Cảm thức thời gian trong thơ Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn (Luận văn thạc sĩ) - Nguyễn Thị Hiền
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
Nguyễn Thị Hiền
Người hướng dẫn khoa học: TS. Mai Thị Liên Giang
TS. Mai Thị Liên Giang (trái) & Ths. Nguyễn Thị Hiền
CẢM THỨC THỜI GIAN TRONG THƠ
TRƯƠNG ĐĂNG DUNG VÀ MAI
VĂN PHẤN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC VĂN HỌC
Huế, 2020
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Đóng góp của luận văn
6. Bố cục của luận văn
Chương 1. HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO CỦA TRƯƠNG ĐĂNG DUNG, MAI
VĂN PHẤN VÀ VẤN ĐỀ CẢM THỨC THỜI GIAN TRONG THƠ HIỆN ĐẠI VIỆT NAM
1.1. Trương Đăng Dung - hành trình sáng tạo và những suy tư về thơ
1.1.1. Hành trình sáng
tạo thơ Trương Đăng Dung
1.1.2. Những suy tư về thơ của Trương Đăng Dung
1.2. Mai Văn Phấn - hành trình sáng tạo và quan điểm sáng
tác
1.2.1. Hành trình sáng tạo thơ Mai Văn Phấn
1.2.2. Quan điểm sáng tác của Mai Văn Phấn
1.3. Khái lược về vấn đề cảm thức thời gian trong thơ hiện
đại Việt Nam
1.3.1. Thời gian qua các góc nhìn
1.3.2. Vấn đề cảm thức thời gian trong
thơ hiện đại Việt Nam
Chương 2. ĐIỂM GẶP
GỠ VỀ CẢM THỨC THỜI GIAN TRONG THƠ TRƯƠNG ĐĂNG DUNG VÀ MAI VĂN PHẤN
2.1. Gương mặt thời gian
2.1.1. Thời gian - nỗi ám ảnh thi sĩ
2.1.2. Bước đi của thời gian
2.2. Sức mạnh thời gian
2.2.1. Thời gian vô tình
2.2.2. Thời gian phôi pha
2.3. Thời gian và kiếp người
2.3.1. Thời gian hiện tại
2.3.2. Khoảnh khắc thời gian
Chương 3. DẤU ẤN
RIÊNG TRONG THƠ TRƯƠNG ĐĂNG DUNG VÀ MAI VĂN PHẤN VỀ CẢM THỨC THỜI GIAN
3.1. Hình thái thời gian
3.1.1. Thời gian tưởng tượng trong thơ
Trương Đăng Dung
3.1.2. Vòng cung thời gian trong thơ
Mai Văn Phấn
3.2. Dấu ấn xử sự với thời gian
3.2.1. Tiếc nuối thời gian trong thơ
Trương Đăng Dung
3.2.2. Chiến đấu với thời gian trong
thơ Mai Văn Phấn
3.3. Phương thức thể hiện thời gian
3.3.1. Cô đơn thời gian trong thơ
Trương Đăng Dung
3.3.2. Đối thoại thời gian trong thơ
Mai Văn Phấn
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Nói tới thời gian là nói tới hình thức tồn tại của
thế giới và cuộc sống của con người. Như một lẽ tự nhiên vô hình, thời gian đã
được các thi nhân bao đời cảm thức. Đây cũng là nỗi ám ảnh sâu thẳm trong tâm
hồn các nhà thơ từ xa xưa, khi con người biết tự ý thức về bản thân, cũng như ý
thức về thời gian và cho đến thời điểm hiện tại. Là con người không ai sống
ngoài quy luật của tự nhiên, quy luật của thời gian. Tạo hóa cho thời gian của
mỗi người là giống nhau, nhưng mỗi người lại có cảm nhận riêng về thời gian của
đời mình, thời gian của đời người. Đằng sau sự cảm nhận ấy là cả một thế giới
quan, nhân sinh quan gắn với khí chất, đời sống riêng tư cũng như đặc điểm dân
tộc, môi trường văn hóa của mỗi cá nhân.
1.2. Trong số các cây bút thơ ca đương đại gây được nhiều
chú ý, Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn là hai trong những thi sĩ có nhiều ấn
tượng với người đọc. Trong tình hình hiện nay, làm thế nào để thơ được bạn đọc
đón nhận không phải là điều dễ dàng, nhưng tác phẩm của hai nhà thơ này vẫn thu
hút được sự quan tâm của đông đảo bạn đọc không chỉ trong nước mà còn ở nước
ngoài. Không hẹn mà gặp Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn trong thơ đều dành mối
quan tâm đặc biệt với thời gian.
1.3. Sự tương đồng của đặc trưng thế hệ là khởi đầu của
rất nhiều nét chung khác: Cả hai nhà thơ đều là hai nghệ sĩ tài năng trong việc
hoàn thiện ngôn ngữ dân tộc, ý thức cao về sứ mệnh ngòi bút, khao khát có được
sự đồng cảm của người đời và nhất là sáng tác của họ luôn đau đáu những nỗi
niềm nhân sinh muôn thuở. Đều là hai thi sĩ sinh trong thời kỳ chuyển giao lịch
sử, cảm thấu nỗi đau chiến tranh, khát khao xây dựng và cống hiến. Nét tương
đồng đưa hai con người tài hoa ở hai miền xa xứ lạ đến gần nhau, còn sự khác
biệt cho phép chúng ta suy nghĩ về đặc trưng tiêu biểu của hai con người thuộc
hai thế giới sáng tạo khác nhau trong cùng nỗi đam mê thơ ca.
Hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về nhà thơ
Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn trên nhiều bình diện, yếu tố thời gian cũng đã
được quan tâm bàn luận. Tuy nhiên tính đến thời điểm hiện tại thì những bài
nghiên cứu về cảm thức thời gian trong thơ hai ông chỉ dừng lại trong khuôn khổ
những bài viết dung lượng vừa, những bài phát biểu ngắn, chưa có công trình nào
nghiên cứu về thời gian trong cái nhìn
tương quan giữa họ một cách hệ thống. Chính vì vậy chúng tôi đã chọn đề tài Cảm thức thời gian trong thơ Trương Đăng
Dung và Mai Văn Phấn với mong muốn mang đến một cách tiếp cận thơ khác và
thấy được mối tương quan nội tại trong sáng tác của hai tác giả. Hy vọng kết
quả nghiên cứu của đề tài góp phần khẳng định rõ hơn vị trí của hai thi sĩ khá
đặc biệt trong hành trình sáng tạo và khát vọng nâng tầm thơ Việt.
2. Lịch sử vấn đề
Cho đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về
thời gian nói chung trong văn học. Tuy nhiên, những đề tài nghiên cứu sâu, có
hệ thống về cảm thức thời gian trong thơ Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn là
chưa có. Đã có những bài báo, lời bình nói đến vấn đề thời gian trong thơ
Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn nhưng chỉ nêu ra vấn đề riêng lẻ chứ chưa phân
tích một cách rõ nét trong mối tương quan giữa hai tác giả.
Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn đều là hai nhà thơ có
tài năng đặc biệt. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về tác phẩm của hai tác
giả này. Ở đây chúng tôi chỉ khái quát các công trình có liên quan trực tiếp
đến đề tài.
2.1. Lịch sử vấn đề
nghiên cứu thời gian trong thơ Trương Đăng Dung
“Tác phẩm văn học như là những cấu trúc đang chờ giải mã;
những cấu trúc ẩn chứa trong chúng sự thông báo...” [6, tr.217]. Chính vì vậy mà tập thơ Những kỉ niệm tưởng tượng với 25 bài thơ
ngay từ khi ra đời đã gây hiệu ứng lớn với bạn đọc.
Trong lễ trao giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội năm 2011
cho tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng, nhà
thơ Trương Đăng Dung đã nói: “Con người là con người trong sự mong manh của
kiếp sống, trong sự bất hạnh tột cùng và niềm hạnh phúc tột đỉnh của nó” [7, tr.507].
Chính tác giả cũng thừa nhận rằng: “Các nhà phê bình đã chỉ ra rất đúng về bản
chất của cảm thức cô đơn, thời gian và cái chết trong tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng. Quả thực tôi
đã trao cho motip khoảnh khắc một ý nghĩa quan trọng để từ đó thể hiện cảm thức
thời gian trong tương quan với sự cô đơn và cái hữu hạn của kiếp người. Mỗi
khoảnh khắc có thể lóe lên điều gì đó trong đời sống hiện đại, nó ẩn giấu ý
nghĩa và hạnh phúc của cả cuộc đời để rồi sẽ mất đi vĩnh viễn. Và khoảnh khắc
cũng chỉ là một trong những hình thức của sự cô đơn, bởi vì ở thời hiện tại tâm
hồn không chỉ cô đơn trong không gian mà cô đơn cả trong thời gian. Cô đơn thời
gian là khi con người một mình trong cái khoảnh khắc hiện tại, xa cách quá khứ,
đối diện với tương lai mù mịt” [7, tr.508]. Điều này góp phần cho thấy rõ lực
hút của cảm thức về thời gian chi phối đến hầu hết tác phẩm của ông.
Các nhà phê bình như Đỗ Lai Thúy, Trần Thanh Hà, Nguyễn Đăng
Điệp, Insara, Đỗ Quyên, Hoàng Thụy Anh, Hoài Nam, Lê Thị Diễm Hằng, Nguyễn Vinh
Huỳnh, Nguyễn Trọng Đức... đều có sự gặp gỡ trong quan niệm: Vấn đề nổi bật
trong thơ Trương Đăng Dung là nỗi khắc khoải về thời gian, thân phận, kiếp
người.
Khởi nguồn là ý kiến của nhà phê bình văn học Đỗ Lai Thúy:
“Thơ Trương Đăng Dung là thơ - thời - gian... Thời - gian - thơ - Trương - Đăng
- Dung là thời gian bên trong con người, thời gian chính là con người” [19].
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp trong bài “Thời gian và phận người trong thơ Trương
Đăng Dung” đã cho rằng tập thơ Những
kỷ niệm tưởng tượng “là tiếng cựa mình của
thời gian, của tình yêu và cái chết, là nỗi bất an trước một thực tại phi lý.
Đó là một thế giới ngập đầy hiện sinh trong cái nhìn trắc ẩn của một kẻ
sớm tự nguyện đứng về phe nước
mắt” [7, tr.92]. Từ
nhận xét này chúng ta thấy rõ, trong thơ Trương Đăng Dung cuộc sống là những áp
lực, âu lo, là quá trình tìm kiếm ý nghĩa của sự tồn tại, của ý thức ám ảnh vào
trong thơ.
Hoàng Thụy Anh với bài viết “Ám ảnh thời gian trong thơ Trương Đăng Dung” đã khẳng định: “Hầu hết các bài thơ của Trương Đăng Dung đều ngập bóng
thời gian. Cái độc đáo và tinh tế của Trương Đăng Dung là cách cảm nhận thời
gian” và “Nhiều cách cảm nhận tất yếu nảy sinh nhiều kiểu thời gian. Thời gian
trong thơ Trương Đăng Dung được phóng chiếu tự do, không theo chiều véc-tơ” [50].
Tác giả Phan Tuấn Anh trong bài viết “Trương Đăng Dung thơ như là một diễn ngôn” đã tìm hiểu về những
điểm mới trong thơ Trương Đăng Dung cho
rằng thi ca và lý thuyết với Trương Đăng Dung chỉ là những diễn ngôn khác nhau
cho những đeo đuổi triết học nhằm biểu đạt những vấn đề triết học thống nhất và
có chung cội nguồn tư tưởng” [7, tr.271]. Là một nhà lý luận khoa học làm thơ,
thơ Trương Đăng Dung bộc lộ logic khoa học tự nhiên với cảm thức lý tính về
thời gian hiện sinh, nhưng cũng tự phá vỡ mọi quy tắc để sáng tạo ngôn ngữ thời
gian mang dấu ấn cá nhân của mình.
Nhà nghiên cứu Ngô Hương Giang đã khẳng định sự ảnh hưởng
của nhà thơ hiện sinh Heidegger đối với thơ Trương Đăng Dung về mặt thời gian,
con người sợ hãi thời gian, sợ hãi không chỉ cho mình, cho người khác mà còn vì
người khác. Trong bài viết “Đọc “Những kỷ
niệm tưởng tượng” của Trương Đăng Dung từ góc nhìn hiện sinh” tác giả cho
rằng “ Đọc thơ Trương Đăng Dung, cái bản thể con người nơi ông cũng hao hao
giống Heidegger, một ám ảnh chạy trốn, của xa lạ, của tha hương, của trầm uất [7,
tr.255].
Tác giả Trần Thanh Hà trong “Cuộc đời không số phận” đã nói “Thơ Trương Đăng Dung bộc lộ những
suy ngẫm của anh về cuộc đời không số phận... Cuộc đời không số phận mà nhà thơ
muốn nói đến là niềm xót xa của anh vì kiếp người ngắn ngủi. Con người bất lực
nhỏ nhoi trong trò chơi con tạo. Sống – chết mong manh vô cùng. Bởi vì mong
manh đến thế nên tất cả thoáng hiện, chợt mất như ảo ảnh mà thôi. Tình yêu,
hạnh phúc tưởng cầm chắc trên tay mà vụt mất tự bao giờ; thân xác kiếp người
tưởng còn hiện hữu, ai ngờ chỉ còn là cát bụi phù du. Vô hạn và hữu hạn, mất và
còn, có và không... là những phạm trù anh đề cập đến” [7, tr.315]
Trần Hoàng Thiên Kim trong bài viết “Sợ thời gian rình trong từng sợi tóc” đã nói rằng: “Song hành với
một Trương Đăng Dung lý luận, người ta nhận ra một Trương Đăng Dung thi sĩ
trong một thế giới cô đơn, nhiều hoài niệm, với những khắc khoải về thời gian
hữu hạn của kiếp người”, “qua tập thơ Những
kỷ niệm tưởng tượng Trương Đăng Dung đã có những khoảnh khắc cô đơn với
những giây phút qua đi của tình yêu và số phận” [7, tr.449].
