giới, trái tim của người đàn ông khóc trước những người phụ nữ ra đi giữa tuổi thanh xuân. Chung quanh nấm mộ các cô người ta trồng rất nhiều cây bồ kết, người đến viếng cũng rất hay mua gương lược đặt trước mộ các cô như muốn làm điều gì đó thể hiện sự thương yêu, kính trọng tuổi thanh tân đã hi sinh vì nghĩa lớn. Hai hình ảnh “chân trời xõa một màu cỏ non” và “những chùm bồ kết khô giòn trong cây” đã bất tử tuổi thanh xuân của mười cô gái anh hùng và cũng thể hiện cảm xúc mãi mãi tiếc thương những anh hùng liệt sỹ.

          

Và đây là một lần chia sẻ khác: 

 

Nước mắt những người đàn bà góa bụa mà đông thành tinh thể, thì làng tôi có bao nhiêu hòn Vọng Phu. Nhưng nước mắt chỉ thầm như sương muối, tháng ngày tàn héo xuân xanh, rồi bay về trời tụ thành đám mây hồng hoang. Đám mây  thành những người đàn ông mơ màng… mà không, họ đang thao thức trên đầu ta từng mảng rêu phong. Nỗi đau tận cùng bỗng nhiên thánh hóa… Thương các chị mòn mỏi khóc bao đêm mà trời chỉ trả cho nước mắt đôi lần. Nước mắt bay ngang trời bầm tím!

(Nước mắt)

          

Mai Văn Phấn từng là lính, ông tận thấu hi sinh của những người đà bà có chồng ra trận ở góc độ bản thể: Nước mắt! Họ thầm khóc đêm đêm, nếu nước mắt hóa thành tinh thể thì họ đã thành các nàng “Vọng phu”. Đó là sự chia sẻ đầy văn hóa. Việt Nam có biểu tượng nàng Vọng phu xưa đã hóa đá vì nhớ thương chồng. Đó cũng là biểu tượng cho lòng thủy chung son sắt. Mai Văn Phấn khai thác lại biểu tượng ấy nhưng ở nét nghĩa mới: Nước mắt kết tinh thành Vọng phu!

          

Những chia sẻ của Mai Văn Phấn luôn xuất phát từ những suy nghiệm sâu xa trên cơ sở của hiểu biết về những quy luật tự nhiên và xã hội. Vì vậy, những cảm thông, chia sẻ của nhà thơ thường thẳm sâu triết lý nhân sinh. Chẳng hạn, nhà thơ chia sẻ với Nguyên Hồng, nhà văn của những kiếp người cực khổ: Sá gì những lọc lừa/ Sá gì thân bèo bọt/ Đem nước mắt làm mưa/ Tưới trái đất khô khốc/ Nghiệp văn chương cực nhọc/ chở bao nhiêu kiếp người/ Chúa cũng đã một thời/ Chết như người hành khất (Nguyên Hồng vào nhà thờ). Từ việc sẻ chia với người dân quê mình, tác giả khái quát về nỗi vất vả của người nông dân – những số phận gắn bó với ruộng đồng và vẫn chưa thôi lam lũ:    

 

Những nỗi buồn dâng sương sớm lên môi

Chiếc cày chìa vôi sục tìm trong đất

Lật lên bao kiếp người theo vết chân trâu.

…Mặt người hay chiếc lá trước cơn giông!

(Tiếng gọi từ những cánh đồng)

          

Từ “buông xả” đến chia sẻ và thương yêu, đó là hành trình của trái tim thông thái. Trái tim ấy được chỉ dẫn bởi nhận thức đã ngộ giác về những quy luật thường hằng.

          

2.2.3. Hạnh phúc trong an nhiên, khiêm cung trước vạn vật muôn loài

          

Đây cũng là khía cạnh quan trọng của “buông xả” và “giải thoát”, cũng là “điểm dừng”của hành trình đi tìm chân lý cho mục đích sống và hành động. Khiêm cung và an nhiên dường như là lựa chọn của nhà thơ và đó là con đường của đạo hạnh, của hạnh phúc nơi trần thế này.  

 

Giấc mơ giăng kín thinh không

Hạt mưa ngái ngủ ngã chồng lên nhau.

Cánh chim vừa liệng dao cau

Dòng sông đã ngậm bã trầu phù sa.

Vẫn nghe tiếng gọi ê a

Chồn chân tóc lại mở ra làm buồm.

Bàn tay đã đẫm hương thơm

Dìu em về lại con đường rung cây.

(Du ca)

          

Đúng là chuyến du ca thần tiên, không phân biệt thi nhân ở đâu, dưới dạng thức nào trong không gian đầy sức sống ấy. Mọi vật vui đùa rộn rã, hồn nhiên phô ra vẻ quyến rũ của mình. Trong thế giới hạnh phúc ấy, dường như không có bi quan, buồn nản, thậm chí, nếu có “chồn chân” thì “tóc lại mở ra làm buồm”. Khi tâm hồn luôn mở ra để đón nhận mọi âm thanh, cung bậc cảm xúc của đời thì khi ấy người ta đã đạt tới trạng thái an hòa tuyệt đối.

          

Trong trạng thái an nhiên, an hòa ứng xử sẽ thật thân ái, khiêm cung:    

 

Hạt mầm

Tôi

Chung giấc mơ tách vỏ

(Nhờ trận mưa - 29)

      

“Hạt mầm” (bất kể là hạt gì) và “Tôi”, hai đối tượng trong Đạo Tự nhiên đều như nhau trong khát vọng sống, khát vọng được “tách vỏ” để hiện hữu trong thế giới hữu sinh. Trong Đạo Tự nhiên, không có sinh linh nào quan trọng hơn sinh linh nào , dứt khoát không! Nhận thức khiêm nhường này thể hiện thái độ sống nhu hòa thuận theo tự nhiên. Thích nghi, tôn trọng, nhịn nhường, đó là cách ứng xử thông minh của người hiểu thấu lẽ công bằng vốn là quy luật cân bằng của tạo hóa.  

 

Những cung bậc của thái độ khiêm nhường đã tạo nên sự tinh tế hiếm thấy trong những cảm nghiệm trước sự vận động của tạo hóa. Chẳng hạn như khoảnh khắc “chạm” này:

 

Tôi đuổi không kịp

Chỉ chạm

Làn khói mỏng

(Xuân đi - 39)

         

Một sự hóa thân kỳ diệu: “Tôi” và Mùa xuân như bằng hữu, như cố nhân, có thể, còn như “tình nhân” đang hẹn hò. Xuân đến rồi đi, “Tôi” muốn níu kéo nhưng Xuân đi vội đến mức “tôi đuổi không kịp”, chỉ “chạm” được vào “làn” áo sương “khói mỏng” của Xuân thôi. Chỉ có 9 từ mà dựng nên được một không gian thật hữu tình: cuộc chia tay vội vã của đôi bạn/ cặp uyên ương/ tri kỉ. Đã có nhiều tác phẩm thơ ca nói về bước đi của thời gian hay hoài tiếc nét đẹp của thiên nhiên, Mai Văn Phấn góp một cách nói mới: nàng “Xuân” kiều diễm chỉ được tái hiện qua cảm giác chiếc áo của nàng thướt tha như “làn khói mỏng” và sự quyến rũ của nàng thể hiện qua sự trân trọng, tiếc nuối của chủ thể “tôi” khi vội vã ngăn cản mà “không kịp”. Mùa xuân qua mau không được diễn tả bằng chính đối tượng mà gián tiếp thông qua “hành động” của “tôi”- đối tượng thưởng thức. Thêm nữa, bước đi của mùa xuân được ảo hóa như một sinh thể trong mối quan hệ giữa hai chủ thể “Tôi – Xuân”. “Tôi” hoàn toàn bị động trước sự chủ động đến và đi của Xuân. Cách/ thái độ khiêm nhường này là cách ứng xử phổ biến, quen thuộc trong thơ Mai Văn Phấn. 

 

Ngả lưng

Chạm tiếng chim

Vội co chân lại

(Mắc võng trong vườn - 89)

 

Hoặc tư thế lui vào một góc nhường chỗ cho hương hoa lan hỏa: 

 

Nửa đêm

Lan vào phòng

Tôi lui góc giường

(Hương mộc lan - 283)

 

Nghiêng mình trước cái đẹp, nép mình để được giao hòa, cả hai tư thế đều thể hiện lòng ngưỡng mộ, trân quý, nâng niu, khao khát giữ lại khoảnh khắc diệu huyền vạn vật của thi sĩ. Cái dáng vẻ ngần ngại, ngập ngừng của nhà thơ cũng bộc lộ điều đó:

 

Ngập ngừng chưa hái

Như có người đẩy

Sau lưng

(Quả chín - 124)

   

Trước một quả chín, diễn ra cuộc “giằng co” thầm trong suy nghĩ giữa bản năng thôi thúc chiếm dụng, sở hữu với lý trí hãy nâng niu, gìn giữ. Chữ “ngập ngừng” thật hay, “chưa hái” chứ không phải “không hái”, song, diễn biến tiếp theo cho ta biết, lý trí đã chiến thắng: như có người đẩy/ sau lưng. Để chiến thắng mình ngay trong những hành vi rất nhỏ cũng đâu dễ, như hái một quả chín. Ít khi người ta “nghĩ” nhiều thế, băn khoăn nhiều thế, nhất là sức hấp dẫn từ bản năng, nhưng, chính từ những hành vi nhỏ ấy mà thấy được sự rèn giũa của một tầm văn hóa.      

 

Ngậm ngụm nước

Sợ

Con ong rời nhụy hoa

(Yên tĩnh)

          

“Ngậm” chứ không phải “uống” hay “húp”. “Ngậm” rồi mà vẫn sợ phát ra âm thanh tiếng động, vì “Sợ/ Con ong rời nhụy hoa”. Thái độ ứng xử này, chỉ có thể có ở một sự thức tỉnh, giác ngộ cao về “duyên”. Đó không còn chỉ là phép ứng xử thông thường mà là triết lý về thái độ sống: cái Đẹp có muôn dạng thức, sự sống cũng muôn dạng thức. Con ong trong nhụy hoa là một cấu trúc đẹp trong vạn vật. Hãy tôn trọng và bảo vệ, hãy gìn giữ và nâng niu, đằng sau mỗi cái đẹp, sự sống đều ẩn chứa một giá trị. 

 

Trắng ngần

Rửa tay sạch

Vẫn ngần ngại

(Gọt củ đậu - 124).

 

Cuộc sống muôn hình, muôn vẻ, con người tồn tại và phát triển không chỉ trong các mối quan hệ xã hội mà trước hết là trong mối quan hệ với tự nhiên chứ không phải là những thực thể độc lập, tồn tại cách biệt với thế giới bên ngoài. Trong thơ Mai Văn Phấn, tác giả đặc biệt chú trọng đến mối quan hệ giữa con người – vũ trụ - cội nguồn. Lịch sử tiến hóa loài người dù phát triển ở giai đoạn nào thì tự nhiên, vũ trụ vẫn đóng vai trò nền tảng, con người chỉ là một thành tố và thành tố ấy cần góp phần giữ gìn sự hài hòa, ổn định mà mẹ thiên nhiên đã tạo ra. Người đọc luôn thấy con người xuất hiện trong tư thế hòa mình với thiên nhiên, đắm mình trong vũ trụ bao la, làm cho thiên nhiên ấy trở nên sống động, có hồn. Sự hòa hợp giữa con người và ngoại giới được Mai Văn Phấn hình dung như một cái gì hết sức nhỏ bé, dung dị ngay trong đời sống thường nhật chứ không phải trong ý niệm cao xa. Đó là sự giản dị tự nhiên giống như mạch nước nhỏ hồn nhiên, đàng hoàng chảy giữa lòng núi vây: 

 

Mạch nước nhỏ trong núi

Chảy đều

Xuống lòng hồ không tiếng động

          

Trong lòng hồ rộng lớn, đàn cá bình thản bơi khi chú bói cá vẫn đậu ở ngọn cây gần đó. Dòng nước đổ xuống mặt hồ cũng chỉ làm lan một vòng sóng nhẹ, “đáy hồ vẫn lặng im”:

 

Đàn cá bơi

Mực nước giữ yên

Con chim bói cá vẫn đậu

Trên ngọn cây gần đó

Nơi họng nước đổ xuống

Vòng sóng lan nhẹ

Mờ dần

Đáy hồ lặng im

Núi theo mặt nước chuyển động.