Tiếp nối là Lê Hồ Quang với “Vật chứng trước thời gian”, Đỗ Thị Thu Huyền với “Thỏa thuận với thời gian”, Trần Anh
Thái với “Tái ám ảnh về một bài thơ ám
ảnh”... Các tác giả gặp nhau ở quan điểm Trương Đăng Dung không nói đến thứ
thời gian tồn tại khách quan, ngược lại ông quan tâm tới thời gian ở “trong máu, không lời; ẩn trong khóe mắt,
làn môi”, “thời gian bên trong con
người”. Tác giả Mai Thị Liên Giang trong công trình “Thất bại của cái chết trong thơ Trương Đăng Dung” đã cho rằng “Con
người trong thơ ông luôn nghĩ đến tồn tại và thời gian, biết cái hữu hạn để
vượt lên giới hạn, biết cái chết và vượt lên cái chết, biết sống với ý thức
hiện tồn” [16, tr.10]. Cuộc sống trong thơ Trương Đăng Dung như vậy là một bản
hòa tấu thời gian, sâu xa hơn đó là một khúc nhạc về thời gian buồn.
Như vậy, nhìn chung những ý kiến về thời gian trong thơ
Trương Đăng Dung đã góp phần khẳng định “thơ
Trương Đăng Dung là thơ - thời - gian. Người Việt ta, kể từ khi tiếp nhận văn
minh phương Tây là bắt đầu từ giã thời gian truyền thống, thứ thời gian quay
theo vòng quay của mùa màng hoặc sự tuần hoàn của vũ trụ, để chấp nhận thời
gian khoa học, tuyến tính. Từ đó, với họ, thời gian một mặt là sự thành công,
là của cải, tiền bạc, mặt khác là cái chết, một cái chết không thể đảo ngược,
không thể cứu vãn. Thời gian, vì thế, trở thành một ám ảnh” [19].
2.2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
thời gian trong thơ Mai Văn Phấn
Mai Văn Phấn là
nhà thơ nhận được rất nhiều sự quan tâm và bàn luận của bạn đọc. Thơ ông có lực
hút khá lớn với bạn đọc yêu thơ không chỉ trong nước mà còn ở nước ngoài.
Nguyễn Đức Tùng trong
bài viết “Mai Văn Phấn cuộc đời quyến rũ”
cho rằng “Ngôn ngữ thơ ca thức dậy mỗi ngày.
Ngôn ngữ ấy nuôi dưỡng tình yêu của con người đối với thiên nhiên, sự hiểu biết
và kết nối của họ, và một khả năng như thế có thể mạnh hơn những tàn phá đang
xảy ra. Nhưng ngôn ngữ cũng thường trực ở dưới áp lực của thời gian, giới hạn
của chiều kích trang giấy, các quy ước, của mối quan hệ giữa thấu hiểu và diễn
dịch, của tính cân bằng mong manh giữa đa nghĩa và hiểu sai ý định của tác giả”.
Thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn là một thế
giới khó nắm bắt, mà như nhà nghiên cứu Văn Giá trong bài viết “Thơ sinh ra để nói về niềm hi vọng của con
người” đã khẳng định: Trong tính toàn thể nhất quán, thơ Mai Văn Phấn
đã cất lên niềm hi vọng mãnh liệt và cảm động của con người, hy vọng làm nên sự
sống, thăng hoa sự sống. Tắt hy vọng nghĩa là sự sống cũng lụi tàn. Và hy vọng
cũng chính là sự sống. Biểu hiện thì đa dạng nhưng đích đến quy chụm. Mai Văn
Phấn đã thi triển tư tưởng này một cách nhất quán, nồng nhiệt, càng về sau càng
sáng tỏ… Toàn bộ thơ Mai Văn Phấn đã dựng nên một thế giới phồn sinh và hóa
sinh bất định… Với người nghệ sĩ này, một xác tín hiệu hiện lên thật nhất quán:
còn sự sống là còn phồn sinh và hóa sinh bất định, là còn khiến con người ta có
quyền hi vọng vào những gì đẹp đẽ và nhân bản nhất. Thơ Mai Văn Phấn hát ca
niềm hy vọng không bao giờ ngơi nghỉ nơi con người” [22, tr.529].
Theo Đỗ Minh Tuấn: “Thế giới thơ của Mai Văn Phấn luôn
luôn trong trạng thái sẵn sàng bùng nổ. Một biến động dù thi nhân day dứt siêu
hình, những suy tưởng miên man... tất cả đều có thể là nhỏ nhất như một tia
sáng, một tiếng chim... Từ cuộc sống xung quanh vọng tới cũng có thể khởi động
lên trong sứ giả của một trật tự thi ca mới mẻ đang chờ” [28, tr.148]. Mai Văn
Phấn đã hoàn thành được sứ mệnh của mình và in dấu ấn rõ nét trong lòng độc giả
và nhà phê bình bởi những đóng góp lớn lao trong việc tạo dựng trật tự mới.
Nguyễn Thanh Tâm trong bài “Lập thể của ký ức và tưởng tượng xuyên qua Bầu trời không mái
che” đã nhận định: “Thơ Mai Văn Phấn quyến luyến người đọc không phải
bằng sự mượt mà du dương của vần điệu. Sức hấp dẫn của thơ anh nằm ở thế năng
trong cấu trúc ngôn từ và hình ảnh. Đó chính là những lập thể của kí ức và
tưởng tượng, những chồng chất, đan cài, lồng hiện của hình ảnh, hình tượng
thông qua các thủ pháp nghệ thuật đã được dụng công gia cường. Như một tình
nhân khó tính, thơ Mai Văn Phấn khiến người ta mất nhiều tâm sức để chinh phục
và khi đã bén duyên thì không thể nào dứt ra được” [39, tr.395].
Tác giả Lê Hồ Quang, trong bài “Đặc trưng thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn”, nhận
định: “Thơ Mai Văn Phấn là một sự chuyển động liên tục với những tìm tòi thi
pháp đa dạng. Một khi quan niệm sáng tạo là nhằm hướng đến “sự khác hẳn, biệt
lập (đôi khi đối lập) với cái đã được định giá”, tác giả không ngại tìm kiếm và
dung nạp những cách nghĩ, cách viết mới, hiện đại, tạo nên sự giãn nở liên tục
và khá rộng rãi trong biên độ sáng tạo” [32, tr.1]. Và “ thế giới thơ ông dù
biến đổi hết sức đa dạng song vẫn rất nhất quán ở tinh thần vận động hướng về
cái mới, không hoàn tất, khép kín mà ngược lại, sẵn sàng “mời gọi” những diễn
dịch đa chiều” [32, tr.3].
Kim Chuông trong bài “Mai Văn Phấn lấp lánh giữa mông lung vô thức” cho rằng: “Vũ trụ
đã nằm trong trái tim thi sĩ” và “Nhà thơ luôn văng mình về một phía xa khuất
để cố nén và ôm trùm nơi hồn mình một ngoại giới mông lung. Một vũ trụ thiên
nhiên tự nhà thơ đẻ ra các dồi dào trực giác, nhưng trực giác lại có quá trình
tích lũy nào đó” [24, tr.275].
Nhã Thuyên trong bài “Khí quyển thơ - sinh thái của Mai Văn Phấn: thơ, bầu trời và những
linh hồn” cho rằng thơ Mai Văn Phấn mang đến “không gian luôn rộng mở
đón đợi người đọc cùng sáng tạo nhưng lại không dễ dàng để gọi tên cái “khí”
của một người thơ miệt mài, nhẫn nại, trong lành và nhiệt huyết như Mai Văn Phấn”
[24, tr.451].
Nguyễn Hoàng Đức, khi đề cập đến sự thay đổi bút
pháp thơ Mai Văn Phấn, đã viết: “Phải nói, anh đã thể nghiệm rất nhiều bút
pháp thơ từ cổ điển đến các khuynh hướng thơ hiện đại thế kỷ hai mươi và thơ
văn xuôi. Tất cả đều được cày xới, chiêm nghiệm, chìm đắm đến nhuần nhị. Đọc
thơ anh, có cảm giác bình thản như một nhạc công đã tu luyện thành thạo và dễ
dàng biểu diễn những khúc nhạc khó nhẹ như lông hồng” [24, tr.35].
Tất cả những công
trình trên dù không trực tiếp khảo sát yếu tố thời gian trong thơ Mai Văn Phấn
nhưng các ý kiến đều liên quan đến vấn đề cảm thức thời gian trong thơ Mai Văn
Phấn từ các góc nhìn khác nhau. Gần đây nhất, có thể thấy công trình “Cảm thức thời gian trong thơ Mai Văn Phấn”
của Mai Thị Liên Giang là một trong những tư liệu nghiên cứu công phu, có nhiều
phát hiện mới. Đây cũng chính là những ý kiến nền tảng gợi ý cho chúng tôi thực
hiện đề tài này. Khái quát cảm thức thời gian trong thơ Mai Văn Phấn, tác giả
Mai Thị Liên Giang đã nhận định: “Thơ Mai Văn Phấn có sự hòa hợp với thời gian,
thích nghi với sự vận hành của thời gian, chủ động đón đợi thời gian, bình tĩnh
chờ thời gian đến, cảm nghiệm, trải nghiệm thời gian trong từng cung bậc cảm xúc
của con người. Nhà thơ không sợ hãi, trốn chạy thời gian, cũng không chạy đua
hay đố kị với thời gian, không tiếc nuối thời gian. Thi sĩ thấy rõ mình đang
hành xử đúng mực với từng sát - na thời gian, chiêm nghiệm, trải nghiệm; chơi
với nó một cách thú vị như trò xúc xắc. Thời gian trong thơ ông chính là con người!”
[17, tr.53].
Như
vậy, qua việc khảo sát các tư liệu, bài viết, công trình nghiên cứu về nhà thơ Trương Đăng Dung
và Mai Văn Phấn chúng tôi thấy rằng các
nhà phê bình đã ghi nhận những cống hiến không hề nhỏ của hai nhà thơ cho
nền thơ ca Việt Nam đương đại. Khẳng định những thành quả mà nhà thơ đạt được
chính là những nỗ lực không mệt mỏi trong hành trình sáng tác của họ với mong
muốn đem đến cho diện mạo thơ dân tộc những đóng góp nghệ thuật mới.
Mặc dù đã có sự quan tâm nhiều như vậy nhưng để khám phá hết những giá trị tiềm
ẩn trong thế giới thơ của hai thi sĩ này không hề đơn giản. Có thể nói cho đến thời điểm hiện tại (tháng 8/2020) vấn
đề cảm thức thời gian trong thơ Trương
Đăng Dung và Mai Văn Phấn vẫn chưa
được nghiên cứu một cách hệ thống. Với đề
tài này chúng tôi muốn đưa ra một cái nhìn hệ thống về vấn đề cảm thức thời
gian trong thơ Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn, từ đó khẳng định thêm vai trò
của hai nhà thơ trong tiến trình phát triển thơ Việt Nam.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi
nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là tìm hiểu những nét tương đồng,
khác biệt trong cảm thức thời gian giữa thơ Trương Đăng Dung và thơ Mai Văn
Phấn, phân tích và lí giải sự thể hiện của cảm thức thời gian từ nhiều phương
diện khác nhau.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng khảo sát chính của luận văn là các tập thơ
Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn đã được
in ấn và xuất bản. Bao gồm:
- Thơ Trương Đăng Dung:
+ Những kỷ niệm
tưởng tượng (Nxb Thế giới, 2011);
+ Em là nơi anh tị
nạn (Nxb Văn học, 2020).
- Thơ Mai Văn Phấn:
+ Giọt nắng
(NXB Hải Phòng, 1992);
+ Gọi xanh (NXB
Hội Nhà văn, 1995);
+ Cầu nguyện ban
mai (NXB Hải Phòng, 1997);
+ Nghi lễ nhận tên
(NXB Hải Phòng, 1999);
+ Người cùng thời
(NXB Hải Phòng, 1999);
+ Vách nước
(NXB Hải Phòng, 2003);
+ Hôm sau (NXB
Hội Nhà văn, 2009);
+ và đột nhiên gió thổi (NXB Văn học, 2009);
+ Bầu trời không
mái che (NXB Hội Nhà văn, 2010);
+ Thơ tuyển Mai Văn
Phấn (thơ cùng tiểu luận và trả lời phỏng vấn, NXB Hội Nhà văn 2011);
+ hoa giấu mặt
(NXB Hội Nhà văn, 2012);
+ Vừa sinh ra ở đó
(NXB Hội Nhà văn, 2013);
+ thả (NXB Hội
Nhà văn, 2015);
+ Tĩnh lặng
(NXB Hội Nhà văn, 2018);
+ Thời tái chế
(NXB Hội Nhà văn, 2018).
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là cảm thức thời gian trong thơ Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn qua
những điểm chung và những dấu ấn riêng. Ngoài ra chúng tôi còn khảo sát thêm
một số tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, dịch thuật của hai nhà thơ, để có
căn cứ khoa học khi phân tích, so sánh giữa các luận điểm trong luận văn.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê, phân loại: Dùng để thống kê các
câu thơ, bài thơ thể hiện cảm thức thời gian (ngôn ngữ, hình ảnh, biểu tượng)
trong thơ Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn, từ đó phân loại, khái quát các kiểu
thời gian thể hiện trong tác phẩm, đưa chúng vào các nội dung cụ thể phục vụ
cho mục đích nghiên cứu.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Đặt sáng tác của Trương Đăng Dung và Mai Văn
Phấn trong cái nhìn tương quan để tìm ra những nét tương đồng, khác biệt. Chúng
tôi chủ yếu sử dụng phương pháp so sánh về mặt loại hình, lí giải các tương
đồng, dị biệt từ các hiểu biết về tiểu sử nhà văn cũng như đặc điểm xã hội, môi
trường văn hóa mà nhà văn sống. Bên cạnh đó, đặt hai tác giả này trong mối quan
hệ với các nhà thơ xuất hiện trước và sau họ để thấy nét độc đáo trên cái nền
chung của thời đại cũng như trong tiến trình lịch sử văn học và đóng góp riêng
của mỗi người.