 

Chiêm ngẫm “thái độ” lặng im của núi cao, của hồ sâu, tác giả nhận ra chính nơi “lặng im” khiêm nhường kia mới thường là nơi có sức bao chứa lớn nhất, hùng vĩ nhất.    

                                                    

Phác lên giấy

Từng nét chì mảnh

Nét rủ xuống làm lá

Đưa lên là hoa.

(Tĩnh lặng 41)

 

Khi đã ngộ giác rồi người ta chủ động “vẽ” tranh theo ý muốn, nhẹ nhàng, thanh thoát, “vẽ” cuộc sống như vẽ bức tranh kia vậy, đơn giản, khoáng đạt, tinh tế trong sự an nhiên, bình thản của tâm hồn.

 

Tiểu kết:

 

Mai Văn Phấn là người gặp được “nhân duyên”trong Phật giáo, tiếp thu tư tưởng Phật giáo, nhà thơ đã xây dựng lên một thế giới hóa sinh mang màu sắc Thiền. Thơ Mai Văn Phấn ẩn chứa nhiều chiêm nghiệm ảnh hưởng của triết lý mang màu sắc Thiền: Đó là triết lý về cấu trúc “nhân duyên” tạo nên thế giới, triết lý về “buông xả” và “giải thoát” để con người hướng đến những giá trị thiện lương, xây dựng cuộc sống, cách ứng xử hòa ái với thiên nhiên và cộng đồng xã hội. Đó là những triết lý rất giàu tính nhân văn và minh triết. 

 

Có thể nói, Mai Văn Phấn đã cảm ngộ được những triết lý nhân sinh sâu sắc của Thiền đạo để đưa những tư tưởng minh triết và thiện lương ấy thông qua thơ ca để vào cuộc sống, góp phần xây dựng thang giá trị đạo đức, thẩm mỹ cho cuộc sống vĩnh hằng.

 

 

 

 

Chương 3:

“THIỀN” TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN NHÌN TỪ

PHƯƠNG DIỆN HÌNH THỨC

 

          

“Thiền” như một đặc điểm, phẩm chất thẩm mỹ sẽ được khảo sát cả ở phương diện hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Luận văn sẽ khảo sát, đánh giá đặc điểm này của thơ Mai Văn Phấn qua các phương diện: Tổ chức bài thơ, dòng thơ; Hình ảnh và Ngôn ngữ thơ.

 

3.1. Hình thức ngắn gọn, tối giản của bài thơ, dòng thơ

 

Thơ Mai Văn Phấn không chỉ ảnh hưởng Thiền ở nội dung tư tưởng mà ở cả hình thức. Tư tưởng của Thiền là “tập trung cho cái cốt lõi”, vì vậy tính khúc triết, chặt chẽ với sức khái quát cao chính đặc trưng của Thiền. Xu hướng tối giản trong cấu trúc bài thơ là biểu hiện đầu tiên mà luận văn đề cập cho thấy đặc điểm này.

 

Mai Văn Phấn thường làm thơ theo thể tự do, không bị bó buộc hoặc áp lực về số lượng câu, chữ. Song, nhìn tổng thể, dung lượng mỗi bài thơ của ông thường ngắn, thậm chí rất ngắn, ngắn cả số lượng câu trong bài và ngắn ở cả số lượng chữ trong một dòng thơ.

          

3.1.1. Bài thơ có cấu trúc tối giản

          

3.1.1.1. Tối giản của tứ thơ

          

“Tứ” (thi tứ) là cảm xúc thơ. Thơ bắt đầu bằng cảm xúc, nghĩa là bài thơ bắt đầu bằng tứ thơ. Cấu tứ là cách tổ chức, sắp xếp để nội dung cảm xúc được thể hiện sinh động, sâu sắc và hấp dẫn.

 

Vì được tổ chức bằng “tứ” nên nắm bắt cấu tứ rất khó khăn, giống như nắm bắt  cảm xúc vậy. Đối tượng cảm xúc (tứ thơ) có thể xác định được song tìm cấu tứ thì không dễ chút nào. Đó là lý do nhiều thi phẩm có những cách hiểu rất khác nhau. Diễn biến của cảm xúc thường dàn trải, cung bậc của cảm xúc cũng không hề đơn giản, có thể đang vui lại buồn, đang chán nản bồng hi vọng, lạc quan v.v…, đó là lý do mạch cấu tứ của thơ trữ tình khó nắm bắt. Bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử chẳng hạn, mặc dù tứ của bài thơ là cảm xúc về thôn Vĩ Dạ (như nhan đề đã gợi ra), tuy nhiên, khi đọc bài thơ người ta thấy đối tượng cảm xúc có cả thiên nhiên thôn Vĩ và người thôn Vĩ. Song, tất cả để ẩn dấu một nỗi niềm, nỗi khắc khoải của tình yêu đơn phương nơi Hàn Mặc Tử. Cấu tứ đan xen giữa thực và ảo, chung và riêng, ngoại cảnh và nội tâm… mỗi khổ thơ là một tâm trạng cảm xúc khác nhau làm cho thi phẩm trở thành thách đố nghệ thuật. Tính dàn trải, ngẫu hứng dường như trở thành đặc trưng của thơ trữ tình nên bài thơ có thể kéo dài thành nhiều khổ và đi tìm cấu tứ của bài thơ cũng trở thành điểm nhấn thú vị trong quá trình tìm hiểu, bình giá tác phẩm.

 

Tứ trong thơ Mai Văn Phấn thường là một ý tưởng hoặc một ý niệm. Thơ Mai Văn Phấn giàu cảm xúc, nhưng không thể phủ nhận, thơ ông nổi bật hơn trong ý tưởng, những ý tưởng triết lý, đúc kết, khái quát về hiện tượng, quy luật trong đời sống tự nhiên, xã hội. Trong cái nhìn của Mai Văn Phấn dường như không có cái gì, hiện tượng nào không trở thành quy luật.

 

Nhìn chung, mỗi bài thơ chỉ tập trung cho một ý tưởng với mục tiêu triết lý, khiến thơ ông rất gần với thơ châm ngôn, triết ngôn. Đó là lý do, bố cục của bài thơ rất chặt chẽ, không  “dây cà ra dây muống”, chúng tôi gọi đó là “cấu trúc tối giản” của tứ thơ. Mỗi bài thơ của Mai Văn Phấn, vì vậy, thường phải đọc một mạch, không đưa đẩy ê a, không phải thơ “điệu ngâm” (từ dùng của Trần Đình Sử), cũng không phải thơ “điệu nói” (từ dùng của La Khắc Hòa), đó là thứ thơ để “đọc thầm”, để tự mình đối diện với mình và với thơ, trong trạng thái tập trung vào suy nghĩ. Đó là nguyên nhân khi trích dẫn thơ Mai Văn Phấn không thể/ khó cắt rời mà phải dẫn toàn bộ, bởi, đó là một “dòng suy nghĩ”. Có thể lấy bất cứ dẫn chứng nào để chứng minh cho điều này:

 

Tuổi hão huyền trong nắng sớm

Bóng mình che vạt cỏ non

Ban trưa ngồi trong hư thực

Bóng về dưới chân vo tròn

Trăng rằm chẳng sáng được hơn

Thân xác vẫn dừng bên cửa

Bóng cứ muốn hòa với gió

Mặc ảnh trên tường mốc meo.

(Bóng mình)  

          

Cái tứ “bóng mình” được diễn đạt bằng mạch suy tưởng, triết lý. Đọc một mạch cho đến kết thúc bài thơ người đọc nhận ra tác giả không cảm xúc về cái “bóng” của mình mà suy tư về nó. Cái bóng khi ấy mang tính biểu tượng cho sự hư vô của thân phận, kiếp người.

          

Tuy nhiên, trong trường hợp của Tĩnh lặng hay Vừa sinh ra ở đó thì sao? Tập Tĩnh lặng chỉ có tên của tập thơ còn tên các bài thơ là số thứ tự: 1; 2; 3…cho đến số 45. Tập Vừa sinh ra ở đó có một số bài có tên (Vô tình trong nắng sớm, Lên chùa, Từ nhà mình, Mùa hoa mận, Nơi cội nguồn thế giới), một số bài khác cũng sử dụng cấu trúc đánh số thứ tự, như: Tỉnh dậy trong mưa, Quang phổ. Luận văn cho rằng, cách đặt tên bài bằng số thứ tự là một kiểu cách tân. Nếu là đoạn thì không cần đánh số, hơn nữa, không đặt tên bài phải chăng là cách nhà thơ “che dấu” tứ thơ thường được gợi mở ở nhan đề. Thêm nữa, tứ của mỗi bài tương ứng với một số thứ tự đều độc lập, khác nhau và mỗi bài như vậy chỉ tương ứng với khoảng trên dưới 50 từ.

 

Một số bài thơ là tập hợp của nhiều khổ, nhiều khúc, nhiều nhịp, nhưng được tổ chức theo kiểu song hành. Đây là kiểu kết cấu liên kết các đoạn thơ trong một bài thơ có nội dung tồn tại độc lập và ngang bằng nhau, đều có đóng góp như nhau vào việc thể hiện chủ đề tư tưởng của toàn bộ tác phẩm, tạo nên chỉnh thể của bài thơ. Những đoạn thơ này thường được đặt song hành với nhau và được tác giả đánh dấu theo thứ tự như trong bài Cửa Mẫu.  Mỗi phân đoạn lại đề cập đến một chặng đường sống của con người nhưng tất cả đều tập trung thể hiện một thế giới phồn sinh, sự sống đang sinh sôi, nảy nở và căng tràn dưới bàn tay che chở của Mẫu, của người mẹ thiên nhiên.

          

3.1.1.2. Tối giản cách thức biểu đạt

          

Càng về sau xu hướng dùng cấu trúc ngắn gọn càng rõ nét, ấy là khi tác giả vận dụng cấu trúc thơ Haiku làm cấu trúc chính. Để tối giản về mặt hình thức,  nhà thơ tối giản chủ trương co ngắn dung lượng tác phẩm của mình bằng nhiều thủ pháp. Đầu tiên là giảm thiểu số câu trong một bài thơ, thay vì là những bài thơ dài, những câu chuyện được kể bằng thơ, là sự xuất hiện của những bài thơ với dung lượng ngắn gọn hơn, chỉ khoảng hai ba khổ. Rồi ngắn hơn nữa: Mưa bụi: Bẻ củi khô/Bàn tay/Ấm/; Lập xuân:Tát nước/Từng gàu/Ruộng cạn.

 

Cùng với sự ngắn gọn về ngôn từ,  nhà thơ tối giản còn nhạy bén trong việc lựa chọn hình thức trình bày nhằm tạo cảm giác tối giản. Những kết cấu thơ bậc thang, những câu thơ được “tung” các từ lên trang giấy, những kết hợp thơ và họa… đã tạo nên những khoảng trắng, những khoảng không gian rời rạc, rộng mở, tạo ấn tượng mạnh về thị giác: Tôi là cây cỏ/ Ánh sáng kiếp trước /Vẽ trên toan trắng /Thân bất động/ Trong tầng bẹ lá/ Chờ sợi rễ đâm ngang (tĩnh lặng 38).