- Phương pháp cấu trúc, hệ thống: Tạo ra tính khoa học
trong luận điểm, luận cứ, luận chứng và giúp đánh giá thơ Trương Đăng Dung và
Mai Văn Phấn trong tính chỉnh thể toàn vẹn.
- Phương pháp phân tích – tổng hợp: Được sử dụng xuyên
suốt trong luận văn nhằm kết hợp phân tích dẫn chứng với việc đưa ra những nhận
định ở các chương, các phần.
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn hoàn thành sẽ có những đóng góp nhất định sau:
- Đánh giá khách quan về cảm thức thời gian trong thơ
Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn.
- Gợi mở hướng vận dụng yếu tố cảm thức thời gian để đọc
hiểu và nghiên cứu các tác phẩm của hai tác giả trong mối quan hệ so sánh.
- Khẳng định giá trị thơ Trương Đăng Dung và Mai Văn
Phấn, những đóng góp của hai tác giả trong hành trình đổi mới thơ Việt. Đồng
thời góp thêm một phần nhỏ trong hành trình đưa thơ Trương Đăng Dung và thơ Mai
Văn Phấn đến gần hơn với độc giả.
- Bằng kết quả khảo sát,
phân tích, chỉ ra những nét đặc sắc trong cảm thức thời gian ở hai tác giả, đặc
biệt nhấn mạnh những chỗ tương đồng và dị biệt, phần nào chỉ ra nguyên nhân
cũng như ý nghĩa của nó trong quá trình sáng tạo.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn được triển khai trong 3 chương:
- Chương 1: Hành trình sáng tạo của
Trương Đăng Dung, Mai Văn Phấn và cảm thức thời gian trong thơ hiện đại Việt
Nam.
- Chương 2: Điểm gặp gỡ về cảm thức thời gian trong thơ
Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn.
- Chương
3: Dấu ấn riêng trong thơ Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn về cảm thức thời
gian.
NỘI DUNG
Chương 1
HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO CỦA TRƯƠNG ĐĂNG DUNG,
MAI VĂN PHẤN VÀ VẤN ĐỀ CẢM THỨC THỜI GIAN
TRONG THƠ HIỆN ĐẠI VIỆT NAM
1.1.Trương Đăng Dung - hành trình sáng tạo và những suy tư về thơ
1.1.1. Hành trình sáng tạo thơ Trương Đăng Dung
Trương Đăng Dung sinh ngày 8 tháng 5 năm 1955 tại một
làng quê nghèo thuộc xã Diễn Trường, huyện Diễn Châu, Nghệ An. Sau khi hoàn
thành chương trình PTTH, ông sang học tập và tốt nghiệp khoa Ngữ văn thuộc
Trường đại học Tổng hợp Budapest - Cộng hòa Hungari (Tốt nghiệp năm 1978). Ngay
sau khi tốt nghiệp đại học, Trương Đăng Dung trở về đất nước và làm việc tại
Viện Văn học. Trong quá trình làm việc và nghiên cứu, ông luôn nỗ lực nâng cao
trình độ, không ngừng đổi mới và sáng tạo trong lĩnh vực khoa học nghiên cứu
văn học, tích cực đưa khoa học dần tiến kịp với thế giới... Trương Đăng Dung
trở lại Hungari làm nghiên cứu sinh rồi bảo vệ luận án Tiến sĩ (Năm 1984). Sau
khi bảo vệ luận án Tiến sĩ, Trương Đăng Dung có đủ cơ hội và khả năng để cống
hiến nhiều hơn, năm 1996 được phong tặng học vị phó Giáo sư văn học. Những nỗ
lực của ông được thể hiện bằng các trọng trách quan trọng tại Viện Văn học. Thời
gian học tập ở Hungary ông được tiếp xúc với tư duy lý thuyết phương Tây một
cách bài bản, đồng thời được trải nghiệm các khuynh hướng sáng tác hiện đại,
hậu hiện đại. Một cậu bé nhà quê nghèo khổ, sống trên một xứ sở bị bom đạn
chiến tranh cày nát, đã quen với cuộc sống ấy như một điều hoàn toàn tự nhiên,
giờ đây bước vào một thế giới hoàn toàn xa lạ. Trương Đăng Dung thuở ấy kể lại
trong những năm đầu đại học ông sống khép mình, lạc lõng giữa bạn bè, cả Việt
lẫn Hung. Trương Đăng Dung đến với hành trình “xóa mờ ranh giới” bằng thơ.
Trương Đăng Dung là tác giả của nhiều công trình khoa học
dày dặn và những tác phẩm dịch thuật có ý nghĩa và giá trị như: Các vấn đề của khoa học văn học (chủ
biên, 1990), Văn học và hiện thực
(viết chung, 1990), Từ văn bản đến tác phẩm văn học (1998), Tác phẩm văn học như là quá trình (2004).
Đặc biệt là công trình chuyển ngữ Truyện
Kiều sang tiếng Hungary được ông hoàn thành khi chưa tròn 30 tuổi... Người đọc
còn biết đến một dịch giả uy tín Trương Đăng Dung với những dịch phẩm như: Lâu đài
(F.Kafka-1998), Đứa trẻ mồ côi
(Môricz Zsigmond - 2009), Trên đường đến
với ngôn ngữ (M. Heidegger), Nghệ
thuật và chân lí khách quan (G. Lukács), Thằng điên và quỷ sứ (tiểu thuyết Sarkadi Imre, 2000).
Với thơ ca, năm 2011, Trương Đăng Dung xuất bản tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng với 25 bài là
tập hợp những sáng tác chọn lọc trong suốt chặng đường dài mấy chục năm ông đã
sống, nhận thức và trải nghiệm thế giới. Người đọc còn thực sự choáng ngợp bởi:
thời gian thơ có sức ám ảnh lạ thường, không gian thơ lạ hóa - mơ hồ, hệ thống
biểu tượng thơ bắt nguồn từ chủ thể nên không còn điểm tựa ở thế giới hiện thực
mà phụ thuộc vào trí tưởng tượng và quan điểm nhà thơ... Điều đặc biệt nhất
trong số ấy là thế giới hiện thực đã bị xoay chiều, đảo ngược, vỡ vụn và xâm
lấn lẫn nhau. Bằng lối phê bình tri âm, trong lời giới thiệu
thi phẩm Những kỷ niệm tưởng tượng, nhà phê bình Đỗ Lai Thúy đã gọi tên một
cách khá chính xác thơ Trương Đăng Dung: “Có thể nói, thơ Trương Đăng Dung là
thơ thời - gian”. Bên cạnh những phát hiện khá thú vị, Đỗ Lai Thúy đã làm một
phép so sánh giữa quan niệm thời gian trong Thơ Mới và thời gian trong thơ
Trương Đăng Dung để đi đến nhận định: “Từ Thơ Mới đến thơ Trương Đăng Dung là
một quá trình”. Thơ Mới, nhất là thơ Xuân Diệu, là những tiếng nói khắc khoải
muốn vượt qua nỗi - ám - ảnh - thời - gian này. Thơ Trương Đăng Dung đôi khi
còn vương lại chút thời gian cũ như chiếc lá cuối cùng của mùa đông trước.
Nhưng, nhìn chung, thơ anh đã có một thời gian khác. Nếu thời - gian - Thơ -
Mới là thứ thời gian, dù chi phối con người một cách rốt ráo, thì vẫn cứ là cái
bên ngoài con người, là khung của một đời người. Trong khi đó, thời - gian -
thơ - Trương - Đăng - Dung là thời gian bên trong con người, thời gian chính là
con người, hay nói như M. Heidegger, một triết gia mà Trương Đăng Dung sùng mộ,
“tồn tại và thời gian”, “tồn tại là thời gian”. Có lẽ, chính thứ thời gian có
tính kiến tạo này đã làm cho mọi sự
trên đời này đều mang tính quy ước, đều là sự thỏa thuận của ngôn ngữ, đúng hơn
của trò chơi ngôn ngữ” [7, tr.86].
Tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng là quả ngọt của
sự kết tinh trong một thời gian dài thai nghén, ấp ủ, cho thấy tính tri thức
dày dặn được chuyển hóa nhuần nhuyễn qua những ưu tư, trăn trở về bản ngã, về
kiếp người, về cõi nhân sinh. Những kỷ niệm
tưởng tượng đặc biệt trong cách xây dựng hình ảnh tưởng tượng hư thật, ngôn
từ đột phá, mới lạ bởi sự dung hòa giữa truyền thống và hiện đại, hiện đại làm
mới lạ truyền thống, làm truyền thống trở nên đặc sắc, giãn dần khoảng cách. Kể từ khi tập thơ đó được xuất bản, đã có nhiều kiến chỉ
ra những thành tựu và đóng góp của Trương Đăng Dung trong địa hạt thi ca. Đặc
biệt là cuốn Những kỉ niệm tưởng tượng tác phẩm và dư luận ra đời năm
2014, tập hợp gần bốn mươi bài tiểu luận,
bài nghiên cứu, phê bình của các tác giả trong và ngoài nước về tập thơ
được đăng tải trên các tạp chí trung ương và địa phương không chỉ khẳng định
sức hấp dẫn của tập thơ đối với công chứng yêu thơ mà còn có ý nghĩa thời sự
trong đời sống văn học.
Sau Những kỷ niệm tưởng tượng, nhà thơ Trương Đăng Dung vừa cho ra mắt
tập thơ Em là nơi anh tị nạn (NXB Văn học, 2020). Tập sách gồm 24 bài thơ và một
tiểu luận. Sách dày 102 trang, được trình bày đẹp, tao nhã. Bìa sau có lời nhận
xét của Thùy Yên (nhà thơ nổi tiếng ở miền Nam trước 1975), PGS.TS. Đỗ Lai Thúy
và NXB Europa. Đây là tập thơ thứ hai của Trương Đăng Dung, sau cuốn Những kỷ niệm tưởng tượng (2011). Giống như tập trước, Em là nơi anh tị nạn cũng đậm chất triết lý, suy tư về con người và thời cuộc,
tràn đầy những cảm xúc sâu lắng về tình yêu đôi lứa và tình cảm gia đình. Em là nơi anh tị nạn là một hình ảnh thơ mang tính dụ ngôn
đầy sức ám gợi. Em là một hiện hữu ngoài bản thể. Hiện hữu đó, có thể là tha
nhân, là một nơi chốn, là tình yêu, là thơ ca, thậm chí là là một giấc mơ, là
cái đẹp, là một cõi tâm linh nào đó, để thi nhân “tị nạn” hầu đi tìm sự “cứu
rỗi”, sự “thứ tha”, đi tìm “gương mặt con người” trong một thế giới luôn bất
toàn. Tuy nhiên, Em là nơi anh tị nạn không chỉ có thơ tự do mà có nhiều bài thơ văn xuôi với
cách diễn đạt mới lạ theo tinh thần hậu hiện tại.
1.1.2. Những suy tư về thơ của
Trương Đăng Dung
Khi bàn luận về sáng tạo nghệ thuật và cá tính
của người nghệ sĩ, một quy luật tất yếu của sáng tạo văn học và nghệ thuật,
luôn độc đáo, luôn tạo sự khác biệt và biết làm mới mình. Nhìn lại cả một
chặng đường dài của văn học, ta nhận thấy một cuộc lột xác gay gắt từ
cái ta của thơ cũ
sang cái tôi nhỏ bé,
mỏng manh của Thơ mới, rồi lại từ những âu sầu, bi ai của thơ lãng mạn sang âm
hưởng hào hùng, bi tráng của một thời đại mà cả dân tộc đứng lên chống giặc
ngoại xâm, bảo vệ đất nước. Mỗi một thời kì văn học nói chung và thơ ca nói
riêng lại đặt ra yêu cầu tự làm mới mình để phù hợp với hoàn cảnh của thời đại
và tạo nên những cá tính riêng độc đáo.
Bước ra khỏi cuộc chiến tranh trường kì, bên
cạnh những dư âm hào hùng của cuộc chiến thắng, các nhà thơ cũng tự xoay mình,
nhìn lại những đau thương, mất mát mà cả dân tộc đang phải gánh chịu. Đứng
trong tâm thế của kẻ thắng trận nhưng vẫn còn đó là những hoang tàn, đổ nát của
quê hương, là những đau thương của người mẹ “khóc vì những đứa con, lần lượt ra
đi mãi mãi”, là những thiếu thốn, nghèo đói. Nếu như trước 1975, các
nhà thơ vẫn còn e ngại, dè dặt mỗi khi viết về những nỗi buồn thì bước sang
những năm đầu của thập kỉ 80, họ lại nói nhiều hơn về nỗi buồn nhân sinh, những
cảm nhận của cái tôi trước
sự xoay vần nghiệt ngã của thực tại. Cắt nghĩa về thực trạng này, nhà nghiên
cứu Nguyễn Đăng Điệp trong bài viết “Thơ Việt Nam sau 1975 - diện mạo và khuynh hướng phát
triển” đã đưa ra hai lí do lí giải: “thứ nhất, đó là nỗi
buồn xuất phát từ thời thế: sự khủng hoảng về niềm tin, sự bất an trước thời
cuộc; thứ hai, trong nền kinh tế thị trường, quan hệ người trở nên lỏng lẻo,
con người vừa phải sống trong nhiều mối quan hệ hơn nhưng cũng cô đơn hơn” [27,
tr.380].
Là nhà khoa học
làm thơ, Trương Đăng Dung đã rất chặt chẽ khi tạo dựng cấu trúc văn bản trên
dòng tư tưởng nhất quán của mình. Ông muốn mỗi tập thơ phải có thông điệp riêng
được toát ra một cách nhất quán từ vẻ đẹp của những bài thơ đứng cạnh nhau. Những kỷ niệm tưởng tượng nhất quán từ
tư tưởng đến kết cấu. Cảm thức về thời gian bao trùm tập thơ, đặc biệt nhà thơ
cho thấy con người đã ý thức được bước đi của thời gian và sự hữu hạn của đời
người, sự mong manh của kiếp người (đó là cuộc đời). Trương - Đăng - Dung thường tuyên ngôn tác
phẩm là một quá trình. Trên quá trình đó,
thơ ông luôn tự thay đổi. Hoặc là bài sau viết khác hơn bài trước. Hoặc là một
bài nào đó khởi thảo từ thời sinh viên cứ sửa đi sửa lại cho đến khi in được
thì thôi. Đó hẳn là lý do, Trương Đăng Dung làm thơ từ tuổi 20 mà đến quá tuổi
“tri thiên mệnh” mới in tập đầu tiên. Như vậy, thơ Trương Đăng Dung là một quá
trình. Và, cùng với quá trình thơ ấy là quá trình người. Bởi, Trương Đăng Dung
và thơ ông là một. Cả người và thơ đều ám ảnh.
Trương Đăng Dung không chỉ làm thơ
mà còn có những suy niệm về thơ mang cảm thức triết luận khá sâu sắc: “Xin đừng hỏi thơ có thể làm được gì trong một thế giới mà
đến nỗi đau cũng cũ, nơi con người đang tiếp tục bị lãng quên! Thơ chỉ có thể
có ích cho con người khi nói về con người một cách trung thực, theo cách của
thơ!” [7, tr.509]. Thơ Trương Đăng Dung là thơ của những nỗi niềm lặng lẽ, đau đáu trước
những được mất của phận người. Cảm thức triết luận là một thực thể mang tính dự
phóng trong hành trình sáng tạo nghệ thuật của Trương Đăng Dung. “Tôi đã không
tiếp cận các nền văn hóa theo cách phân chia chính trị về các hệ thống thế
giới. Tôi cũng đã không nhìn con người theo các nhãn mác giai cấp, tôn giáo và
chủng tộc. Con người là con người trong sự mong manh của kiếp sống, trong sự
bất hạnh tột cùng và niềm hạnh phúc tột đỉnh của nó. Tôi đã nhận ra sự khác
biệt giữa tư duy khoa học và tư duy nghệ thuật. Tôi đã nhận ra thơ là sự
khám phá và giãi bày bản thể một cách tự nguyện. Lí luận phê bình diễn giải cái
thế giới nghệ thuật của nhà thơ, còn nhà thơ thì khám phá và giãi bày cái thế
giới bên trong của chính mình. Tôi cần đến thơ như một diễn ngôn có khả năng
thể hiện được một cách phong phú hơn, đa diện hơn cái tôi luôn bất an trước thế
giới” [7, tr.507]. Trương Đăng Dung tìm đến thơ như một cách để giải tỏa những
ẩn ức, nỗi niềm của bản thân mà lý luận phê bình chưa thể mang lại. Ông đã tìm
thấy trong thơ một sự giao thoa, thăng hoa bản ngã, luôn ý thức về những
khả năng và giới hạn của thơ, cũng như những khả năng và giới hạn của đời sống
con người. Ý thức về giới hạn là cơ sở để Trương Đăng Dung hi vọng về một sự
vượt thoát giới hạn.
Trước Heidegger, người ta luôn đối
lập Tồn tại và Thời gian. Tồn tại được coi như cái bất biến, thường hằng, phi
thời gian. Còn thời gian là cái gì đó luôn di động, trôi chảy, “không ai có thể
tắm hai lần trên cùng một dòng sông” (Heraclitus). Cái nhìn lưỡng phân đối lập
này bắt nguồn từ quan niệm về hai thế giới: cõi tự tại và cõi hiện tượng. Và
thế giới tự tại/ẩn tượng được coi trọng, còn thế giới hiện tượng mặc nhiên bị
khinh thị. Bởi, cái này biến dịch, thay đổi theo thời gian, còn cái kia nằm ở
bên kia thời gian, nên nó mới là tồn tại đích thực. Đến Heidegger, Tồn tại và
Thời gian không còn đối lập nhau nữa, vì thời gian không nằm ngoài tồn tại,
thời gian là một chiều kích của tồn tại. Hơn nữa, chính tồn tại cũng thay đổi,
cũng biến dịch như thời gian. Nắm bắt tư tưởng này của Heidegger, Trương Đăng
Dung vừa chế ngự thời gian để chữa trị những tổn thương tâm lý, vừa suy tưởng
về thời gian như một khái niệm triết học.
Với nhìn nhận thời gian trong mối
quan hệ với tồn tại như vậy, thơ Trương Đăng Dung cũng là thơ về tồn tại. Trước hết là sự
hoài nghi tồn tại, đặc biệt là tồn - tại - người. Đành rằng cuộc sống người là
giả tạm, là tùy duyên. Hoài nghi tồn tại sẽ dẫn đến những suy nghĩ về cái cái
chết, một gặp gỡ cuối cùng tạo ra sự “đoản mạch” của Tồn tại và Thời gian. Thơ
Trương Đăng Dung, vì thế, bị ám ảnh bởi sự chết, đúng hơn một cái sống thắc
thỏm chờ đợi cái chết đến gõ cửa. Điều này được thể hiện ở chữ kiếp người xuất hiện với
tần suất cao trong tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng
(Đã tan trong sương khói/ những kiếp
người; Viết lên mặt đất
thành lời/ về kiếp người ngắn ngủi; Có
gì mới hơn sau mỗi kiếp người…). Những bận tâm, thắc mắc, câu hỏi của
Trương Đăng Dung dường như ít được người khác chia sẻ, vì thế anh rơi vào cô
đơn. Lại nhớ đến câu thơ Đặng Đình Hưng: “Cô đơn toàn phần mới sinh sáng tạo”.
Trong ánh cô đơn của buổi hoàng hôn của các thần tượng, thơ Trương Đăng Dung có
hình ảnh một người đi tìm nghĩa.
Trên hành trình tìm nghĩa ấy, gần đây Trương Đăng Dung trở về với các nhân vật,
sự kiện trong Kinh Thánh, như Gióp, Giô-Na, để tìm trong nguyên ngôn những dụ
ngôn của mình. Khi Trương Đăng Dung viết thơ tự do thì mỹ học hiện đại, tuy
chưa phải đã thống trị, nhưng đã được thiết lập vững chắc. Không ai còn công
khai phản đối thơ tự do nữa. Thơ tự do, tức hình thức của nội dung mang tính
quan niệm nghệ thuật, từ tư cách một thể
loại, mang tính cách mạng, chỉ còn là một thể
thơ, tức hình thức của hình thức. Bởi vậy, giờ đây làm thơ tự do không
có gì mới nữa. Nên muốn mới không thể ỷ vào thể thơ được nữa, mà phải đi tìm
những chiều kích khác, để nâng cao phẩm tính/ chất lượng/ chiều cao của thơ.
Các nhà thơ hiện nay như Dương Kiều Minh, Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn… ít
nhiều đã khước từ chiều ngang xã hội để đến với chiều cao tâm linh. Họ cố gắng
tìm chất thơ ở huyền thoại, tín ngưỡng dân gian, lễ hội… còn Trương Đăng Dung
thì đến với chiều triết học, triết học Heidegger, triết học ngôn ngữ. Thơ Trương
Đăng Dung có một thứ triết đã từ tháp ngà trở về với đời sống, trở thành đời
sống trong những biểu hiện đời thường. Theo Đỗ Lai Thúy, Trương Đăng Dung là
một người làm lý luận văn học, mà lý luận văn học đúng nghĩa chứ không phải
đường lối chính sách, thì bao giờ cũng là bà con của triết học, tức giàu tính
tư biện. Ấy là chưa kể hiện nay lý thuyết văn học cũng trở thành triết học.
Thời kỳ đầu thơ Trương Đăng Dung đâu phải đã có ngôn ngữ ngay. Tuy nhiên dần
dần thơ ông đã có ngôn ngữ. Dẫu chưa phải là thơ
ngôn ngữ, thơ vị chữ như thơ Trần Dần, Lê Đạt, nhưng ngôn ngữ thơ Trương
Đăng Dung đã có cuộc sống tự nó, sự phát triển tự thân, có một sinh mệnh riêng. Có lẽ, chính thứ thời gian có tính kiến tạo này đã làm cho mọi
sự trên đời đều mang tính quy ước, đều là sự thỏa
thuận của ngôn ngữ, đúng hơn của trò chơi ngôn ngữ.
Trương
Đăng Dung quan niệm làm thơ không phải là phản ánh mà là kiến tạo ra một thế
giới khác trong tưởng tượng nhưng có cơ sở từ những ảo ảnh của thế giới hiện
thực. Theo Nguyễn Đăng Điệp, 40 năm theo đuổi đam mê đã thể hiện sự kiên trì
của ông trong con đường thơ ca. Sự cống hiến lặng lẽ của Trương Đăng Dung cho
lĩnh vực thơ ca rất đáng trân trọng. Trương Đăng Dung quan niệm: “Thơ ca có thể
và cần phải là một trong những hình thức biểu hiện của tư duy triết học”. Xuất
phát từ quan niệm ấy, thơ ông chọn triết học hiện sinh là nền tảng lý luận và
cũng là mục đích biểu hiện. Đồng thời, ông cũng cho rằng “thơ là sự khám phá và
giãi bày bản thể một cách tự nguyện”. Ông tìm đến thơ “như một diễn ngôn có khả
năng thể hiện một cách phong phú hơn, đa dạng hơn cái tôi luôn bất an trước thế
giới”. Chủ nghĩa hiện sinh với những quan niệm của nó về con người, thực sự đã
thức chạm những xúc cảm dồn nén của Trương Đăng Dung. Rất nhiều bài thơ mang
hình thức tự bạch của ông được ra đời từ sự thôi thúc bên trong của cảm hứng
mang sắc màu hiện sinh. Có lẽ, điều thú vị nhất trong thơ Trương Đăng Dung là
người đọc không thể tìm thấy con người, địa danh và những ranh giới cụ thể. Thế
giới thơ của ông đã trở thành câu chuyện, tiếng nói chung dễ đồng cảm của con
người trên khắp hành tinh này. Sự chào đón của độc giả tại Budapest đã minh
chứng cho giá trị đích thực của thơ ca là vượt qua mọi giới hạn, không gian và
biên giới.
Những kỷ
niệm tưởng tượng và Em là nơi anh tị nạn của Trương Đăng
Dung gửi gắm bao tâm sự. Mỗi tác phẩm chuyển tải mỗi nỗi niềm nhà thơ, là chân
dung tinh thần của chính nhà thơ qua bao thăng trầm cuộc sống. Độc giả bắt gặp
ở đây con người thâm trầm lặng lẽ, với ý
thức về sự ngắn ngủi của kiếp người nhưng nhiều khi bất lực trước thời cuộc;
luôn suy tư, nhiều mặc cảm chất chứa vì khó có được người tri âm tri kỉ trong
hiện tại. Các tác phẩm thể hiện nhiều tâm sự u uất và những nỗi niềm khó tỏ
bày, lí giải. Phảng phất trong các bài thơ là một tấm lòng xót thương vô hạn
trước những bi kịch cõi nhân sinh, một cái nhìn riêng phần nào vượt thoát ra
khỏi giới hạn của thời đại, dù còn chất chứa không ít bế tắc. Trương Đăng Dung
đã thổi vào thơ tâm hồn, cách cảm, cách nghĩ của con người về kiếp người. Thơ
ông có nhiều đóng góp đặc sắc về ngôn ngữ, kết cấu, chiều sâu tư tưởng…Ông là một tấm
gương về lối sống mẫu mực, giản dị, tận tâm và phong cách làm việc khoa học, kế
hoạch, nghiêm túc. Với Trương Đăng Dung trong cuộc sống phải rất nghiêm túc,
nghiêm túc với chính bản thân mình: lao động nghiêm túc, học tập nghiêm túc,
sinh hoạt nghiêm túc... nhất là trong nghiên cứu khoa học ông lại càng phải
nghiêm túc gấp trăm lần.
Khi bàn luận về sáng
tạo nghệ thuật và cá tính của người nghệ sĩ, một quy luật tất yếu của sáng tạo
văn học và nghệ thuật, luôn độc đáo, luôn tạo sự khác biệt và biết làm mới
mình. Nhìn lại cả một chặng đường dài của văn học, ta nhận thấy một cuộc lột
xác gay gắt từ cái ta của
thơ cũ sang cái tôi nhỏ
bé, mỏng manh của Thơ mới, rồi lại từ những âu sầu, bi ai của thơ lãng mạn sang
âm hưởng hào hùng, bi tráng của một thời đại mà cả dân tộc đứng lên chống giặc
ngoại xâm, bảo vệ đất nước. Mỗi một thời kì văn học nói chung và thơ ca nói
riêng lại đặt ra yêu cầu tự làm mới mình để phù hợp với hoàn cảnh của thời đại
và tạo nên những cá tính riêng độc đáo.
Bước ra khỏi cuộc
chiến tranh trường kì, bên cạnh những dư âm hào hùng của cuộc chiến thắng, các
nhà thơ cũng tự xoay mình, nhìn lại những đau thương, mất mát mà cả dân tộc
đang phải gánh chịu. Đứng trong tâm thế của kẻ thắng trận nhưng vẫn còn đó là
những hoang tàn, đổ nát của quê hương, là những đau thương của người mẹ “khóc
vì những đứa con, lần lượt ra đi mãi mãi”, là những thiếu thốn, nghèo đói. Nếu như trước 1975, các nhà thơ vẫn còn e ngại, dè dặt
mỗi khi viết về những nỗi buồn thì bước sang những năm đầu của thập kỉ 80, họ
lại nói nhiều hơn về nỗi buồn nhân sinh, những cảm nhận của cái tôi trước sự xoay vần nghiệt ngã
của thực tại. Cắt nghĩa về thực trạng này, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp
trong bài viết “Thơ Việt Nam sau 1975 - diện mạo và khuynh hướng phát
triển” đã đưa ra hai lí do lí giải: “thứ nhất, đó là nỗi
buồn xuất phát từ thời thế: sự khủng hoảng về niềm tin, sự bất an trước thời
cuộc; thứ hai, trong nền kinh tế thị trường, quan hệ người trở nên lỏng lẻo,
con người vừa phải sống trong nhiều mối quan hệ hơn nhưng cũng cô đơn hơn” [27,
tr.380].