 

Mai Văn Phấn đã tối giản đến mức khước từ mọi hình thức biểu nghĩa của ngôn ngữ, đầy hiện đại khi kết hợp các loại hình nghệ thuật thị giác với nhau, tạo nên một diện mạo độc đáo, tối giản mà nhiều ý nghĩa.

          

Tiếp theo, để tạo nên một tác phẩm tối giản, ngoài tối giản về hình thức, các nhà thơ  còn thực hiện sự tối giản về đối tượng. Tác phẩm tối giản không đề cập đến nhiều đối tượng, không có chỗ cho nhiều đối tượng. Đối tượng được xuất hiện cũng không phải là những đối tượng phức tạp, nhiều chi tiết hay cầu kì trong miêu tả. Đôi khi đối tượng được đưa vào tác phẩm chỉ qua một màu sắc, dáng vẻ, tính chất, cái tên. Hay nói cách khác, đối tượng được đưa vào tác phẩm tối giản chỉ là một khoảnh khắc, một lát cắt của sự vật, hiện tượng, đời sống: Xuân tràn/ Nghỉ tay/ Hứng xô nước đầy/ Chưa biết sẽ làm gì (thả), Nước kiệt/ Mình đi qua lòng / Bao giờ nước lên /Chắc sẽ được báo trước (Tĩnh lặng 40)

 

 Mai Văn Phấn  hạn chế tối đa việc trực tiếp bày tỏ cảm xúc trong thơ. Thơ ca vốn được coi là tiếng nói trữ tình, nhưng tình cảm cảm xúc lại là thứ chẳng thể nói ngắn gọn được. Vì thế, trong các sáng tác tối giản, nhà thơ thường tránh việc bộc lộ tình cảm, tâm tư, thể hiện quan điểm hay ý kiến của mình. Hạn chế nhưng không có nghĩa các tác phẩm thơ tối giản không có cảm xúc. Tiếng nói trữ tình ấy ẩn lẫn chính trong việc lựa chọn, sắp xếp từng con chữ, trong những khoảnh khắc đời sống được tái hiện vào thơ: Màu xanh lá mạ/ Đọt mầm /Nõn chuối/ Bãi dâu non/ Mùa diệp lục/ Sinh từ hạt nước/ Hình những quả trứng xanh/ Dâng /Tràn lên mặt đất (Tĩnh lặng 17), Khát vọng đầu năm/ThèmTiếng chim/Từ bầu trời.

 

Trong thơ Mai Văn Phấn lựa chọn thu hẹp trường nhìn vật lý. Không còn là những không gian thiên nhiên hùng vĩ trùng điệp, ngút ngàn, rộng lớn hay cảnh đường xa xứ lạ. Thay vào đó là những khoảng không gian nhỏ xinh thân thuộc nơi vườn nhà, góc sân, hàng giậu… Không gian vật lý thu hẹp lại nhưng là để nhường cho không gian tâm tưởng, cảm xúc. Cảnh vật thiên nhiên thân thuộc gần gũi, nhỏ bé đơn sơ nhưng lại có sức mạnh gợi ra nhiều điều rộng lớn mới mẻ như những gì Đôgen từng nói: “Phải chăng con đường đến sự giác ngộ chính là từ tiếng trúc đưa, sự tỏa sáng tâm hồn chính trong những cành hoa đào nở”.   

Sự cô đọng, ngắn gọn trong thơ  Mai Văn Phấn được thể hiện cụ thể như:  có câu thơ chỉ khoảng ba từ, đặc biệt có những câu chỉ khoảng một từ nhưng là một bài thơ hoàn chỉnh, ví như một “sinh linh” (chữ của ông dùng khi nói về thơ) và mang số phận riêng. Mỗi câu thơ ngắn gọn tạo nên bài thơ ngắn gọn nhưng đầy ý nghĩa đủ “dữ liệu” cho bạn đọc liên tưởng, nhận biết không gian trước mặt. Thơ  của Nhà thơ Mai Văn Phấn ngắn gọn, đa nghĩa, gần với nghệ thuật sắp đặt hiện đại. Đó là cách nhà thơ mã hóa những “bí mật của khoảnh khắc” (Lê Hồ Quang), tạo những phút “ngưng thần” (Nguyễn Thanh Tâm) để làm nên một diện mạo mới, độc đáo trong thơ Việt đương đại. Ví như trong "hoa giấu mặt", ta bắt gặp những câu thơ ngắn gọn ấy:

 

Xuân:

 

Tiếng chim ríu rít

Khói hương

Chỉ nhớ cầu lá non

(Giờ tụng niệm)

 

Hạ:

 

Gió

Thổi từ đâu

Dâng hương sen nơi này

(Đỉnh núi cao)

 

Thu:

 

Bóc trái hồng

Vừa chín

Sợ người thỉnh chuông

(Thu đầy)

 

Đông:

 

Đắp chăn

Sót lại đám lá

Run rẩy ngoài cửa sổ

(Trời rét)

 

Mỗi bài thơ gồm những câu thơ rất ngắn gọn nhưng đã thể hiện rõ nét « cảm xúc 4 mùa" rất ý vị, xa xôi và đượm chất tịch lặng của Thiền.  Tuy lấy cảm xúc từ thiên nhiên, nhưng  nhà thơ đã khéo phả  những rung động rất hiện sinh theo lối hậu hiện đại gắn với cội nguồn truyền thống. Qua những vần thơ, ta thấy hồn thơ Mai Văn Phấn nóng bỏng hiện thực ý tại ngôn ngoại.

 

Lặng lẽ rửa mặt

Bờ bãi

Cò vạc bay xao xác

(Sáng sớm ở quê ngoại)

 

Chưa chắc cha  đã dùng

Con vẫn gửi

Mũ và cây gậy này

(Hóa vàng)

 

Nơi con chuột sập bẫy

Suốt đêm

Không con nào qua

(Bí ẩn) - để sợ mãi 

 

Không thể tin

Đám mây say đắm hôm qua

Đang làm mình ướt

(Nghĩ trong mưa) - để nhớ thời bao cấp?

 

Để sáng tác được những bài thơ cô đọng, khúc triết ấy người sáng tác phải có "tài", đồng thời phải có" chí" (kể cả Thi ngôn chí)... Mai Văn Phấn  có thể nói là có "đủ" tiêu chí này, nhưng vượt trên tất cả thi sĩ đã lồng rất khéo cái tư tưởng triết lý một cách kín đáo, tế nhị vào các câu thơ rất kiệm lời, không sa đà "thôi xao" kiểu "phu chữ", đã xây dựng được những hình tượng thơ đẹp, ý mới, tứ lạ:

 

Váy đỏ

Em dạo quanh cây Phượng

Chưa hé nụ

(Tháng giêng)

 

Thu mình trên ghế

Vẽ bầu trời

Không có chỗ cho mây

(Tôi)

 

Con Diệc

Lò mò trong tiếng mõ

Tưởng tượng

(Phật tính)

 

Cứ như thế, những câu thơ ngắn gọn ấy của Mai Văn Phấn với vài nét chấm phá tạo ra những bức tranh (đời) có đủ tình - cảnh - sự nơi thi sĩ đang sống và đi qua... Cái sáng tạo và đóng góp của Mai Văn Phấn ở mảng thơ ngắn gọn câu  là ông đã khéo lồng những ý tưởng (tâm tư tình cảm) vào trò chơi chữ nghĩa với ngôn ngữ thơ tinh luyện cùng với sự gieo vần, gối âm tạo thành nhạc điệu tự nhiên của chim trời, mây gió, hoa lá cỏ cây cùng gót hài đỏ, tiếng mõ, tiếng chuông chùa của bờ bãi đồng quê gieo những âm vang khi bay bổng, khi trầm lắng trong lòng người đọc. Với những câu thơ ngắn gọn Mai Văn Phấn ra đời đúng lúc thơ đang khủng hoảng (hệ quả của bùng nổ thông  tin, của thời "ra ngõ là gặp nhà thơ", lạm phát thơ vô tội vạ, chạy theo hình thức, coi nhẹ nội dung tư tưởng...). Nhà thơ đã mở một lối đi riêng, rộng thoáng mà vẫn cao sang lịch lãm giữa cái thế gian đang đầy "mây xám /biển đen/ cá ngoi mặt nước" nhưng "con cá ấy đã  lớn" và "quẫy vào biển sóng":

                                                  

Đêm mơ cá quẫy

Tiếng ao vỡ

 

Tóm lại, với những câu thơ ngắn gọn, khúc triết  Mai Văn Phấn có hình thức gần với thơ haiku của Nhật, nhưng mang nội hàm, hồn cốt thuần phác thơ Việt và đã tạo những cảm thức hiện sinh đậm nét. Những câu thơ ngắn gọn ấy Mai Văn Phấn tuy chịu ảnh hưởng nhưng không lệ thuộc vào haiku truyền thống Nhật Bản, cũng không đi theo lối của haiku Việt. Thơ ngắn gọn, khúc triết của ông có nhiều tìm tòi mới mẻ, mang màu sắc riêng biệt. Mỗi bài thơ  là ánh chớp trong đêm tối, vừa đủ lóe sáng cho người đi nhận biết đoạn đường phía trước mà dấn bước; hoặc như vài ba đồ vật xếp lại gần nhau để gợi những liên tưởng về nhân sinh, nhân thế, về thiên nhiên, vũ trụ... Những câu thơ ngắn gọn của Mai Văn Phấn là một hiện tượng văn học tối giản độc đáo của văn học đương đại nước nhà. Một mặt kế thừa tinh hoa nghệ thuật phương tây, tiếp thu tinh thần haiku Nhật Bản, một mặt nhà thơ không ngừng sáng tạo, cách tân, đưa vào thơ dấu ấn dân tộc, giàu truyền thống, đậm triết lý thiền.

 

Nhà nghiên cứu La Khắc Hòa khi nhận định về sự đổi mới thơ ca Việt Nam đương đại đã nhận định, đại ý rằng có hai xu hướng cách tân thơ hiện nay về mặt hình thức. Hướng thứ nhất, tối giản, co ngắn câu thơ: Hướng thứ hai, kéo dài câu thơ như câu văn xuôi. Mai Văn Phấn cũng thử nghiệm lối thơ văn xuôi, song, ông thành công hơn với thơ tối giản. Hình thức ngắn ấy quả là rất phù hợp để ông chuyển tải những triết lý giàu tính Thiền.

 

3.1.2. Dạng thức câu vắt dòng

 

Là thứ thơ hướng nội, vì vậy, dạng thức câu thơ vắt dòng cũng được Mai Văn Phấn sử dụng nhiều để tổ chức câu thơ. Câu thơ vắt dòng, về hình thức, tiếp tục tạo nên dòng thơ ngắn, song, khi đọc vẫn phải đọc một mạch. Câu thơ dài dùng để diễn  mạch suy tư, hoặc một tưởng tượng không dứt: Em mơ một con thuyền/ trôi trên cao/ có thể nhìn thấy đáy/ tưởng tượng anh nhón chân đến gần (Buông tay cho trời rạng). Ngay ở dạng thức thơ văn xuôi, tác giả vẫn sử dụng hình thức vắt dòng này:

 

Len qua những cái bẫy giăng trong giấc mơ, cùng ban mai về bên khung cửa. Ánh ngày phủ vạt cỏ vừa thức dậy. Mở sân chơi trên mặt đất buồn. Khoảnh khắc sớm mai chỉ đến một lần, không thể chọn những trò chơi cũ. Tôi dang tay cho nắng mới thả xuống từng sợi dây cáp, Trườn qua vực sâu tới bờ bên kia.