Là nhà khoa học
làm thơ, Trương Đăng Dung đã rất chặt chẽ khi tạo dựng cấu trúc văn bản trên
dòng tư tưởng nhất quán của mình. Ông muốn mỗi tập thơ phải có thông điệp riêng
được toát ra một cách nhất quán từ vẻ đẹp của những bài thơ đứng cạnh nhau. Những kỷ niệm tưởng tượng nhất quán từ
tư tưởng đến kết cấu. Cảm thức về thời gian bao trùm tập thơ, đặc biệt nhà thơ
cho thấy con người đã ý thức được bước đi của thời gian và sự hữu hạn của đời
người, sự mong manh của kiếp người (đó là cuộc đời). Trương - Đăng - Dung thường tuyên ngôn tác phẩm là một quá trình. Trên quá trình đó,
thơ ông luôn tự thay đổi. Hoặc là bài sau viết khác hơn bài trước. Hoặc là một
bài nào đó khởi thảo từ thời sinh viên cứ sửa đi sửa lại cho đến khi in được
thì thôi. Đó hẳn là lý do, Trương Đăng Dung làm thơ từ tuổi 20 mà đến quá tuổi
“tri thiên mệnh” mới in tập đầu tiên. Như vậy, thơ Trương Đăng Dung là một quá
trình. Và, cùng với quá trình thơ ấy là quá trình người. Bởi, Trương Đăng Dung
và thơ ông là một. Cả người và thơ đều ám ảnh.
Trương
Đăng Dung không chỉ làm thơ mà còn có những suy niệm về thơ mang cảm thức triết
luận khá sâu sắc: “Xin đừng hỏi thơ có thể làm được gì trong một
thế giới mà đến nỗi đau cũng cũ, nơi con người đang tiếp tục bị lãng quên! Thơ
chỉ có thể có ích cho con người khi nói về con người một cách trung thực, theo
cách của thơ!” [7, tr.509]. Thơ Trương Đăng Dung là thơ của những
nỗi niềm lặng lẽ, đau đáu trước những được mất của phận người. Cảm thức triết
luận là một thực thể mang tính dự phóng trong hành trình sáng tạo nghệ thuật của
Trương Đăng Dung. “Tôi đã không tiếp cận các nền văn hóa theo cách phân chia chính trị về các
hệ thống thế giới. Tôi cũng đã không nhìn con người theo các nhãn mác giai cấp,
tôn giáo và chủng tộc. Con người là con người trong sự mong manh của kiếp sống,
trong sự bất hạnh tột cùng và niềm hạnh phúc tột đỉnh của nó. Tôi đã nhận ra sự
khác biệt giữa tư duy khoa học và tư duy nghệ thuật. Tôi đã nhận ra thơ
là sự khám phá và giãi bày bản thể một cách tự nguyện. Lí luận phê bình diễn
giải cái thế giới nghệ thuật của nhà thơ, còn nhà thơ thì khám phá và giãi bày
cái thế giới bên trong của chính mình. Tôi cần đến thơ như một diễn ngôn có khả
năng thể hiện được một cách phong phú hơn, đa diện hơn cái tôi luôn bất an
trước thế giới” [7, tr.507]. Trương Đăng Dung tìm đến thơ như một cách để giải
tỏa những ẩn ức, nỗi niềm của bản thân mà lý luận phê bình chưa thể mang lại.
Ông đã tìm thấy trong thơ một sự giao thoa, thăng hoa bản ngã, luôn ý thức về những khả năng và giới hạn của thơ, cũng như những khả năng
và giới hạn của đời sống con người. Ý thức về giới hạn là cơ sở để Trương Đăng
Dung hi vọng về một sự vượt thoát giới hạn.
Trước Heidegger, người ta luôn đối lập Tồn tại và Thời
gian. Tồn tại được coi như cái bất biến, thường hằng, phi thời gian. Còn thời
gian là cái gì đó luôn di động, trôi chảy, “không ai có thể tắm hai lần trên
cùng một dòng sông” (Heraclitus). Cái nhìn lưỡng phân đối lập này bắt nguồn từ
quan niệm về hai thế giới: cõi tự tại và cõi hiện tượng. Và thế giới tự tại/ẩn
tượng được coi trọng, còn thế giới hiện tượng mặc nhiên bị khinh thị. Bởi, cái
này biến dịch, thay đổi theo thời gian, còn cái kia nằm ở bên kia thời gian,
nên nó mới là tồn tại đích thực. Đến Heidegger, Tồn tại và Thời gian không còn
đối lập nhau nữa, vì thời gian không nằm ngoài tồn tại, thời gian là một chiều
kích của tồn tại. Hơn nữa, chính tồn tại cũng thay đổi, cũng biến dịch như thời
gian. Nắm bắt tư tưởng này của Heidegger, Trương Đăng Dung vừa chế ngự thời
gian để chữa trị những tổn thương tâm lý, vừa suy tưởng về thời gian như một
khái niệm triết học.
Với nhìn nhận thời gian trong mối quan hệ với tồn tại như
vậy, thơ Trương Đăng Dung cũng là thơ
về tồn tại. Trước hết là sự hoài nghi tồn tại, đặc biệt là tồn - tại - người.
Đành rằng cuộc sống người là giả tạm, là tùy duyên. Hoài nghi tồn tại sẽ dẫn
đến những suy nghĩ về cái cái chết, một gặp gỡ cuối cùng tạo ra sự “đoản mạch”
của Tồn tại và Thời gian. Thơ Trương Đăng Dung, vì thế, bị ám ảnh bởi sự chết,
đúng hơn một cái sống thắc thỏm chờ đợi cái chết đến gõ cửa. Điều này được thể
hiện ở chữ kiếp người xuất hiện với
tần suất cao trong tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng
(Đã tan trong sương khói/ những kiếp
người; Viết lên mặt đất
thành lời/ về kiếp người ngắn ngủi; Có
gì mới hơn sau mỗi kiếp người…). Những bận tâm, thắc mắc, câu hỏi của
Trương Đăng Dung dường như ít được người khác chia sẻ, vì thế anh rơi vào cô
đơn. Lại nhớ đến câu thơ Đặng Đình Hưng: “Cô đơn toàn phần mới sinh sáng tạo”.
Trong ánh cô đơn của buổi hoàng hôn của các thần tượng, thơ Trương Đăng Dung có
hình ảnh một người đi tìm nghĩa.
Trên hành trình tìm nghĩa ấy, gần đây Trương Đăng Dung trở về với các nhân vật,
sự kiện trong Kinh Thánh, như Gióp, Giô-Na, để tìm trong nguyên ngôn những dụ
ngôn của mình. Khi Trương Đăng Dung viết thơ tự do thì mỹ học hiện đại, tuy
chưa phải đã thống trị, nhưng đã được thiết lập vững chắc. Không ai còn công
khai phản đối thơ tự do nữa. Thơ tự do, tức hình thức của nội dung mang tính
quan niệm nghệ thuật, từ tư cách một thể
loại, mang tính cách mạng, chỉ còn là một thể
thơ, tức hình thức của hình thức. Bởi vậy, giờ đây làm thơ tự do không
có gì mới nữa. Nên muốn mới không thể ỷ vào thể thơ được nữa, mà phải đi tìm
những chiều kích khác, để nâng cao phẩm tính/ chất lượng/ chiều cao của thơ.
Các nhà thơ hiện nay như Dương Kiều Minh, Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn… ít
nhiều đã khước từ chiều ngang xã hội để đến với chiều cao tâm linh. Họ cố gắng
tìm chất thơ ở huyền thoại, tín ngưỡng dân gian, lễ hội… còn Trương Đăng Dung
thì đến với chiều triết học, triết học Heidegger, triết học ngôn ngữ. Thơ Trương
Đăng Dung có một thứ triết đã từ tháp ngà trở về với đời sống, trở thành đời
sống trong những biểu hiện đời thường. Theo Đỗ Lai Thúy, Trương Đăng Dung là
một người làm lý luận văn học, mà lý luận văn học đúng nghĩa chứ không phải
đường lối chính sách, thì bao giờ cũng là bà con của triết học, tức giàu tính
tư biện. Ấy là chưa kể hiện nay lý thuyết văn học cũng trở thành triết học.
Thời kỳ đầu thơ Trương Đăng Dung đâu phải đã có ngôn ngữ ngay. Tuy nhiên dần
dần thơ ông đã có ngôn ngữ. Dẫu chưa phải là thơ
ngôn ngữ, thơ vị chữ như thơ Trần Dần, Lê Đạt, nhưng ngôn ngữ thơ Trương
Đăng Dung đã có cuộc sống tự nó, sự phát triển tự thân, có một sinh mệnh riêng.
Có lẽ, chính thứ thời gian có tính kiến tạo này đã làm cho mọi sự trên đời đều
mang tính quy ước, đều là sự thỏa
thuận của ngôn ngữ, đúng hơn của trò chơi ngôn ngữ.
Trương Đăng Dung quan niệm làm thơ không phải là phản ánh
mà là kiến tạo ra một thế giới khác trong tưởng tượng nhưng có cơ sở từ những
ảo ảnh của thế giới hiện thực. Theo Nguyễn Đăng Điệp, 40 năm theo đuổi đam mê
đã thể hiện sự kiên trì của ông trong con đường thơ ca. Sự cống
hiến lặng lẽ của Trương Đăng Dung cho lĩnh vực thơ ca rất đáng trân trọng. Trương Đăng Dung quan niệm: “Thơ ca có thể và cần phải
là một trong những hình thức biểu hiện của tư duy triết học”. Xuất phát từ quan
niệm ấy, thơ ông chọn triết học hiện sinh là nền tảng lý luận và cũng là mục
đích biểu hiện. Đồng thời, ông cũng cho rằng “thơ là sự khám phá và giãi bày
bản thể một cách tự nguyện”. Ông tìm đến thơ “như một diễn ngôn có khả năng thể
hiện một cách phong phú hơn, đa dạng hơn cái tôi luôn bất an trước thế giới”.
Chủ nghĩa hiện sinh với những quan niệm của nó về con người, thực sự đã thức
chạm những xúc cảm dồn nén của Trương Đăng Dung. Rất nhiều bài thơ mang hình
thức tự bạch của ông được ra đời từ sự thôi thúc bên trong của cảm hứng mang
sắc màu hiện sinh. Có lẽ, điều thú vị nhất trong thơ Trương Đăng Dung là người
đọc không thể tìm thấy con người, địa danh và những ranh giới cụ thể. Thế giới
thơ của ông đã trở thành câu chuyện, tiếng nói chung dễ đồng cảm của con người
trên khắp hành tinh này. Sự chào đón của độc giả tại Budapest đã minh chứng cho
giá trị đích thực của thơ ca là vượt qua mọi giới hạn, không gian và biên giới.
Những
kỷ niệm tưởng tượng và Em là nơi anh tị nạn của Trương Đăng
Dung gửi gắm bao tâm sự. Mỗi tác phẩm chuyển tải mỗi nỗi
niềm nhà thơ, là chân dung tinh thần của chính nhà thơ qua bao thăng trầm cuộc
sống. Độc giả bắt gặp ở đây con người
thâm trầm lặng lẽ, với ý thức về sự
ngắn ngủi của kiếp người nhưng nhiều khi bất lực
trước thời cuộc; luôn suy tư, nhiều mặc cảm chất
chứa vì khó có được người tri âm tri
kỉ trong hiện tại. Các tác
phẩm thể hiện nhiều tâm sự u uất và những nỗi niềm khó tỏ bày, lí giải. Phảng
phất trong các bài thơ là một tấm lòng xót thương vô hạn trước những bi kịch
cõi nhân sinh, một cái nhìn riêng phần nào vượt thoát ra khỏi giới hạn của thời
đại, dù còn chất chứa không ít bế tắc. Trương Đăng Dung đã thổi vào thơ tâm
hồn, cách cảm, cách nghĩ của con người về kiếp người. Thơ ông có nhiều đóng góp
đặc sắc về ngôn ngữ, kết cấu, chiều sâu tư tưởng… Ông là một tấm gương về lối sống mẫu mực, giản dị, tận
tâm và phong cách làm việc khoa học, kế hoạch, nghiêm túc. Với Trương Đăng Dung
trong cuộc sống phải rất nghiêm túc, nghiêm túc với chính bản thân mình: lao động
nghiêm túc, học tập nghiêm túc, sinh hoạt nghiêm túc... nhất là trong nghiên cứu
khoa học ông lại càng phải nghiêm túc gấp trăm lần.
1.2. Mai Văn Phấn - hành trình sáng tạo và quan điểm sáng tác
1.2.1. Hành trình sáng tạo thơ Mai Văn Phấn
Nhà thơ Mai Văn Phấn sinh năm 1955, tại một làng quê của
tỉnh Ninh Bình, miền Bắc Việt Nam, ông tốt nghiệp đại học ngoại ngữ Hà Nội, sau
đó đi du học Liên Xô (cũ). Mai Văn Phấn yêu thơ, ôm mộng và làm thơ từ khi
còn là cậu bé mười sáu, mười bảy tuổi. Bài thơ đầu tay Hoa
xoan ghi dấu lại những ngày tháng sống và chiến đấu gian khổ
trong quân ngũ của Mai Văn Phấn. Cũng từ đây, nhà thơ bắt đầu có
những trăn trở về con đường thơ của mình, ông cách tân, tìm đến một diện
mạo khác cho thơ Việt đương đại. Là nhà thơ thuộc thế hệ hậu chiến, một
trong những cây bút xuất sắc của dòng thơ cách tân sau 1975, những tác
phẩm của ông đã góp phần không nhỏ trong cuộc cách tân thơ ca Việt Nam.
Mai Văn Phấn đã tìm cho mình một giọng thơ riêng rất tinh tế với những
cảm xúc sâu lắng và ngôn từ trau chuốt. Nhà thơ đã cho ra đời hàng loạt
các tác phẩm ấn tượng: Giọt nắng (1992), Gọi xanh (1995), Cầu nguyện
ban mai (1997), Nghi lễ nhận tên (1999), Người cùng thời (1999), Vách
nước (2003), Hôm sau (2009), và đột nhiên
gió thổi (2009), Bầu trời không mái che (2010), hoa
giấu mặt (2012), Vừa
sinh ra từ đó (2013), thả (2015), Không gian khác (phê bình & tiểu luận, 2016), Lặng yên cho
nước chảy (2018)… Thơ Mai Văn Phấn hiện được dịch ra hơn ba mươi
ngôn ngữ, quốc tế, xuất bản thành sách tại các quốc gia như Anh quốc, Hoa
Kì, Thái Lan, Thụy Điển... Thành công trong sáng tác thơ ông đã được
ghi nhận bằng hàng loạt các giải thưởng uy tín như: Giải thưởng Cuộc thi thơ tuần báo
Người Hà Nội năm 1994, Giải
thưởng Cuộc thi thơ tuần báo Văn nghệ năm 1995, chuỗi giải thưởng Văn học Nguyễn Bỉnh Khiêm
(Hải Phòng) trong các năm 1991, 1993, 1994, 1995, Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam dành cho tập thơ Bầu
trời không mái che năm 2010 và mới nhất là Giải thưởng văn học Cikada của Thụy Điển trao năm 2017. Giải thưởng của Viện Hàn lâm Khoa học và
Nghệ thuật Hoàng gia Cộng hòa Serbia 2019, Giải thưởng của Hiệp hội Dịch giả Văn học Cộng hòa Montenegro 2020.
Hai lần đoạt Giải
thưởng văn học Cây bút vàng Liên bang Nga, 2019 và 2020 (cho trường ca thơ
văn xuôi "Thời tái chế").
Mai Văn Phấn là một trong những nhà thơ tích cực, chủ động
tìm tòi, trau dồi, tự làm mới thơ mình qua nhiều diện mạo, trường phái, phong
cách khác nhau. Mỗi tập thơ của ông được coi là một trải nghiệm nghệ thuật khác
biệt, độc đáo, không lặp lại như chính những gì thi sĩ chia sẻ: “Tập thơ đầu
tay Giọt nắng - 1992 tôi viết
theo bản năng, nhằm giải tỏa tâm trạng và ám ảnh về đời sống lúc đó. Năm ấy tôi
37 tuổi, thời điểm tôi trở lại sau gần 20 năm đoạn tuyệt với thơ ca. Hai
tập thơ tiếp theo Gọi xanh, Cầu nguyện ban mai kết hợp truyền thống với
tâm thức hiện đại. Tập thơ Nghi lễ nhận tên và trường ca Người cùng thời là cách tôi dò dẫm, vượt thoát
khỏi hệ mĩ cảm cũ. Đến Vách nước là kết hợp có chọn lọc tổng hòa những
khuynh hướng hiện đại (Siêu thực, Tượng trưng, Biểu hiện…). Năm 2009, tôi in
hai tập với hai phong cách và khuynh hướng khác nhau. Tập Hôm sau là một
hướng triển khai phong cách hậu- hiện đại kiểu Việt Nam. Và “và
đột nhiên gió thổi” thuộc cổ - điển - mới” [38, tr.449]. Ông là một
trong số ít nhà thơ có hành trình thơ liên tục đổi mới, chiêm nghiệm, thể
nghiệm trong đời sống thơ Việt Nam đương đại. Sự tự đổi mới bản thân trong thơ
Mai Văn Phấn thể hiện qua cả nội dung và nghệ thuật thơ. Thơ Mai Văn Phấn đã
thể hiện được hầu hết những suy tư tình cảm phong phú, đa dạng trong đời sống
của xã hội con người đương đại từ nỗi âu lo, hoài nghi, bi quan, khổ đau, hạnh
phúc, tin tưởng, khát vọng, với các vấn đề tâm linh, tôn giáo, tình yêu, sự tha
hoá, môi trường, nông thôn, đô thị, hậu chiến, tha hương, trở về,… đến những
cảm quan về mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên. Về quan điểm cái đẹp,
thơ Mai Văn Phấn đã khám phá cái đẹp trong nhiều không gian và các mối tương
quan: cái cao cả, cái bi hài, cái khác biệt, sự tương đồng, trong thâm tâm con
người, trong sự biểu hiện của tự nhiên, trong chiều sâu tư duy lịch sử, hiện
tại, tương lai... Dư luận đánh giá nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn mang đặc trưng
của văn học tiền hiện đại, hậu hiện đại và cả cổ điển tự nhiên. Về tư duy nghệ
thuật, thơ Mai Văn Phấn có nội lực mạnh mẽ, khá rõ nét trong việc xác định
đường lối cách tân, cảm quan thẩm mỹ, dám tiên phong và dấn thân.
Sáng
tạo của Mai Văn Phấn là một hành trình không ngừng nghỉ qua các giai đoạn: từ
thời kì khởi đầu đến năm 1995, từ 1995 đến 2000 và 2000 đến nay. Đầu năm 2018,
tập thơ Lặng yên cho nước chảy được ra đời gồm có năm phần: Trong
sương, Thay mùa, Đất mở,
Cái miệng bất tử và Buông
tay cho trời rạng. Trong sương là những bài thơ 2 câu, 3
câu; Thay mùa là những bài thơ theo lối truyền thống; Đất mở là thơ tự do
về đất đai mùa màng; Cái miệng bất tử là thơ cách tân với
những vấn đề thế sự; Buông tay cho trời rạng là thơ văn xuôi
và trường thi. Dễ dàng nhận ra đây là tập thơ gộp tất cả những cách tân nghệ
thuật và những quan niệm ông đã viết từ khi khởi đầu đến nay. Tất cả các thể
thơ trong Lặng yên cho nước chảy đều đã được nhà thơ viết
trong tất cả các tác phẩm của mình. Đây là cuộc trở về và nhìn lại với hành
trình thơ Mai Văn Phấn nhưng mang một diện mạo mới đó là tâm thức của con người
thời đại với cái nhìn mới. Từ năm 2020 đến nay, một
vùng đất hoàn toàn mới lạ được mở ra trong sự cách tân sáng tạo đầy tự tin với
những hình ảnh, cấu tứ, liên tưởng, kết cấu cũng như cách dùng từ, khác hẳn thơ
ông trước đây và khác biệt, thậm chí dị biệt. Thơ Mai Văn Phấn giai đoạn này là
sự tuyên cáo về cái chết của các nhà thơ đang tự ngâm vịnh, gặm nhấm sự
còi cọc của mình. Điều đặc biệt trong thơ Mai Văn Phấn là đẩy đến tột cùng,
thậm chí là cực đoan và tạo ra sự trái nghịch trong cách nhìn và cách cảm thụ
nghệ thuật. Tính phóng đại quá kích của trí tưởng tượng với những hình ảnh và
kết cấu hoàn toàn mới lạ đã tạo ra một lối cảm nhận hoàn toàn mới mẻ. Và dưới
hình thức mới này, thơ Mai Văn Phấn đã chuyển tải được toàn bộ những gì đang
diễn ra trong đời sống này. Mỗi bài thơ của ông tác động đến người đọc tựa
những giấc mơ sự phiêu du trong cõi tưởng tượng.
Sự liên tưởng phóng khoáng của tưởng tượng tạo nên sức
quyến rũ và ngoạn mục của hình ảnh, ngôn từ, biên giới của những không gian,
thời gian thơ được mở rộng gần như tối đa. Thơ Mai Văn Phấn là cuộc tổng diễn
tập với những bài thơ phóng ra những ý tưởng, hình ảnh khoáng hoạt, cường tráng
và mạnh mẽ. Sự mạnh mẽ của nội lực các câu thơ đã xé rách, lướt qua những tấm
mạng vô hình của những thói quen cũ. Ba chặng đường sáng tác của Mai Văn Phấn
cho thấy rõ sự trưởng thành trong sáng tạo nghệ thuật của ông. Khởi phát từ nền
tảng truyền thống, chưa tạo được dấu ấn đến bứt phá mạnh mẽ và gặt hái được
nhiều thành công, qua thời gian, Mai Văn Phấn thể hiện độ chín trong sáng tạo,
nỗ lực cách tân để tạo dựng một phong cách riêng trong thơ Việt Nam đương đại.
1.2.2. Quan điểm sáng tác của Mai Văn Phấn
Thơ Mai Văn Phấn từ buổi đầu dù còn gần gũi với
thơ ca truyền thống nhưng ông đã có ý thức giã từ giọng điệu cũ,
nhịp điệu cũ để xây dựng những hình ảnh khoáng đạt, lạ lẫm. Cảm
xúc thơ trôi chảy tự nhiên, trong trẻo nhưng không đơn tuyến, dễ dãi mà
luôn đòi hỏi người đọc phải tư duy, tự tái tạo lại thế giới thơ cho
riêng mình. Đọc thơ ông, ta cảm nhận được những hoài nghi, lo âu và sợ hãi:
“Chân tay ta vừa rút khỏi những huyễn hoặc giấc mơ… Cả hai bàn tay lệ thuộc vào
nỗi ú ớ toát mồ hôi của cái chết lâm sàng…” (Cộng hưởng II - Trường ca Người cùng thời). Nhưng cũng từ chính
những hoài nghi đó mà nhà thơ đã tự phản nghiệm, tự phản bội mình để ráo riết
tìm ra một lối đi mới cho thơ.
Nếu từ những năm 80, Bằng Việt đã tỏ ra hoài nghi: “Thơ có còn tri kỉ nữa hay chăng? Đời đột
biến mà thơ đi quá chậm/ Đời hết sức thẳng thừng. Thơ vòng vèo luẩn quẩn/ Đời
trả giá hết mình. Thơ khi nhớ khi quên” (Lại nghĩ về thơ).Và thơ
trong qua trình vận động của mình đã phải tự đổi mới để rồi câu hỏi trên đã
thành lời khẳng định. Tất nhiên, sự đổi mới phải bắt đầu từ quan niệm, từ ý
thức nghệ thuật của người cầm bút. Văn học thời kì hiện đại càng đòi hỏi các
văn nghệ sĩ của chúng ta phải luôn ý thức về điều này. Và, nhà thơ Mai Văn
Phấn, con người của những suy tư, tìm tòi sáng tạo đã luôn tự làm mới mình,
luôn có những cuộc “vong thân” đầy táo bạo để mang đến sự “vượt thoát” thành công. Là người luôn muốn thoát
khỏi những lối mòn xưa cũ, với Mai Văn Phấn thơ không đơn giản là “tải đạo, nói
chí”, cũng không dừng lại ở việc phản ánh những vấn đề then chốt của thời đại,
mà “thơ hay trong khoảng im lặng
giữa các chữ, là mang đến cho ta niềm ngạc nhiên về thế giới, sự run rẩy trong
tâm thức”. Với quan niệm này của thi sĩ đã cho ta thấy một cách nhìn mới
về nhận thức thơ hay. Nhà thơ ý thức luôn tự làm mới mình của thi sĩ, cái mà
nhà thơ Mai Văn Phấn gọi đó là những cuộc “vong thân”. Tuy nhiên, “vong thân”
không nhất thiết là phải rũ bỏ, quay lưng lại với cái cũ và tìm đến những cái
mới hoàn toàn. Mà ngược lại, sức hấp dẫn của nó đối với độc giả chính là trên
những miền đất cằn cỗi ấy người nghệ sĩ sẽ làm cho nó màu mỡ hơn, tươi mát và
giàu sức sống hơn. Từ đó, mở ra trước mắt người đọc những chân trời mới gần
gũi, quen thuộc như những gì ta vẫn luôn cảm, luôn nghĩ. Nguyễn Quang Thiều từng nhận xét: "Thơ ca, đối với Mai Văn Phấn, là cách
thức huyền diệu nhất để đặt đời sống lên con đường vĩnh cửu của nó, (...) là sự
xác lập anh với thiên nhiên, với xã hội, với những giấc mơ huyền diệu và đỉnh
cao của nó là xác lập con người trần tục của nhà thơ và con người sáng tạo của
anh ta” [48, tr.15]. Với Mai Văn Phấn thơ ca
là cái đẹp, nơi con người trú ẩn, thơ ca mang trong mình
quyền năng lớn lao “Thơ ca ngoài mục đích tải đạo, tuyên truyền, mô phỏng,
diễn tả... nó còn tìm cách đặt tên lại sự vật, định hình lại thế giới” [42, tr.454]. Đề cao việc cách tân, Mai Văn Phấn cho rằng: “Thơ ca càng ảo bao nhiêu càng đem lại sự chân thật bấy
nhiêu..., hiện thực trong thơ được hiện hữu trong một “mặt phẳng cong”...Nhà
thơ khi viết không nên bận tâm viết cho ai mà chỉ nghe trái tim mình run rẩy
với cảm xúc chân thành theo một quan niệm riêng” [42, tr.400]. Không chỉ vậy,
“trên hành trình đơn độc đi tìm cái đẹp”, nhà thơ còn nhận ra tác động của văn
chương với người nghệ sĩ, giúp “quay lại hoàn thiện nhân cách, quan niệm thẩm
mỹ và định hướng cho chính nhà văn ấy”. Ý thức được điều này, thi sỹ khẳng
định: “Thơ ca là cầu nối, là bàn tay chân thành, giọng nói ấm áp để chúng ta
tìm đến nhau, cảm thông, thấu hiểu nhau hơn. Nhờ có thơ ca, chúng ta được chiêm
ngưỡng vẻ đẹp linh diệu, bí ẩn... cũng như thấy được sức mạnh tinh thần hiển linh và tiềm
ẩn của dân tộc ấy. Chúng ta tựa vào thơ ca để ngày thêm hoàn thiện, thay đổi,
lớn lên và bình đẳng giữa các dân tộc trên trái đất” [42].