 (Một ngày)

          

Dạng thức văn xuôi nhưng cấu trúc bên trong vẫn là câu ngắn hoặc làm cho ngắn bằng cách vắt dòng để diễn đạt những lập luận trong suy nghĩ. Những lập luận tập trung làm sáng tỏ một tư tưởng: trong một ngày có bao nhiêu việc xảy đến, đẹp có, vui có, nhưng cũng có cả nỗi buồn, những thất vọng, vì vậy, cần chủ động “đón nắng mới”, tìm ra “trò chơi mới” nếu không muốn lặp lại nỗi buồn chán từ những trò chơi cũ!     

 

Khi cần diễn giải một giả thiết hoặc một biện luận, tác giả thường sử dụng hình thức thơ “văn xuôi”, vì sẽ có cơ hội mở rộng câu, tuy nhiên, người đọc vẫn thấy cấu trúc “nén” trong diễn đạt, đó là cách diễn đạt kiệm lời với ngôn ngữ và hình ảnh đa nghĩa, giàu sức khái quát:

  

“Những con kiến chữ khổng lồ bu lấy tôi, ngang nhiên đi lại qua những lỗ hổng cơ thể. Rối loạn, chồng chất, đè nặng... khiến tôi nhận thức loài kiến cũng là lũ giết người. Phải tìm cách đuổi chúng đi hay xếp thành hàng lối. Giờ chỉ còn ngữ nghĩa mới điều khiển được, nhưng mọi khái niệm đã bị lu mờ. Tôi thử phát âm từ “đen” để gọi lũ kiến đen. Lập tức các loài kiến đủ sắc màu tụ lại, làm nên nghĩa của từ “bu đen”

(Di chứng)

 

Có lúc, Mai Văn Phấn khai thác hình thức nguyên khối như một tác phẩm văn xuôi như trong bài “Dạy trẻ con” dưới đây:

 

“Lũ trẻ xóm tôi biết quá nhiều về người lớn nên sớm mắc những căn bệnh tuổi già. Đêm đêm chúng thường tụ tập, thì thào trong những khu vườn vắng, phân công đứa canh gác để đứa khác đào hầm, chôn giấu những đồ vật cũ nát, đề phòng lúc biến động. Chúng hay hốt hoảng lúc hoàng hôn chuyển màu, lúc sóng vỗ, lúc quả vỡ… Chúng rủ nhau ăn kiêng đề phòng cao huyết áp, mỡ máu, u xơ tuyến tiền liệt… Ít thấy chúng gào khóc ăn vạ. Có đứa nghẹn ngào: “Trẻ con nước mắt chảy vào trong!”. Tôi và những người khác bàn nhau diễn trò cho chúng xem, xếp đồ hàng, xây cung điện, kéo thuyền giấy trên sân gạch... Đánh trận giả, vờ lăn ra chết. Bọn trẻ bẻ lá đặt lên mũi những người giả chết. Những chiếc lá bất chợt héo rũ, úa vàng. Một đứa tự tin, sảng khoái: Đi một ngày đàng học một sàng khôn. Chúng cười vang lúc chúng tôi đứng dậy. Tôi mụ mị rồi ngất ngư về chỗ của mình. Bàn chân chập chững đặt lên mặt đất từng bước dại”.

          

Ở bài thơ này, tác giả như kể lại một câu chuyện bắt gặp trong đời sống, giống như hình thức truyện ngắn mini đang phát triển hiện nay. Cô đọng và ngắn gọn, nhưng đã tái hiện một thực tiễn trong đời sống xã hội hiện nay rất đáng suy ngẫm về “lớp trẻ” và “lớp già”, về sự “đổi vai” rất nghịch lý: trẻ con thì “già hóa” vì học đòi và cả đua đòi, người già thì “trẻ con hóa” bằng sự níu kéo kệch cỡm…

          

Ở đoạn thơ dưới đây, tác giả dùng cấu trúc nén ấy để suy tưởng và chiêm nghiệm  về những tư tưởng mang màu sắc thiền:

 

“Không lưới bảo vệ. Dưới kia chỉ cọc nhọn, mỏm đá chông gai…Ý nghĩ đang dò dẫm cùng thân xác, gió đã cuốn tôi lên lật ngược lá cây. Lạc đường bay đám mây lớn. Một con chim nhẫn nại làm tổ trên nhành cây chao lắc, con sâu thản nhiên gặm chiếc lá đang rớt xuống trong luồng sáng chân trời”.

(Một ngày)

          

Còn đây là những dòng suy nghĩ miên man của người cha về con của mình, song, dường như đây còn là một cuộc độc thoại trong tưởng tượng về mong ước, khát vọng gửi cho thế hệ tương lai:

 

“Cha muốn con thức dậy trước bình minh. Khi bàn chân đêm lướt qua dàn hoa leo trước cửa. Những bông hoa cuống quýt sắc màu, mở từng cánh khẽ khàng, khuôn mặt đêm dần sáng. Mặt trời còn run rẩy trong vạt áo nồng nàn của đất, sau những tấm rèm cửa, trong hốc cây hay trong tiếng nước xuýt xoa ong óng mặt ao nhà.

Con là nơi dòng sông từ giã những ngôi sao, nơi con thú hoang gọi rừng thay lá, nơi khoảng trống hóa thành thời gian. Khoảnh khắc ấy là minh mẫn và ngái ngủ, là bột nhão sắp đông thành bánh, là những gì cha làm chưa kịp phía cha mơ...”

(Lúc mặt trời mọc)

 

Những tình cảm mà nhân vật trữ tình dành cho đứa con của mình được diễn tả tinh tế qua lời thơ trang nhã và một giai điệu tha thiết, nồng ấm. Những tư tưởng triết lí thâm trầm, những tình cảm tha thiết, mãnh liệt đã được thể hiện không phải chỉ bằng những hình ảnh, những biểu tượng nên thơ mà còn bằng cả nhạc tính của câu thơ, bài thơ, một thứ nhạc tính được tạo nên không dựa trên nguyên tắc láy âm (phối âm, hiệp vần và hài thanh) như trong thơ cách luật cổ điển, mà dựa vào sự trùng điệp. Dòng cảm xúc, suy tưởng của nhà thơ chảy tràn qua câu thơ một cách tự nhiên như không gì ngăn cản nổi. Độ dài ngắn của câu thơ, đoạn thơ luôn luôn thay đổi với nhiều sắc thái biểu cảm khác nhau. Khái niệm dòng thơ đã không còn ý nghĩa trong kết cấu bài thơ. Chính vì vậy, sự xuất hiện những câu thơ, đoạn thơ đã trở thành một hiện tượng phổ biến trong thơ văn xuôi, trong đó thủ pháp liên tưởng so sánh giữ một vai trò quan trọng trong việc liên kết các từ ngữ, mở rộng biên độ câu thơ với nhiều sắc thái biểu cảm hòa quyện vào nhau. Hình thức câu thơ rất gần với câu văn xuôi, bộn bề chi tiết, hình ảnh.

 

Ở những bài thơ văn xuôi này vẫn bắt gặp cấu trúc liền một khối, tứ thơ là một ý tưởng thống nhất và duy nhất, tác giả tập trung nghĩ sâu về vấn đề: Hạnh phúc gia đình: 

          

“Chiều nay em cho con bú. Ngoài kia từng chân kiến đang đi, từng cánh ong vẫn còn đang vỗ. Nơi anh về trú ngụ là ô trời xanh trong mắt em cười. Hạnh phúc nào bằng ta bên nhau thảnh thơi, như được xoải mình nơi chân đê cát mịn. Anh hôn lên ngực em căng đầy thơm mát, chiều ngọt ngào cánh cò cánh vạc, qua môi anh khẽ đậu xuống hồn. Căn phòng mình chẳng còn những bức tường bao quanh và không gian thành thời gian thánh thiện, khi anh mải mê nhìn vầng ngực em dâng đầy như biển, cứ thu mình tìm vào miệng con be bé xinh xinh...” 

(Em cho con bú)

 

 Như vậy, dù là thơ văn xuôi hay cấu trúc ngắn, thơ Mai Văn Phấn đều có chung đặc điểm là sự tối giản trong tổ chức bài thơ, câu thơ. Từ việc tập trung cho một ý tưởng, ý niệm trong tứ thơ đến cách diễn đạt lược bỏ những những “thôi xao” của cảm xúc, thơ Mai Văn Phấn, vì vậy, thiên về những chiêm nghiệm, triết lí về đời sống nhân sinh. Và suy tư ấy cũng chính là đặc điểm của triết lý Thiền.

 

3.2. Cách diễn đạt giàu tính ám dụ và biểu tượng

 

3.2.1. Diễn đạt bằng hình thức ám dụ

 

Khái niệm “Ám dụ” mà luận văn nói tới chính là hình thức ám chỉ hay còn gọi là “phúng dụ”. Để “ám dụ”, “Các hình tượng hoặc hình ảnh thơ kết hợp với nhau trong cấu trúc hoàn chỉnh để tạo nên sự liên tưởng tới ý nghĩa khái quát, trừu tượng trên cơ sở của ý nghĩa cụ thể” [5; tr 219]. Như vậy, “ám dụ” thường có hai nghĩa, nghĩa cụ thể và nghĩa trừu tượng, từ nghĩa cụ thể đến nghĩa trừu tượng là cả một trường liên tưởng, tưởng tượng. Nghĩa trừu tượng trong “ám dụ” thường có sức khái quát và có lõi triết lý. Chẳng hạn, câu ca dao: “Ta về ta tắm ao ta/ Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn” thì những hình ảnh/ hình tượng như: ao, ao ta, ao nhà, tắm, trong, đục … từ nghĩa cụ thể đã diễn tả nghĩa trừu tượng: đừng tham vọng những cao xa ở ngoài mình mà hãy quan tâm/ bằng lòng với những gì đích thực, gần gũi ở xung quanh mình. Cách diễn đạt “ám dụ” thường kết hợp cũng lúc nhiều thủ pháp nghệ thuật tu từ: so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, nói quá, tượng trưng… cùng các phép: láy, lặp, tăng cấp v.v… “Ám dụ” không chỉ tăng sức hấp dẫn mà còn cho phép diễn đạt những vấn đề khái quát với chiều sâu suy tưởng, triết lý. Kỹ thuật “ám dụ” có thể coi là trình độ cao trong các thủ pháp nghệ thuật tu từ.      

 

Không thể phủ định, thơ Mai Văn Phấn rất giàu ám dụ bởi, tác giả không có ý định dừng ở cảm xúc miêu tả mà luôn có ý thức đẩy cái cụ thể lên thành khái quát, triết lý. Vì vậy, bất cứ một hình ảnh, chi tiết nào trong thơ Mai Văn Phấn cũng cho phép người đọc nghĩ tới những nội dung ý tưởng cao xa hơn. Chẳng hạn, ở bài Thuốc đắng mà luận văn đã nhắc tới ở luận điểm trên, chi tiết và những nghĩ suy về chuyện cho con uống thuốc chữa bệnh đã được nâng lên, ám chỉ về giá trị của “thuốc”. Thuốc không đơn giản chỉ là “thuốc” như tên gọi, đó là giá trị, kết quả của tinh hoa chưng cất từ trời đất và con người: Con ơi! Tí tách sương rơi/ nhọc nhằn vắt qua đêm lạnh/ và những cánh hoa mỏng mảnh/ đưa hương phải nhờ rễ cay.  Những thủ pháp: hoán dụ, ẩn dụ, so sánh, phép láy …đã cùng phối hợp để diễn tả ý tưởng này. Đến hình tượng cuối bài thơ: Khi lớn bằng cha bây giờ/ Đáy chén chắc còn bão tố thì người đọc không còn nhận ra những thủ pháp nghệ thuật mà tác giả đã vận dụng, chỉ còn thấy hình tượng với ý nghĩa trừu tượng siêu hình: bão tố trong đáy chén!