Đổi mới là đòi hỏi của thời
đại và là nhu cầu vận động tự thân của thi ca. Đổi mới thi pháp chính là “một
cuộc cách mạng giữa nội dung và hình thức” [42, tr.456]. Nội dung và hình thức
phải tạo được mối liên kết chặt chẽ. Hiện thực phản ánh vẫn là mối quan hệ giữa thiên nhiên vũ
trụ và con người, về mối quan hệ giữa người với người, về nỗi buồn, sự cô đơn,
những bộn bề lo toan thường nhật... Vậy, đổi
mới hình thức nghệ thuật là bước đổi mới đầu tiên, dễ nhận thấy. Trong quan niệm của Mai Văn Phấn, đổi mới thơ tức là
“nội dung ấy phải được dung chứa trong hình thức mới của thi ca”, nghĩa là hình
thức mới sẽ mang đến cho người đọc những cảm nhận tươi trong về bao nội dung
không còn mới, “hình thức được chuyển hóa thành nội dung, đó mới là đổi mới
thực sự. Nội dung mới trong thơ tôi là những quan tâm mang tính thời đại và
thời sự, như lý tưởng sống của thế hệ trẻ, vấn đề ý thức hệ, quan niệm về tự
do, công bằng, dân chủ...” [42, tr.456]. Vì thế, Mai Văn
Phấn khẳng
định: “Các khuynh hướng
sáng tác đều rất cần và làm phong phú thêm cho nền thi ca của chúng ta. Hiện
chúng ta vẫn còn hồ nghi vì còn quá ít tài năng cho những “thể nghiệm” được
thuyết phục” [42, tr.439 ]. Đề cao việc đổi mới và cách tân thi pháp
thơ, thơ ca có thể chống lại sự thoái hóa, trơ mòn thẩm mỹ của người
đọc, tạo những không gian thơ đa dạng. Và chỉ những ai biết “từ chối ve vuốt những sở thích của
đám đông” thì người đó mới có thể tạo ra được hiện thực đời sống tự nhiên, chân
thực, phong phú và ấn tượng: “Nhà thơ khi viết không nên bận tâm viết cho ai mà
chỉ nghe trái tim mình run rẩy với cảm xúc chân thành theo một quan niệm riêng”
[42, tr.400]. Người làm nghệ thuật luôn mang trong mình khát vọng
sáng tạo nhưng mỗi nghệ sỹ lại có những quan niệm sáng tạo riêng. Với Mai Văn
Phấn, sáng tạo là quá trình sản sinh những nhân tố mới, không mô phỏng hay phát
triển những giá trị đã định hình mà tạo sự khác hẳn, biệt lập (đôi khi là đối
lập) với cái đã định giá. Quá trình sáng tạo nghệ thuật là một cuộc “vong
thân”, là quá trình phủ định bản ngã: “Với mỗi người làm thơ, điều quan trọng
là biết lạnh lùng với chính bản thân mình, dũng cảm nhìn lại một cách trung
thực và chính xác, biết mình là quầy hàng khô hay anh chữa chìa khóa trong một
cái chợ” [42, tr.399]. Mỗi nhà thơ phải biết tự phủ định mình, tức là phải
coi cái mà mình vừa viết ra là cái đã cũ thì mới mong đạt đến thành công đỉnh
cao trong nghệ thuật. Xã hội ngày càng thay đổi, phát triển kéo theo quan niệm,
thị hiếu thẩm mỹ của con người cũng thay đổi, điều đó đòi hỏi nhà thơ luôn có ý
thức tìm tòi và đổi mới: “Trách nhiệm của mỗi nhà thơ phải khám phá cho được
không gian nghệ thuật của chính mình, nếu thực sự muốn tồn tại trong không gian
mới của thời đại” [42, tr.375] và “Thật kinh hãi khi phải ngắm nhìn một nghệ sỹ cứ
đứng mãi một chỗ mà biểu diễn quá nhiều lần một tiết mục tới gần như vô cảm,
nói cách khác là thương hại những ai thâm canh triền miên trên mảnh đất đã cằn
cỗi” [42, tr.399].
Xuất phát từ những quan niệm nói trên, Mai Văn Phấn quyết
liệt đặt ra vấn đề đổi mới thi pháp thơ: “Đổi mới thi pháp trước hết là từ chối
ve vuốt những sở thích của người đọc, nhằm tạo những sóng từ khác, những mã số
khác trong không gian thơ vừa được khám phá. Lý tưởng thi ca của sự cách tân
nhằm gọi đúng bản chất của sự vật trong nhịp điệu đời sống hiện đại” [42, tr.378]. Nhà thơ nếu chỉ để
tâm ve vuốt sở thích của đám đông thì sẽ làm nghèo đi sự phong phú của khu vườn
thi ca sinh động. Mọi người cầm bút đều mong muốn được nhiều bạn đọc chia sẻ,
nhưng đây không phải là cứu cánh của những thi sỹ chân chính. Mai Văn Phấn cho
rằng: “Đổi mới thi pháp trước hết nhằm chống lại sự thoái hóa, trơ mòn thẩm mỹ
của người đọc, tạo những không gian thơ đa dạng, thiết lập hệ quy chiếu mới
trong cách tiếp cận tác phẩm. Sáng tạo là quá trình sản sinh những nhân tố mới,
không mô phỏng hay phát triển những giá trị đã định hình, mà tạo sự khác hẳn,
biệt lập (đôi khi đối lập) với cái đã được định giá” [42, tr.423], và phù hợp “lối tư
duy phổ quát, mạch lạc, tốc độ... họ luôn khao khát những giá trị mới lạ phù
hợp với đời sống hiện đại của độc giả” [42, tr.423].
Tuy nhiên, với Mai Văn Phấn, sáng tạo, cách tân không
đồng nghĩa với việc cắt đứt hẳn, từ chối, phủ nhận,
đi ngược với thơ ca truyền thống. Cách tân
là tiếp thu cái truyền thống đồng thời làm mới nó để tạo nên nét hiện đại
cho truyền thống. Mai Văn Phấn là người đọc nhiều và rất am hiểu về các
xu hướng, trường phái thơ phương Tây hiện đại, nhưng ông quan niệm học hỏi và
sáng tạo chứ không phải bắt chước máy móc. Sáng tạo luôn đòi hỏi tài năng
và bản lĩnh. Chính vì thế, trong một bài thơ của mình, ông viết: “Anh
là con cá miệng dàn dụa trăng/ Rời bỏ bầy đàn quẫy vào biển động” (Ngậm em trong miệng). Là người hành nghề sáng tạo, nhà
thơ phải biết dũng cảm rời
bỏ bầy đàn và chính mình xây dựng cho mình một không gian thơ
riêng và quẩy hết năng lượng trong khoảng không gian ấy.
Để xây dựng được trường không gian thơ ấy, nhà thơ luôn ý
thức rằng muốn đổi mới thi ca phải làm mới chính mình. Mai Văn Phấn từng phát
biểu: “Với mỗi người làm thơ, điều quan trọng là biết lạnh lùng với chính bản
thân mình, dũng cảm nhìn lại một cách chân thực và chính xác, biết mình là quầy
hàng khô hay anh chữa khóa trong một cái chợ” [42, tr.398]. Nhưng muốn làm
thơ, nhất là thứ thơ mang trong mình hơi thở hiện đại, mới mẻ, Mai Văn Phấn cho
rằng người làm thơ cần phải có bản lĩnh, sự quyết đoán mạnh mẽ: “bản lĩnh của
nhà thơ trước hết là biết chấp nhận sự im lặng tạm thời từ phía người đọc” [42, tr.424]. Ông cũng giải
thích rằng việc chấp nhận sự im lặng ấy không phải là cơn mưa thổi tắt nhiệt
huyết mà là “ngọn lửa siêu nhiệt, giúp nhà thơ tạo ra những tác phẩm có phẩm
chất vàng mười, đủ sức vượt qua mọi thử thách khắc nghiệt của thời gian” [42, tr.424]. Khi đã nuôi đủ bản
lĩnh, mỗi thi sĩ sẽ tự có ý thức tạo khuôn mặt luôn mới lạ trong hồn thơ, một
cái tôi bản lĩnh đầy cá tính: “Thơ tôi là ngôi nhà của riêng tôi, ai muốn vào
xin hãy gõ cửa và tuân theo những nghi thức nhất định” [42, tr.447 - 448]. Điều này
đồng nghĩa với việc nhà thơ muốn làm mới mình thì phải “dám chấp nhận đơn độc
trên con đường mới, mở ra một không gian thơ khác, tạo tiếng nói khác” [38, tr.382]. Mai Văn Phấn đã đi
và trên hành trình của mình, thực sự người đọc luôn cảm thấy cảm giác cô đơn
bất tận, quay quắt đôi lúc có cả hoài nghi, hoang mang gửi vào những suy tưởng
về cuộc đời, về giá trị sống, về tương lai bàng bạc trên những dòng thơ. Tuy
nhiên, đằng sau khoảng khắc “gieo mình
xuống phù sa/ Bàng hoàng nghe tách vỏ”, ông vẫn tĩnh tâm “cúi nhặt từng chiếc lá rơi” và “chờ mùa xuân nảy mầm”. Sau mỗi đứa
con tinh thần xuất hiện, ông lại phát hiện được thêm điều bí ẩn trong cách sáng
tạo: “Tôi được bài thơ dạy lại mình cách viết” [38, tr.401].
Mai Văn Phấn cũng cho rằng, nhà thơ phải là người có
trình độ, quá trình tu dưỡng, rèn luyện, học hỏi ấy, đến một lúc nào đó, rất tự
nhiên, nó sẽ “đột khởi dâng lên thành cảm xúc thi ca”. Đồng thời, Mai Văn Phấn
luôn để cao phẩm giá của người nghệ sĩ. Với ông, “phẩm cách của nhà thơ quyết
định cốt cách thi ca”. Đây là cơ sở để một khi nhà thơ đã vững tin trong nhân
cách chính mình thì sẽ không ngại lao vào bất cứ vấn đề gì, kể cả những vấn đề
“vụn vặt”. Chính vì thế, điều kiện cần và đủ để trở thành một thi sĩ đúng nghĩa
là luôn hướng đến sự hoàn thiện nhân cách.
Nam Cao đã từng quan niệm: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài
kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm
tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có” (Đời thừa). Như đã nói ở trên, đối với
Mai Văn Phấn, sự đổi mới và sáng tạo không phải là sự bứt rào, đi ra khỏi những
nền cũ và những gì được gọi là truyền thống, mà đối với ông sự đổi mới, sáng
tạo đó chính là đưa thơ đến với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa âm hưởng truyền
thống và màu sắc hiện đại. Khi ấy, thơ đến với độc giả bằng bộ cánh mới, đa
sắc, lộng lẫy nhưng không lạ lẫm mà gần gũi, quen thuộc như chính những nốt
nhạc thường xuyên vẫn ngân nga ở quê hương mình và trong tâm hồn mình. Nhà thơ
Việt phải có “sự ra đi và sẽ trở
về”. Ra đi “để thám hiểm, để đặt chân lên những vùng đất mới”, còn “trở về không có nghĩa là quay lại ngôi nhà
cũ (hiện thực và lãng mạng) mà mang một diện mạo khác, tâm thế khác trên con
đường khác” [38, tr.385]. Hình ảnh thơ Việt đương đại trải ra trên bề mặt thế
giới mang tính toàn cầu, mới mẻ, giàu tính nhân văn, đẹp đẽ sống trong tâm hồn
Việt. Vì vậy, trong quá trình suy ngẫm, Mai Văn Phấn đã rút ra được chìa khóa
đưa người thơ vào với thế giới thơ. Người viết khi đã khai phá được bức tường
thành bên ngoài thì phải đảm bảo sự tràn đầy của cảm xúc, cảm xúc dâng trào
dòng thơ cũng được tuôn chảy ra từ đó.
Mai Văn Phấn đã ví “việc sáng tạo thi ca gần giống trạng thái bàng hoàng của một đứa trẻ
lần đầu được nhìn thấy những hiện tượng kì lạ của thiên nhiên và khám phá những
bí ẩn, phức tạp của con người” [38, tr.454]. Rõ ràng mỗi một nhà thơ là có một quan niệm, một
cách nhìn nhận khác nhau, có bao nhiêu nhà thơ là có bấy nhiêu con đường đến
với thi ca. Nhà thơ, theo Mai Văn Phấn "phải là nhà văn hoá. Kiến thức văn hoá ấy lắng sâu vào nhà thơ
một cách tự nhiên, và tới một hoàn
cảnh “hữu duyên” nào đó, nó đột khởi dâng lên thành cảm xúc thi ca. Lúc ấy tứ bài thơ vụt đến bất ngờ,
tưởng như “của nhặt được", nhưng thực ra nó đã đượctích luỹ vô tình ở đâu
đó từ lâu".
Từ quan niệm về thơ và người làm
thơ, Mai Văn Phấn đưa ra mối quan hệ giữa thơ ca với người tiếp nhận. Với ông,
người nghệ sĩ khi viết xong một bài thơ là đã hoàn thành sứ mệnh của mình, lúc
đó tác giả coi như “đã chết”, còn tác phẩm lại được sáng tạo một lần nữa bởi
bạn đọc. Người tiếp nhận chính là người đồng sáng tạo với nhà thơ, là người
luôn sống cùng với tác phẩm. Với Mai Văn Phấn, “thơ ca gần như tôn giáo, nhưng không cao vợi và phải thờ phụng theo
những nghi lễ. Thơ ca cũng là tâm linh, nhưng nhà thơ có thể làm biến đổi cả
đời sống tinh thần con người và mở ra những không gian riêng biệt khi gặp được
“duyên” cảm xúc” [38, tr.435].