 

Tính ám dụ với kỹ thuật sử dụng thủ pháp tu từ sắc sảo đã giúp Mai Văn Phấn tạo nên những hình tượng thơ độc đáo, vừa thâm sâu vừa xúc động lòng người: Đã nhuộm từ thuở nào/ lưng cáy màu áo mẹ/ Lòng ta là củ nâu/ Nhịp chày tim đang giã. Từ những gì rất cụ thể: lưng cáy, áo mẹ, củ nâu, nhịp chày, nhịp tim… qua thủ pháp so sánh kết hợp với trường liên tưởng ẩn dụ, tượng trưng tạo nên những hình tượng thật mới mẻ. 

 

Mai Văn Phấn thường không đi tìm hình ảnh xa lạ mà ngược lại, dùng chính những hình ảnh hết sức gần gũi, quen thuộc từ thiên nhiên đến cuộc sống hàng ngày để tạo nên những hình tượng ám dụ giàu sức khái quát triết lý. Chẳng hạn, chỉ riêng hình tượng Cỏ đã ám dụ cho rất nhiều nghĩa khái quát: Cỏ - ám dụ cho cái nhìn thực tế về thân phận bình thường, đơn giản: Thôi đừng dỗ cỏ lên trời/ Khi tan mộng mị biết ngồi với ai (Tản mạn về cỏ); Cỏ - ám dụ về sức sống bền bỉ: Hoa tàn cây vẫn còn đau/ Hương thơm quyến luyến trên đầu cỏ xanh (Kinh cầu ban mai); Cỏ - ám dụ về cái bé nhỏ, thơ ngây: Tuổi hão huyền trong nắng sớm/ Bóng mình che vạt cỏ non (Bóng mình); Cỏ - ám dụ về cách sống đơn giản, vô tư, hồn nhiên: Vợ tôi bảo muốn chữa bệnh đau đầu/ Phải hồn nhiên như cây cỏ/ Về thôn quê thấy cỏ ngút ngàn (Sống hồn nhiên) v.v... Để tạo nên hình tượng ám dụ, các kỹ thuật cơ bản mà Mai Văn Phấn thường sử dụng là ẩn dụ kết hợp với hoán dụ và tượng trưng. Với cách diễn đạt giàu tính ám dụ, tác giả đã tạo nên những ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc: “Tháng ngày gương lược về đâu/ Chân trời để xõa một màu cỏ non” (Mười nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc). “Gương” và  “lược”, đặc biệt là hình ảnh “xõa màu cỏ non” đi liền với “gương lược” gợi ra mái tóc phụ nữ và đó là mái tóc của tuổi đời còn rất trẻ, xanh “màu cỏ non”. Thêm nữa, hai chữ “chân trời” còn gợi ra không gian rộng lớn, sự xuất hiện mái tóc “xõa” ở chân trời tạo nên hình ảnh mái tóc khổng lồ, không phải chỉ có một mái tóc mà nhiều mái tóc kết lại thành một hình tượng lớn. Cả một thế hệ trẻ, rất nhiều người hi sinh khi tuổi đời còn rất trẻ. Tác giả đã dựng tượng đài về mái tóc của mười cô gái hi sinh nơi ngã ba Đồng Lộc, cũng là biểu tượng bất khuất của tuổi trẻ Việt Nam trong cuộc kháng chiến giữ nước.

 

Trong bài Mũi tên bóng tối tác giả dùng hình ảnh mũi tên để ám dụ cho sự đột phá mãnh liệt và dũng cảm: "Từ tưởng tượng/ Và niềm khát vọng/ Tôi rút những mũi tên/ Ra đi tìm đích cho ngày". Đây là cách nhà thơ thể hiện khát vọng sáng tạo, khát vọng đổi mới thi ca của mình. Và thông qua hình ảnh ánh sáng của những ngọn đèn xuất hiện trên nền bóng tối, thi nhân đã thể hiện niềm hy vọng, niềm tin vào sự thắng lợi của công cuộc cách tân này: "Khi cúi xuống dưới chân hoàng hôn/ Thấy bóng tối đã xếp dày hơn trước/ Chợt phát hiện thấy rất nhiều lỗ thủng/ Những ngọn đèn vừa thắp trên sông".

          

Thơ Mai Văn Phấn phong phú ẩn dụ, chất chứa suy tưởng và đầy bất ngờ. Nhưng những ẩn dụ trong thơ Mai Văn Phấn không phải là những biểu tượng bất biến, cố định, chết cứng, mà nó sinh thành cùng kinh nghiệm, cảm giác của chính tác giả trong quá trình sáng tạo. Do đó, khi nhà thơ nói đến đất, nước, ban mai, ngọn lửa, bầu trời, cỏ cây, vách đá, trăng sao… thì đó không phải là những biểu tượng sẵn có mà là cách nhà thơ cảm nhận về thế giới.

 

Có thể nói, ám dụ nghệ thuật là phương thức nghệ thuật chủ đạo tạo nên diện mạo thơ Mai Văn Phấn. Không ít người đọc có cảm giác về “những trạng thái dịch chuyển mơ hồ, những phức hợp cảm giác mong manh, sự tương giao lạ lùng giữa hình ảnh, âm thanh, đường nét, sắc màu…”  trong thơ Mai Văn Phấn. Nhà thơ không sử dụng chọn lọc sự chuyển đổi các giác quan thông thường mà ông thường dùng hình ảnh phối kết âm thanh, màu sắc để tạo nên trong tâm thức người đọc những cảm giác và suy tư đa dạng, đa chiều về các đối tượng cảm xúc khác nhau, như : cái đẹp huyền ảo của thiên nhiên, những giá trị của cuộc sống và đạo đức, cả những dự cảm bất an trước những thay đổi mà con người chưa kiểm soát được. Bài Ghi ở Vạn Lý Trường Thành, nhìn công trình vĩ đại mà người xưa đã dựng lên, đằng sau sự thán phục, tác giả chỉ chia sẻ với những vất vả của mồ hôi và máu của bao người đã đổ xuống. Để có được những công trình vĩ đại là sự hi sinh âm thầm của biết bao nhiêu chiếc lưng còng”, của biết bao đôi chân tiến về phía trước: Còng lưng đẩy nắng đi/ Chồn chân đẩy gió đi/ Miễn sao gần được bông hoa/ đang mởn mơ trong gió lớn.

 

Cách diễn đạt giàu tính ám dụ này từng tạo nên cảm giác về thế giới ảo”, siêu thực trong thơ Mai Văn Phấn, nhất là trong những tác phẩm sáng tác ở chặng sau 1995. Ấy là khi những kỹ thuật kết hợp cùng lúc nhiều thủ pháp tu từ, cùng với ẩn dụ, hoán dụ là nhân hóa, tượng trưng:  Nước đọng dưới chân núi/ Một viên cuội nằm trên phiến đá cao/ Không chớp mắt trong tinh khôi, yên tĩnh. Đây là ước vọng rủ sạch những tạp chất và bước vào nội tâm bằng một trạng thái tinh thần an lành, thuần khiết. Trong khát khao trở về hài hòa với bản nguyên tinh thần đó, nhà thơ khẳng định: “Đúng, rất đúng/ Tất cả chúng ta vừa sinh ra ở đó”. Cách nhận thức, mô tả con người trong sự tương giao, hòa hợp với thiên nhiên này giúp nhà thơ mở rộng hơn cánh cửa đến với hiện đại từ truyền thống và “trầm tích thành truyền thống”.

 

Đọc thơ Mai Văn Phấn, người đọc như đi thám hiểm rừng sâu của những hình ảnh ám dụ. Sự kết hợp tài hoa các thủ pháp nghệ thuật tu từ chính là biện pháp tạo nên hệ thống biểu tượng trùng phức, giàu sức gợi. Điều này khiến thế giới nghệ thuật thơ ông vừa giản dị, gần gũi, song đầy lạ lùng, biến ảo và đa tầng nghĩa.  

 

Điều đáng kể là cách diễn đạt kiệm lời nhưng giàu ý nghĩa khái quát và rất sinh động này rất phù hợp với tư duy và diễn đạt của Thiền: giản dị nhưng vô cùng sâu sắc.

 

3.2.2. Cách diễn đạt giàu tính biểu tượng

 

Theo Từ điển Tiếng Việt do GS Hoàng Phê chủ biên, “biểu tượng” là hình ảnh tượng trưng, là hình ảnh của nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu óc khi tác dụng của sự vật vào giác quan đã chấm dứt [53; tr.145].

 

Từ điển thuật ngữ văn học của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi cũng định nghĩa “biểu tượng là khái niệm chỉ một giai đoạn, một hình thức của nhận thức cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu óc sau khi tác động của sự vật vào giác quan ta đã chấm dứt”. [23; tr.210 ].

 

Cách diễn đạt ám dụ rất gần với cách diễn đạt biểu tượng, đôi khi có sự trùng khít. Tuy nhiên, không phải hình ảnh ám dụ nào cũng trở thành biểu tượng và ngược lại, không phải biểu tượng nào cũng cần tới cách thức ám dụ. Biểu tượng nghệ thuật là những hình ảnh sự vật cụ thể cảm tính bao hàm trong nó nhiều ý nghĩa, gây được ấn tượng sâu sắc với người đọc, là sự mã hóa cảm xúc, ý tưởng của chủ thể sáng tác. Điều đó có nghĩa là biểu tượng phải bao gồm cái biểu đạt và cái được biểu đạt, nó vừa mang một lớp nghĩa cố định nào đó đồng thời lại tiềm ẩn khả năng mở ra những ý nghĩa khác trong sự cảm nhận của con người.

 

Biểu tượng mang tính chất của ký hiệu và tính ổn định vì vậy, dễ trở thành công thức ước lệ cho một nội dung, ý nghĩa nào đấy, chẳng hạn, khi nói đến cây tùng, cây trúc, người ta lập tức nghĩ đến người quân tử, nói đến cây liễu người ta nghĩ đến người phụ nữ, hoa sen biểu tượng cho nhà phật v.v... Tuy nhiên, biểu tượng cũng có tính lịch sử, các thời đại xã hội có những quy chuẩn riêng về cái đẹp và giá trị, vì vậy, có những biểu tượng riêng của thời đại mình, như: mặt trời (kim ô) thời phong kiến trung đại biểu tượng cho đấng tối cao, nhưng với người Việt Nam ở thời đại Hồ Chí Minh, mặt trời lại biểu tượng cho chân lý cách mạng (Mặt trời chân lý chói qua tim – Tố Hữu).

 

Các biểu tượng thời hiện đại vừa có xu hướng lưu giữ dấu ấn của lịch sử văn hóa lại vừa thể hiện tinh thần cá nhân của người nghệ sĩ; Vừa phản chiếu hiện thực khách quan vừa thể hiện khả năng cắt nghĩa đời sống từ cái nhìn văn hóa của nhà văn. Nhà văn có thể dùng những biểu tượng trong đời sống đặt nó vào trong một chỉnh thể mới, cấp cho nó những quan hệ mới để không những chuyển cảm xúc tư tưởng của mình vào trong nó mà còn tạo cơ hội để nó có thể mang thêm ý nghĩa. Mỗi thời đại có một khuynh hướng xây dựng biểu tượng riêng và mỗi nhà văn cũng có những hứng thú riêng trong việc xây dựng biểu tượng nghệ thuật.

 

Biểu tượng là phương thức tư duy nghệ thuật của nhà văn. Việc nghiên cứu, khám phá, giải mã biểu tượng giúp ta hiểu sâu hơn bản chất sáng tạo nghệ thuật, góp phần triển khai them hướng nghiên cứu thi pháp hình tượng, đem lại những khám phá mới mẻ và lí giải quá trình sáng tạo của người nghệ sĩ.

         

Đọc thơ Mai Văn Phấn, chúng ta dễ dàng nhận thấy hệ thống hình ảnh có xu hướng trở thành biểu tượng dày đặc xuyên suốt hành trình sáng tác, được nhà thơ dụng công xây dựng và biểu đạt rất rõ nét. Đó là những hình ảnh cứ trở đi trở lại nhiều lần với dụng ý nghệ thuật riêng. Những biểu tượng này được nhà thơ lấy cảm hứng từ truyền thống thơ ca dân tộc, tiếp thu những mẫu gốc trong kho tàng văn hóa nhân loại đồng thời cũng mang đậm dấu ấn tư tưởng của tác giả. Những hình ảnh mang tính biểu tượng xuất hiện trong các tập thơ khá nhiều và đa dạng, từ những biểu tượng kỳ vĩ, trừu tượng đến những biểu tượng giản dị, gần gũi. Các biểu tượng này đan cài, đồng hiện trong thơ một cách tích cực tạo thành một chuỗi biểu tượng chồng xếp lên nhau, tạo nên một thế giới nghệ thuật đa tầng đa nghĩa và đầy biến ảo.

 

Nếu từ điểm nhìn của Ký hiệu học, có thể thấy thơ ca Mai Văn Phấn ưu tiên quan hệ biểu tượng - ý niệm; còn âm điệu, nhạc tính không là trọng. Nhà thơ luôn chuyển hình tượng thành các trạng thái của tình ái và tâm thức linh nghiệm. Trạng thái, chứ không phải tình cảm. Đọc thơ của người-đang-yêu này, thêm một lần ta hiểu hai chữ thanh tân nơi tình yêu đôi lứa. Cống hiến mới của nhà thơ là đã thanh tân hoá cái địa hạt tưởng khô cũ, giáo điều: Đó là tâm linh và siêu thoát. Từ tư duy ám dụ đến biểu tượng là tư duy và cũng là đặc điểm nghệ thuật trong bút pháp của tác giả này. Bởi, với Mai Văn Phấn, ông đã tìm thấy cách diễn đạt này thể hiện những suy tư hiệu quả hơn, cũng góp phần bộc lộ những sáng tạo nghệ thuật mới mẻ hơn.

    

Đọc thơ Mai Văn Phấn có một ấn tượng chung là là các hình tượng ám dụ đều có xu hướng trở thành biểu tượng bởi tính khái quát cao và dư âm triết lý của hình tượng. Thứ dẫn bất cứ một dẫn chứng ngẫu nhiên nào trong thơ ông ta đều bắt gặp điều ấy: Chẳng hạn hình tượng “Cái miệng bất tử” trong bài thơ cùng tên: “Cái miệng đang trôi kia chắc của người đã chết/ lúc lên cao/ lúc chạm vào mặt đất”. Có thể tác giả quan sát và bắt gặp một mô hình giống cái miệng (có thể do đám mây vẽ ra), thế là những suy nghĩ ập đến: “Bộ xương của cái miệng giờ tan vào cát bụi/ vẫn vàng ươm/ hay đã xỉn đen trong chiếc tiểu sành?” Còn cái miệng thì vẫn: “Nhưng cái miệng vẫn mấp máy sống động/ khi mím chặt/ khi nhoẻn cười độ lượng”. Chi tiết có yếu tố huyền ảo này đã phản ánh yếu tố thực: người ta chết đi nhưng những hình ảnh về hành vi, cử chỉ của người ấy vẫn còn lưu lại trong trí nhớ của những người quen biết. Tác giả còn dấn thêm trong tưởng tượng: lòng cho cái miệng “tiếng gậy gộc”, “tiếng động lệnh, dự lệnh”, “tiếng một người/ và cả tiếng đồng thanh”. Cuối cùng là một hiện thực hiển nhiên: “Cái miệng vẫn trôi/ chỉ cần ai đó phát ra ý nghĩ”. Như vậy, ban đầu chỉ là hình ảnh cái miệng được gợi ra từ một hình ảnh trung hợp, cuối bài thơ cái miệng đã trở thành biểu tượng cho “cái loa” phát ngôn, “cái loa” ấy không “chịu trách nhiệm” về nội dung nói mà chính là “suy nghĩ”, là tư duy. Tuy nhiên, từ “cái miệng” mà người ta phân biệt được đâu là “động lệnh” hay “dự lệnh”, là “hòn than” hay “tảng băng”. Lần đầu tiên, “cái miệng” – bộ phận cơ thể vốn có rất nhiều chức năng trở thành biểu tượng của “ngôn luận”. Chức năng cái “loa” có thể làm cho cái miệng thành “bất tử”!

 

Luận văn muốn nói tới nhân vật “tôi” – đối tượng trữ tình trong thơ Mai Văn Phấn. Nhân vật xưng “tôi” thông thường là phân thân của chủ thể trữ tình – nhà thơ, vừa là đối tượng trữ tình. Vì vậy, “tôi” thường là Người, nhưng trong bài thơ này của Mai Văn Phấn, nhà thơ đã mang đến cách hiểu khác: Chúng bịt miệng/ trấn lột mọi thứ/ và xin tôi bộ phận sinh dục/(...)Tôi bảo:/ các ông có thể lấy hết/ nhưng cho tôi giữ lại chút riêng/ xin tự nguyện làm đồ chơi, giẻ lau, trâu chó./ Tôi cúi xuống đón chiếc ách trên vai/ Tôi xù lông và bắt đầu sủa lớn/ Tôi lúc lắc và kêu bíp bíp/ Tôi mài cơ thể xuống sàn nhà/ Tôi chạy quanh và miệng sủi bọt/ Tôi nhễ nhại, giả chết, lồng lộn/ Tôi rã rời, loạn nhịp, vỡ tung/ Tôi thấm nước và vắt ra nước (Chỉ là giấc mơ). “Tôi” ở đây vừa có thể là Người, vừa có thể là vô số những con vật khác: hổ, gấu, dê, cừu, trâu, bò, ngựa, gà, vịt... những sinh vật bị chính con người khai thác để phục vụ cho nhu cầu, lợi ích của mình. Sự hóa thân để thấu hiểu và trải nghiệm thông qua giấc mơ và tác giả cho thấy, mọi sinh linh đều cảm nhận sự đau đớn khủng khiếp khi bị hành xác thân thể. Trái tim, tâm hồn Phật giáo của tác giả đập nhịp cùng những nỗi đau thống thiết kia. Như vậy, “Tôi” đã trở thành biểu tượng cho chủ thể Cá nhân – Sinh linh. Mỗi cái tôi là một sinh linh của đời sống khi nó hiện diện trong cõi đời này. Như vậy, hầu như không có sinh linh nào là “bé nhỏ”, là đáng bị coi thường, tất cả đều có vị trí riêng, ý nghĩa, vai trò riêng (như quan niệm về “Nhân duyên” của Phật giáo – Thiền).  

          

Như vậy, qua khảo sát của luận văn, gần như bất cứ một đối tượng trữ tình nào trong thơ Mai Văn Phấn: chén thuốc đắng, đám cỏ, hòn đá, con cá, ban mai, mưa, mầm cây, luồng sáng v.v... đều có xu hướng trở thành biểu tượng bởi sức khái quát và chiều sâu triết lý mà hình tượng chuyển tải. Ai bảo cỏ trong đoạn thơ này là bé nhỏ, tầm thường:

 

Mặt cỏ phun nhuệ khí trùm lấp

Phấn khích giờ tạo  thiên lập địa

Mùa mới đợi chờ cỏ xanh cắt sát gốc

Những móng vuốt tì chân cỏ bật căng

Cỏ non kinh động

Càng chồi lên mở lại những chân trời.

(Hình đám cỏ )

          

Những bông hoa này cũng vậy:

 

Trọn một kiếp người

Hoa uống cạn nước mắt với mồ hôi

(Lời người trồng hoa)

 

Kể cả một chiếc lá cũng có thể trở thành biểu tượng giá trị nếu chúng ta trân trọng thiên nhiên:

 

Khi mỗi chúng ta là chiếc lá

Thì rừng hoang bỗng hóa nhà mình

(Màu xanh)

 

Cách thức biểu đạt giàu ám dụ và biểu tượng trong thơ Mai Văn Phấn là vừa mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống, vừa hòa chung nhịp điệu với dòng chảy của văn hóa thế giới và in rõ dấu ấn cá nhân người nghệ sĩ. Các thể thơ cũng được sử dụng khá đa dạng như thơ tự do, kết hợp giữa thơ ba câu cực ngắn với thơ văn xuôi. Câu thơ, đoạn thơ cách tân về mặt hình thức. Tuy nhiên, có thể nhận thấy tư duy triết lý Thiền đã ảnh hưởng, chi phối cách thức biểu đạt ấy một cách sâu sắc.

 

3.3. Tổ chức ngôn từ đậm sắc thái Thiền

 

3.3.1. Sử dụng ngôn ngữ Thiền với mật độ đáng kể

 

Từ các tập đầu tay đến các tập thơ sau, Mai Văn Phấn bộc lộ sở thích dùng ngôn từ nhà Phật trong diễn đạt. Ban đầu chỉ là những hình ảnh để chỉ thế giới Thiền: chùa, thiền định, nam mô a di đà, đài sen, Đức Phật, tạp niệm, kiết già, cảnh giới v.v… càng về sau, tác giả còn dựng lên “không gian Thiền” với những biểu hiện đặc thù: “Ngược dốc tới gần cổng chùa/ Khuôn mặt em chợt hiện Quán Thế Âm Bồ Tát (…)/ Trong vòm trời sáng láng/ Tâm tưởng con xin sấp mình/ Thân con rỗng không/ Hạc khô chiếc mõ chân tâm trì chú…/ … “Om Mani Padme Hum” (Lên chùa). Đó là tâm thế và ngôn từ của một “chân tâm” có “thiện căn” Phật giáo. Tác giả nhập tâm những ngôn từ nhà Phật, như: tâm tưởng, sấp mình, chân tâm trì chú… ấy là chưa kể câu niệm bằng tiếng Phạn – thứ ngôn ngữ gốc của Phật giáo Tây Tạng mà phải am hiểu mới vận dụng được. Ngôn ngữ nhà Phật được tác giả sử dụng “nhuyễn” với ngôn ngữ thông dụng đến nỗi trở thành tư duy Thiền. Chẳng hạn, những câu: Tôi bị tạp niệm, Tôi ngồi thiền định, Tôi ngồi kiết già (Tĩnh lặng) v.v… đã cần đến giải thích hoặc người đọc phải viện đến cách giải thích của Phật giáo.

 

Đức Phật, không gian Phật giáo luôn có sẵn trong tiềm thức, ý thức tác giả, vì vậy, khi bắt gặp một hình ảnh hay yếu tố nào đó gợi liên tưởng thì lập tức sẽ có ngay hình ảnh ghi nhận sự liên tưởng đó: Cánh hoa tượng hình môi Đức Phật; Tọa thiền cạnh bông hoa/ Hương thơm như ngưng lại; Tĩnh lặng mới biết/ Mình tọa thiền cùng nhiều người khác/ Đan hào quang/ Từ những không gian khác v.v…

 

3.3.2. Ngôn ngữ siêu thực nhưng đậm triết lí tôn giáo Thiền

         

Siêu thực là sự kết hợp giữa thế giới thực tại thông thường và thế giới thực tại của giấc mơ hoặc tưởng tượng. Theo André Breton, đó là cách quy hai trạng thái mơ mộng và thực tại, dường như rất trái ngược nhau thành một thực tại tuyệt đối, một siêu thực tại. Ngôn ngữ siêu thực là một thức ngôn ngữ phi lí tính, tưởng như không còn bị gò bó bởi lí trí, logic, luân lí... mà chỉ là những dòng tuôn trào của vô thức. Tuy nhiên, vấn đề dường như không hẳn thế, với những cây bút có một phông văn hóa rộng và một năng lực sử dụng ngôn ngữ cự phách thì sự kết hợp giữa lý trí và tưởng tượng để tạo ra thế giới siêu thực là rất khả thi. Sự phá vỡ logic ở nhận thức thông thường để tái hiện logic ở tầm siêu nhiên, bí ẩn.  Ngôn ngữ siêu thực hầu như đã trở thành đặc trưng trong bút pháp thơ của Mai Văn Phấn. Thơ ông khêu gợi nỗi kinh ngạc bằng cách phá vỡ thói quen sử dụng từ ngữ sáo mòn mà khai mở các dáng vẻ phong phú của thế giới bằng những hình ảnh chói sáng. Bởi hình ảnh chính là một phương tiện giải phóng cái nhìn, gắn kết tưởng tượng với tự nhiên, biến các khả năng thành hiện thực. Ngôn ngữ siêu thực thể hiện rõ nhất trong việc thi sĩ không sử dụng cách viết tựa vào cảm xúc như trong thơ truyền thống mà biến tấu nó theo nhịp của tâm linh, vì thế thơ không theo vần điệu, cấu trúc truyền thống mà có khi đảo ngược hoàn toàn. Chẳng hạn bài Du ca đã từng dẫn ở trên: Giấc mơ giăng kín thinh không/ Hạt mưa ngái ngủ ngã chồng lên nhau/ Cánh chim vừa liệng dao cau/ Dòng sông đã ngậm bã trầu phù sa/ Vẫn nghe tiếng gọi ê a/ Chồn chân tóc lại mở ra làm buồm/ Bàn tay đã đẫm hương thơm/ Dìu em về lại con đường rung cây. Thực ảo quyện vào nhau, giăng mắc vào nhau, trong thực có ảo, trong ảo có thực, mượn ảo để tả thực (Giấc mơ giăng kín thinh không, Cánh chim vừa liệng dao cau, Dòng sông đã ngậm bã trầu phù sa), tả thực nhưng rất ảo (Hạt mưa ngái ngủ ngã chồng lên nhau, Dìu em về lại con đường rung cây) tác giả đã tạo nên khúc “du ca” đẫm hương vị Thiền: bảng lảng sương khói, thanh sạch và thoát tục.

          

Chiếc bàn bốn chân/ Mặt phẳng/ Đặt lên sóng/ Mặt đất không lún/ Bay như sương/ Nhẹ như mây/ Reo lên như lá/ tôi nhắm mắt/ Thầy giáo đương chấm bài/ Cho điểm 2…điểm 10…/ Cả điểm 0/ Trên đỉnh đầu tôi (Tĩnh lặng. 4). Cấu trúc bài thơ là những mảnh vỡ hiện thực được tạo ra từ ảo giác kết hợp giữa thực và phi lý. “Chiếc bàn bốn chân” là thực, đến câu thứ hai, thứ ba cấu trúc “rời” và yếu tố phi lý đã xuất hiện: “mặt phẳng/ đặt lên sóng”, mặt phẳng làm liên tưởng tới mặt bàn nhưng không còn lo gic với câu trước bởi đã mở ra liên tưởng khác: “Đặt lên sóng”. Câu thứ tư, thứ năm, thứ sáu, thứ bảy đã sang liên tưởng khác: “Mặt đất không lún/ bay như sương/ nhẹ như mây/ reo lên như lá”. Tưởng rời mà không rời, phi lý mà không phi lý, hình ảnh một vật thể đang “bay”, đang “reo” kia có mối liên hệ với hai câu:  “Mặt phẳng/ Đặt lên sóng”. Đúng vậy, cho phép người ta tưởng tượng một mặt phẳng đặt trên mặt nước đúng là không thể làm cho “mặt đất lún”, mặt phẳng đặt trên ngọn sóng nó sẽ được chơi trò bay lên, hạ xuống cùng các con sóng. Tiếng reo của con sóng hay tiếng reo của sự hồn nhiên tinh nghịch được vui đùa cùng con sóng vô tư. Bỗng dưng, những câu thơ cuối bài xuất hiện những điểm số: 2, 10 và “cả điểm 0”. Dường như có mối liên hệ ngầm nào đó giữa “cái bàn”, trò chơi giỡn sóng, thầy giáo chấm bài và những điểm số…Logic đây chứ đâu: lớp học, học trò và thày giáo. Cách diễn đạt bằng cách gọt đi tất thảy chỉ để cái cốt lõi khiến những hình ảnh thơ trở nên rời rạc, phi lý, khó tiếp cận nhưng nếu “lặng im” và nghĩ sâu sẽ nhận ra bản chất của các yếu tố cốt lõi ấy. Nó không phải được viết ra một cách ngẫu nhiên mà được tạo tác bằng tư duy siêu logic.   

 

Mai Văn Phấn không duy hình, không duy lý nhưng nhiều sáng tạo, cái nhìn luôn luôn “động” của Mai Văn Phấn đã mang đến cho thơ ông một nhịp điệu khỏe khoắn, và không hề bị gò ép trong một quy chuẩn nào. Dường như Mai Văn Phấn muốn làm khác đi, phá vỡ những cấu trúc, cách sắp xếp ngôn ngữ thông thường, phong cách mới một lần nữa đã được định hình. Ngôn ngữ trong thơ tự tạo cho mình những “bộ cánh” mới để bay cao và xa hơn đến những vùng chân trời sâu thẳm của cuộc đời.

 

Có thể nói, trong thơ Mai Văn Phấn, các cách diễn đạt của ngôn ngữ siêu thực chỉ là một phương tiện biểu hiện những nội hàm rất khác của thơ ông so với chủ nghĩa siêu thực thời kì trước. Thơ Mai Văn Phấn không thoát ly mọi liên hệ với thực tế xã hội, nó bám rễ rất chắc vào đời sống, luôn theo sát mọi diễn biến của đời sống con người và phản ánh nó với các dạng thức mới lạ, tìm tòi, khơi những mạch nguồn chưa ai khai mở với đúng nghĩa của sự sáng tạo. Nhưng trên các nẻo đường của sự sáng tạo không ngừng ấy, Mai Văn Phấn luôn có ý thức hướng bạn đọc đến chiều sâu của hiện thực, một hiện thực đa chiều với nhiều phương diện phong phú. Để từ đó, một lần nữa Mai Văn Phấn giúp người đọc gọi tên những xúc cảm, những suy tư khó đoán định trong thế giới tâm linh của con người.

 

Việc sử dụng ngôn từ phật giáo kết hợp với tạo nên không gian Thiền và triết lý mang màu sắc Thiền khiến nhiều bài thơ của Mai Văn Phấn có dáng dấp của một bài “kệ”, đó là sắc thái triết lý - ngụ ngôn với tư tưởng Thiền sâu sắc. Tuy vậy, Mai Văn Phấn vẫn là một nhà thơ hiện đại với đúng nghĩa của từ này. Ông chỉ khai thác Thiền để làm giàu có hơn nội dung tư tưởng và phong phú hơn cách thức tái hiện.  Đây là điều mà không ít nhà nghiên cứu, phê bình đã cảm nhận:  “Thơ Mai Văn Phấn quyến luyến người đọc không phải bằng sự mượt mà du dương của vần điệu. Sức hấp dẫn của thơ anh nằm ở thế năng trong cấu trúc ngôn từ và hình ảnh. Đó chính là những lập thể của ký ức và tưởng tượng, những chất chồng, đan cài, lồng hiện của hình ảnh, hình tượng thông qua các thủ pháp nghệ thuật đã được dụng công gia cường. Như một tình nhân khó tính, thơ Mai Văn Phấn khiến người ta mất nhiều tâm sức để chinh phục và khi đã bén duyên thì không thể dứt ra được” [62; tr.10].

 

 

 

 

 

C. KẾT LUẬN

 

 

Có một thế giới Phật giáo với tư tưởng Thiền đạo trong thơ Mai Văn Phấn. Tuy nhiên, tác giả không có ý định xây dựng những ý niệm tôn giáo mà chỉ khai thác những giá trị tôn quý của tư tưởng triết lý phật giáo để làm sâu sắc nội dung và sáng tạo hơn  hình thức biểu đạt của thơ.

 

Dường như Mai Văn Phấn đã tìm thấy trong đạo Thiền sức cám dỗ của triết lý sống an hòa, buông bỏ những thứ ngoài thân, coi trọng tinh thần, coi trọng tự nhiên, nâng niu bản chất của sự sống. Đây là thái độ “buông/ xả” theo cách dâng hiến, tận hiến chứ không phải thái độ chán đời, quên đời mà ngược lại, trân quý cuộc sống/ thế giới nhân sinh hết sức và đây là thái độ của bậc thức giả, “diệt”  để “sinh” và “sinh” rồi “diệt” – vòng tuần hoàn sinh – hóa của triết lý “nhân duyên” chủ động trước cuộc sống hồn nhiên, vô tư, khoáng hoạt. Khi người ta cho rằng vũ trụ, hoa cỏ, con người là đồng nhất thể, nhập hòa vào nhau, nhân duyên với nhau trong vô biên và vô cùng thời gian thì cuộc sống trở nên nhẹ nhõm biết bao, trân quý biết bao. 

 

Mai Văn Phấn đã thể hiện sự “ngộ giác” và “tỉnh thức ấy”: Tỉnh thức trước nhân duyên kỳ lạ của tạo hóa, từ đó “tỉnh thức” trước những quan niệm về lối sống, ứng xử với mọi mối quan hệ từ thiên nhiên đến xã hội: vạn vật đều hữu tình, mọi sinh thể đều có lương duyên ở thế giới này, hãy trân trọng và yêu quý, hãy để lòng thanh tịnh, bình yên, không vướng bận để tận hưởng thiên nhiên và cuộc sống bình yên, tươi đẹp: lắng nghe âm thanh của hạt sương rơi như tiếng chuông chùa trong trẻo ngân nga, tiếng lá cây xào xạc suốt đêm thu, vẻ đẹp khi thời khắc giao mùa, hay việc đọc sách, uống trà, dỗ cháu ngủ, đi tảo mộ,... Tâm thế trôi thong thả, hòa nhịp, để được lắng nghe, được tan chảy và trải lòng với thế giới thiên nhiên là một sự giao hòa trọn vẹn nhất.  Khi đã “đốn ngộ”, tâm hồn trở nên thơ thới, cặp mắt nhìn thế giới bằng lăng kính trong veo, tinh tế: Không phải nơi nào khác/ mà chính từ bông cỏ may kia/ đang làm nên một ngày tuyệt đẹp (Nơi cội nguồn thế giới) v.v…

 

Trở thành mỹ cảm trong thơ Mai Văn Phấn, Thiền không chỉ tác động, ảnh hưởng đến tư tưởng nội dung mà còn chi phối tư tưởng nghệ thuật của nhà thơ. Cấu trúc hình thức mang dấu ấn tối giản, kiệm lời, tập trung cho yếu tố cốt lõi – những đặc điểm bản chất của Thiền đã được tác giả khai thác, vận dụng cho tổ chức cấu trúc bài thơ, câu thơ, dòng thơ; trong xây dựng hình ảnh/ hình tượng thơ và ở cả phương diện ngôn từ.   

     

Có thể nói, Mai Văn Phấn đã tìm thấy ở Thiền – tư tưởng của triết lý Phật giáo những giá trị hấp dẫn. Nhà thơ đã bị/ được dẫn dắt bởi ánh sáng của tư tưởng Thiền, coi đó là mẫu mực của trí tuệ, là chân lý của tâm hồn. Thiền đã vào thơ Mai Văn Phấn ở tinh thần và giá trị cốt lõi: an hòa, tự tại, tĩnh lặng, suy tư và tập trung cho giá trị bản chất cốt lõi. Thiền vào thơ Mai Văn Phấn là Thiền “nhập thế”, không phải quay lưng với cuộc đời.

 

Thiền trở thành mục tiêu, sự chỉ dẫn tư duy mỹ cảm trong thơ Mai Văn Phấn, đến lượt mình, tác giả đưa Thiền vào đời sống, vào thơ ca để thanh lọc và nuôi dưỡng tâm hồn. Nhìn thế giới qua lăng kính Thiền, Mai Văn Phấn khiến thế giới trở nên nhiều lớp nghĩa, phồn sinh mà trong sáng, nồng nàn trong sự nguyên sơ, tràn trề năng lượng.

 

Thiền trong thơ Mai Văn Phấn không còn là nghi lễ khô cứng mà trở thành triết học hiện sinh, bám rất chặt với cuộc sống hiện tồn và vì cuộc sống này mà lên tiếng. Thiền trong thơ Mai Văn Phấn lấy xuất phát điểm từ cuộc sống và quay về với cuộc sống trong những suy ngẫm tươi mới. Thơ ấy, nên đọc lặng lẽ, bởi những khoảng lặng đằng sau ngôn ngữ mới là vô giá, đó là “thiền” trong thơ.

 

 

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

 

A. Tác phẩm khảo sát

 

1. Mai Văn Phấn (1992), Giọt nắng, NXB Hội nhà văn.

2. Mai Văn Phấn (1995), Gọi xanh, NXB Hội nhà văn.

3. Mai Văn Phấn (1997), Cầu nguyện ban mai, Nxb Hải Phòng, Hải Phòng.

4. Mai Văn Phấn (1999), Nghi lễ nhận tên, Nxb Hải Phòng, Hải Phòng.

5. Mai Văn Phấn (1999), Trường ca Người cùng thời, Nxb Hải Phòng, Hải Phòng.

6. Mai Văn Phấn (2003), Vách nước, NXB Hội Nhà văn.

7. Mai Văn Phấn (2009), Hôm sau, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

8. Mai Văn Phấn (2009), Và đột nhiên gió thổi, Nxb Văn học, Hà Nội.

9. Mai Văn Phấn (2010), Bầu trời không mái che, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

10. Mai Văn Phấn (2012), Hoa giấu mặt, NXB Hội Nhà văn.

11. Mai Văn Phấn (2013), vừa sinh ra ở đó, NXB Hội Nhà văn.

12. Mai Văn Phấn (2015), thả, NXB Hội Nhà văn.

13. Mai Văn Phấn (2018), Tĩnh lặng, NXB Hội nhà văn.

 

B. Tài liệu tham khảo

 

14. Nguyễn Việt Chiến ( 2009), Mai Văn Phấn với những bài thơ hướng đến một trường thẩm mỹ mới, Báo Người Hà Nội.

15. Văn Chinh (2009), Độc hành Mai Văn Phấn, ( Lời giới thiệu trên website Hội Nhà văn Việt Nam).

16. Thiều Chửu, Hán – Việt từ điển (1999) NXB Thành phố Hồ Chí Minh.

17. Thích Nhuận Đàm (2016), Thể loại văn học Phật giáo, Văn Hóa Phật Giáo, số 260, tr.16 - 19.

18. Hà Minh Đức (1997), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại. NXB giáo dục, Hà Nội.

19. Trần Minh Đức (chủ biên) (1995), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.

20. Nguyễn Quang Hà (2012), Một số cách tân nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn, luận văn tốt nghiệp thạc sĩ trường đại học Thái Nguyên.

21. Mai Thanh Hải (2002), Từ điển tôn giáo. NXB Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.

22. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (Đồng Chủ Biên) (2006), Từ điển thuật ngữ văn học. NXB Giáo Dục.

23. Lê Bá Hán- Trần Đình Sử- Nguyễn Khắc Phi (2009), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục.

24. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2011), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục Việt Nam.

25. Nguyễn Văn Hạnh (2006), Tôn giáo và thi ca – nhìn từ phương đông, Tạp chí nghiên cứu văn học số 2/2006.

26. Nguyễn Văn Hạnh (2006), Quan hệ giữa tôn giáo và thi ca trong thế giới biểu tượng, Tạp chí nghiên cứu văn học số 9/ 2006, tr. 55- 64.

27. Chu Thị Thu Hằng (2012), Cảm quan tôn giáo trong thơ Nguyễn Quang Thiều. Luận văn thạc sĩ trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội.

28. Phan Thu Hiền (2006), Thi pháp học cổ điển Ấn Độ, Nxb. Khoa Học Xã Hội, Hà Nội.

29. Đào Duy Hiệp ( 2010), Cấu trúc ngôn ngữ và hình ảnh trong tập thơ và đột nhiên gió thổi của Mai Văn Phấn.

30. Nguyễn Hiệp, Mai Văn Phấn: vượt thoát về phía trong veo, in trên tranghttp://www.vanvn.net.

31. Tiêu Lệ Hoa (2010), So sánh tự giác văn học của thi tăng Đinh, Lê, Lý, với thi tăng Đường Tống, Triết học, số 2 (225), số 3 (226). tr, 24 - 34; tr. 25 - 35.

32. Ibuki Atsushi (2007), Lịch sử Thiền học, Tàn Mộng Tử dịch, Nxb. Phương Đông, TP. Hồ Chí Minh.

33. Kenneth Kraft (2006), Con đường của hành giả, Thanh Chân dịch, Nxb. Tổng Hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

34. Đình Kính (tuyển chọn) Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn (2011), NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

35. Hoàng Long (2003), Vài ý nghĩ về truyện cực ngắn, chuyên đề: Truyện cực ngắn, tienve.org.

http://www.tienve.org/home/activities/viewTopics.do?action=viewArtwork&artworkId=4043

36. Hoàng Long, Gia Huy, Quang Hùng, Minh Nguyệt (2007), Từ điển Tiếng Việt, NXB từ điển Bách Khoa, Hà Nội.

37. Hoàng Long (2014), Thi pháp truyện cực ngắn, tapchisonghuong.com.vn.

http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c311/n16509/Thi-phap-truyen-cuc-ngan.html.

38. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới. NXB giáo dục, Hà Nội.

39. Phương Lựu (2002), Lí luận văn học tập 1. NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.

40. Phương Lựu (2005), Phương Lựu tuyển tập T2 (lí luận văn học hiện đại phương Tây kết hợp luôn vấn đề thi học so sánh). NXB giáo dục, Hà Nội.

41. Vũ Thị Hồng Minh (2009), Phong cách tôn giáo hóa trong văn xuôi Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội.

42. Dương Kiều Minh (1996), “Ấn tượng giải thơ cuộc thi thơ tuần báo Văn nghệ 1995”, Báo Văn nghệ trẻ, (10), tr.13.

43. Dương Kiều Minh (2006), “Lộ trình thơ Mai Văn Phấn”, Tạp chí Cửa Biển, số tháng 7/ 2006, tr.74.

44. Dương Kiều Minh (2009), “Hiện thực giả định và hiện thực tâm tưởng trong thơ Mai Văn Phấn”, Báo Văn nghệ công an, số 114, tr.25.

45. Phạm Xuân Nguyên (2000), “Ban mai và Ngọn lửa”, Hải Quan (số 5- 6), tr. 39.

46. Kim Nhung, Họa sĩ Lê Thiết Cương: tối giản để nói được nhiều hơn, vannghequandoi.com.

http://vannghequandoi.com.vn/Su-kien/hoa-si-le-thiet-cuong-toi-gian-de-noi-duoc-nhieu-hon-12014.html

47. Mai Văn Phấn (1994), Thơ và trách nhiệm (Tham luận tại hội nghị công tác nhà văn trẻ toàn quốc lần thứ IV). Tạp chí cửa biển (số 18), Tr. 59 – 60

48. Mai Văn Phấn (2000), “Sáng tạo là một cuộc vong thân” (Nhà báo Anh Thơ phỏng vấn), Hải Phòng cuối tuần (số 566), tr. 20 - 21.

49. Mai Văn Phấn (2011), “Sáng tạo, tinh thần cho điểm đến” (Ko Hyeong Ryeol phỏng vấn),Văn nghệ trẻ (số 1 – 2).

Nguồn:http://maivanphan.vn, truy cập 08:05 ngày 20/11/2015.

50. Mai Văn Phấn (2011), Thơ tuyển Mai Văn Phấn cùng tiểu luận và trả lời phỏng vấn, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

51. Mai Văn Phấn (2014), http//:maivanphan.vn và maivanphan.com.

52. Mai Văn Phấn (2015), Thả, NXB Hội nhà văn Việt Nam, Hà Nội.

53. Hoàng Phê (chủ biên) (2002), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng – trung tâm từ điển học, Hà Nội – Đà Nẵng.

54. Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển Tiếng Việt, (tái bản 2019), NXB Hồng Đức.

55. Nguyễn Thị Bích Phụng (2013), Cảm thức hiện sinh trong “Hoa giấu mặt.

Nguồn:http://nhavantphcm.com.vn, truy cập 08:05 ngày 20/11/2015.

56. Nguyễn Thị Bích Phụng (2014), Cảm quan thẩm mỹ của Mai Văn Phấn trong “Bầu trời không mái che”.

57. Trần Đăng Sinh, Đào Đức Doãn (2006), Giáo trình tôn giáo học, NXB Đại học sư phạm, Hà Nội.

58. Chu Văn Sơn (2012), Nguyễn Quang Thiều và khuynh hướng sử thi tôn giáo. NXB văn học.

59. Trần Đình Sử (1993), Thi pháp học, Trường ĐHSP thành phố Hồ Chí Minh.

60. Trần Đình Sử (1995), Những thế giới nghệ thuật thơ, NXB giáo dục, Hà Nội.

61. Nguyễn Thanh Tâm (2010), “Động hình tư duy và mỹ cảm trong tập thơ Hôm sau của Mai Văn Phấn”, Người Hà Nội (số 20), tr. 6.

62. Nguyễn Thanh Tâm (2015), “Khai thác chiều sâu văn hóa tinh thần dân tộc”, Hải Phòng cuối tuần (số 1345), tr. 18 – 19.

63. Nguyễn Thanh Tâm (2015), “Tác phẩm có đời sống riêng và tác giả không thể chi phối”, Hải Phòng cuối tuần (số 1344), tr. 20 – 21.

64. Nguyễn Bá Thành (1995), Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.

65. Nguyễn Bá Thành (1996), Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội.

66. Mai Thị Thảo (2014), Cảm hứng tôn giáo trong thơ Mai Văn Phấn, Luận văn thạc sĩ trường đại học sư phạm Hà Nội.

67. Vũ Thị Thảo (2012), Đặc điểm nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn, luận văn thạc sĩ trường đại học Đà Nẵng.

68. Nguyễn Quang Thiều (1999), “Những nhận định về thơ Mai Văn Phấn”, Hà Nội mới (số 247), tr. 3.

69. Đỗ Lai Thúy (2004), Phân tâm học và văn hóa tâm linh, NXB văn hóa thông tin, Hà Nội.

70. Đặng Thu Thủy (2011), Thơ trữ tình Việt Nam từ giữa thập kỉ 80 đến nay – Những đổi mới cơ bản, NXB Đại Học Sư Phạm Hà Nội.

71. Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Hòa, Đoàn Mộ (1998), Một số hiểu biết về tôn giáo. Tôn giáo ở Việt Nam: sách tham khảo, NXB Quân đội nhân dân.

72. Lê Vũ (2000), Bầu trời không mái che của Mai Văn Phấn. Nguồn: http://maivanphan.vn, truy cập 08:00 ngày 20/11/2015.

73. Nguyễn Thanh Xuân (2009), Một số tôn giáo ở Việt Nam,  NXB Tôn giáo, Hà Nội.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

  

BÀI KHÁC
1 2 

image advertisement
image advertisement
image advertisement




























Thiết kế bởi VNPT | Quản trị