Là một nghệ sĩ chân chính, Mai Văn Phấn luôn định hướng
và xác định cho mình những con đường đúng đắn để đến với nghệ thuật đích thực.
Là một thi sĩ có sự ảnh hưởng của nhiều ánh sáng sáng tạo ở những chiều kích
khác nhau, Mai Văn Phấn luôn chủ động để tìm cho mình một ý hướng tiến bộ vừa
tiếp thu truyền thống, đồng thời trầm tích thêm truyền thống vừa mang hơi thở
hiện đại.
Tóm lại, Mai Văn Phấn là người luôn có ý thức khơi những
“miền dậy sóng”, để từ đó, “trong
hành trình sáng tạo nghệ thuật của mình, Mai Văn Phấn đã nỗ lực khám phá ngôn
ngữ như một phương cách thiết yếu để thấu nhập vào thế giới tự nhiên và từ đó,
tạo dựng khí quyển thơ riêng của mình, một bầu khí quyển kết nối cá thể người
và thế giới, linh hồn người và linh hồn tạo vật trong sự bình đẳng và quấn bện
của tình yêu thuần giản. Do đó, đọc thơ Mai Văn Phấn từ góc nhìn này cũng khơi
mở hi vọng về một con đường sáng tạo thơ ca, trong đó, việc trở về với cội rễ
đồng thời là một cách nạp năng lượng cho thi ca. Ở góc độ này, Mai Văn Phấn,
ngay khi được xếp vào thế hệ những nhà thơ đổi mới với nỗ lực cách tân thi ca
đã khẳng định một cách nghĩ riêng về giá trị và sáng tạo” [13, tr.292].Và
rồi, qua bao thời đại với những thăng trầm thì những quan niệm đúng đắn và
những trải nghiệm tuyệt vời trên ngòi bút của mình, Mai Văn Phấn sẽ luôn khẳng
định được giá trị và vị thế của mình.
1.3. Khái lược về vấn đề cảm thức thời gian trong thơ hiện đại Việt Nam
1.3.1. Thời gian qua các góc nhìn
Các nhà
Nho đắn đo trước sự trôi chảy của thời gian nhưng chủ yếu quan tâm đến sự hưng
vong hay thành bại của các triều đại, thời gian đời người trong mắt họ là thời
gian để thực hiện cái tâm, cái chí của bậc quân tử, kẻ trượng phu. Đạo gia lại
khuyên con người quay trở về với bản nguyên, tìm giải thoát giữa thiên nhiên,
vũ trụ bao la trong cảm giác “vô thời gian” ung dung, tự tại. Phật giáo xem
thời gian là bánh xe luân hồi không dứt trong đó đời người chỉ là một khoảnh
khắc vô cùng ngắn ngủi. Chỉ có vượt qua được cái nhìn nhị nguyên phân biệt: quá
khứ - hiện tại, già – trẻ, dài – ngắn... con người mới được giải thoát. Cái cố chấp với cương thường của nhà Nho, cái thiên hướng
“vô vi”, muốn giữ thiên tính tự nhiên của Đạo và tinh thần từ bi hỉ xả, thương
khắp cả chúng sinh đã trộn lẫn thật kì lạ trong một con người theo một công
thức mà ta không thể lí giải.
Một
số từ điển định nghĩa rằng, “thời gian” là một hình thức tồn tại cơ bản của vật
chất diễn biến một chiều theo ba trạng thái là quá khứ, hiện tại và tương lai.
Với các nhà Vật lý, thời gian là thứ mà có thể đo được chính xác bằng một chiếc
đồng hồ. Các nhà Toán học lại quan niệm thời gian một chiều được xem là liên
tục, nhưng có thể chia thành các “thời khắc” giống như từng tấm ảnh của một
cuộn phim. Newton khẳng định “Thời gian là độc nhất, tuyệt đối và có giá trị
phổ quát khắp mọi nơi.” Còn Einstein lại cho rằng: “Thời gian trôi đi chỉ là ảo
ảnh mọi khác biệt giữa quá khứ, hiện tại; tương lai chỉ là những ảo ảnh dai
dẳng.”
Ở phương
Đông, triết lý nhà Phật quan niệm thời gian không tồn tại tách biệt hiện tượng
và người quan sát. Thời gian chỉ là một điều kiện chủ quan của nhận thức trực
cảm của chúng ta, nó không tồn tại ở ngoài chủ thể. Ý nghĩa này về thời gian,
đặt trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, đã được thể hiện rõ nét hơn cả.
Trong sáng tác thơ văn, thời gian là phạm trù quan trọng
để nhà văn – người sáng tạo thể hiện chiều sâu tâm trạng, bày tỏ cảm xúc, mở ra
những chiều kích còn ẩn khuất bên trong nội tâm của mình. Đối với phê bình văn
học, thời gian cũng có ý nghĩa vô cùng quan trọng để người phê bình giải mã
được những ẩn ý sâu kín của chủ thể sáng tạo ra nó. Như vậy, thời gian chính là
chiếc cầu bắc nhịp để đối tượng tiếp nhận hiểu sâu, hiểu đúng tầm hơn một tác
phẩm văn học. Thời gian không bao giờ có bản sao thứ hai trong cuộc đời. Vì
thời gian chính là mạng sống của ta nên nó rất quý báu, là quà tặng mà ta phải
biết trân quý và sử dụng một cách tốt đẹp. Theo đó, thời gian có thể
trở thành người bạn giúp ta gặt hái thành công, hạnh phúc nhưng ngược lại
cũng có thể trở thành thứ “vũ khí” đầy nguy hiểm nhấn chìm tương lai.
Đó đều là sự ý thức của con người về
một khái niệm mà người ta gọi là thời gian – một sự ý thức có từ rất sớm và
không ngừng được bổ sung, hoàn thiện. Từ xa xưa, con người đã nhận thức thời
gian (cùng với không gian) chính là hình thức tồn tại của thế giới vật chất,
không một vật thể nào có thể tồn tại ngoài thời gian. Thời gian tâm lý cũng
trôi từ quá khứ tới tương lai như thời gian nhiệt động, vì các quá trình tâm lý
có cơ sở vật chất là các quá trình điện hóa trong bộ óc, mà các phản ứng sinh
học cũng tuân theo các qui luật nhiệt động học. Nói cách khác, hai mũi tên thời
gian nhiệt động và tâm lý trùng nhau. Chính vì “gương vỡ không lành” mà có sự
bất đối xứng giữa quá khứ và tương lai theo trục thời gian. Mũi tên thời gian
hình tượng hóa sự bất đối xứng của thế giới theo thời gian, chứ không phải sự
bất đối xứng của dòng thời gian. Mũi tên thời gian chỉ hướng về tương lai.
Nhưng điều đó không có nghĩa nó bay về tương lai; giống như kim la bàn luôn chỉ
phương Bắc, nhưng không chạy về phương Bắc. Cả hai mũi tên đều hình tượng hóa
sự bất đối xứng, chứ không phải vận động hay sự biến dịch. Như vậy mũi tên thời
gian chỉ ra sự bất đối xứng trong thời gian, chứ không phải sự bất đối xứng của
dòng thời gian. Và các khái niệm “quá khứ” và “tương lai” trong thời gian cũng
giống như khái niệm “phía trên” và “phía dưới” trong không gian. Tương quan
giữa chúng tùy thuộc vào hệ qui chiếu, vào bản chất thế giới vật chất xung
quanh. Nói cách khác, sự bất đối xứng theo thời gian là một thuộc tính của các
trạng thái vũ trụ, chứ không phải là thuộc tính của bản thân thời gian. Và
trong vũ trụ, chỉ người quan sát có ý thức mới ghi nhận được “dòng thời gian”
(khi ta ngủ, tức ở trạng thái dưới ý thức, ý niệm dòng thời gian hoàn toàn biến
mất). Đồng hồ cũng không đo dòng thời gian, mà chỉ đo khoảng cách thời gian
giữa các sự kiện. Vì thế có thể dòng thời gian là đặc điểm chủ quan trong tâm
trí con người, chứ không phải là thuộc tính khách quan của vũ trụ.
Thời
gian sinh học
Thời gian sinh học quan trọng nhất là
nhịp ngày đêm, do nhịp sáng tối và thăng giáng địa từ qui định. Khi ánh sáng
tới võng mạc, nó qua nhân trên chéo thị giác rồi tới nhân cận thất để dừng sự
chế tiết melatonin của tuyến tùng, một tuyến nội tiết thần kinh giữa vai trò
điều nhịp của cơ thể. Khi không có thông tin về chu trình sáng tối, tuyến tùng
đo đạc các thăng giáng địa từ, cũng có chu kì 24 giờ, để điều nhịp. Chỉ trong
lồng Faraday kín (ngăn được cả tín hiệu sáng tối và tín hiệu địa từ), các nhịp
sinh học (nhịp tim, nhịp tiết nội tiết tố, nhịp ngưỡng đau...) mới rối loạn,
với chu kì 25, chứ không phải 24 giờ như thường lệ. Hội chứng trễ do các chuyến
bay (jet-lag), tức mất sự điều hòa cơ thể sau một chuyến bay xuyên lục địa có
thể ngăn ngừa bằng melatonin là vì vậy. Cơ thể sinh vật cũng nhạy cảm với nhịp
mặt trăng (28 ngày), nhịp mùa và nhịp năm. Cơ chế của chúng còn chưa được hiểu
rõ. Đó là cách thức để các sinh hệ hành xử đồng điệu với môi trường nhằm tiết
kiệm năng lượng và tăng cường khả năng sinh tồn.
Thời
gian tâm lý
Thời gian tâm lý được xác định nhờ các
cấu trúc não như hồi hải mã hay thùy thái dương. Tổn thương tại đó dẫn tới các
rối loạn trí nhớ như không truy xuất được ký ức quá khứ hay không thể tạo ký ức
mới. Tuy nhiên việc giải đoán thời gian còn phụ thuộc vào cảm xúc và các hoạt
động tinh thần cao cấp khác. Giai thoại về bếp lò nóng và cô gái đẹp của
Einstein là minh họa cho điều này. Và đó cũng là căn nguyên của quan niệm xem
dòng thời gian chỉ là ảo giác, tức chỉ là một đặc tính chủ quan của trí óc, chứ
không phải là thuộc tính khách quan của vũ trụ. Có thể thấy thời gian tâm lý là
kiểu thời gian có tác động lớn nhất đến quá trình sáng tác thơ ca.
Thời
gian vật lý
Trước đây, Thuyết tương đối của Einstein
đã loại bỏ khái niệm thời gian là một hằng số vũ trụ. Các khái niệm quá khứ,
hiện tại, tương lai không phải là tuyệt đối. Nhưng thuyết này chỉ nhằm vào các
cấu trúc quy mô lớn của vũ trụ, chứ không áp dụng cho lĩnh vực vật lý lượng tử,
một lĩnh vực của những đối tượng rất nhỏ. Nhiều nhà vật lý tin rằng Phương
trình Wheeler-Dewitt đúng hơn là miêu tả Vũ trụ không có thời gian. Còn một
định luật vật lý kỳ lạ nữa thì cho rằng thời gian luôn luôn chỉ chiều tương
lai. Mọi định luật vật lý khác đều có thể được áp dụng, một khi thời gian chạy
về phía sau. Nhưng vào thời điểm hiện nay, thời gian vẫn là một quá trình một
chiều; nó không bao giờ quay trở lại, như thể không có các luật nào cản trở nó.
Thời gian là hợp phần của Vũ trụ. Các đồng hồ của chúng ta không đo một cái gì
độc lập với Vũ trụ.
Thời gian tôn giáo
Khi Thiên Chúa sáng tạo ra thế giới, ông bắt đầu với một
câu chuyện về một khởi đầu, một trung khúc, và một cái kết. Như Sách Khải Huyền
đã ghi, trong khi tiên đoán về những thời đại cuối cùng, Jesus chính là “Alpha
và Omega, khởi đầu và kết thúc, đầu tiên và cuối cùng” của sử thi. Nhưng luôn
có những cách tư duy khác về thời gian. Rất nhiều trường phái tư tưởng tin rằng
khởi đầu và kết thúc luôn là một bởi vì về bản chất thời gian là tuần hoàn. Đây
là một cách tư duy có vẻ đúng đắn về mặt trực quan về tính vĩnh cửu. Khi chúng
ta hình dung thời gian như một đường thẳng, cuối cùng ta lại thấy lạc lối:
chuyện gì xảy ra trước khi thời gian bắt đầu? Làm thế nào một đường thẳng kéo
dài tới vô tận? Một đường tròn cho phép chúng ta hình dung xuôi ngược vĩnh
viễn, không có điểm nào xuất hiện và đi ngược lại với khởi đầu và kết thúc. Khổng
Tử cho việc thời gian tuần hoàn có vẻ như là một sự mặc định của con người.
Người Maya, Inca và Hopi đều nhìn thời gian theo cách này. Rất nhiều truyền
thống phi - Tây - phương chứa các yếu tố về tư duy về thời gian tuần hoàn, có
lẽ rõ ràng nhất trong triết học cổ điển Ấn Độ.
Thời gian triết học
Các mùa trong năm vận động không ngừng, một bộ phận trong
chu kỳ tồn tại lớn hơn bởi triết học Đông Á đã khẳng định điều đó. Triết gia
Đạo Lão thế kỷ thứ 4 TCN Trang Tử đã giải thích với mọi người về việc
không khóc thương vợ mình khi vợ qua đời. Ông cũng thể hiện sự khốn khổ hơn bất
cứ ai nhưng ông đã giải thích rằng: “Chuyện cũng giống như vòng tròn bốn
mùa: xuân, hạ, thu, đông vậy.” Tri thức và sự thật là vĩnh cửu có sức
mạnh tiềm tàng trong suy nghĩ của người Hoa. Như Mạnh Tử, đã khẳng định rằng “Bậc
đại nhân đơn giản là mưu cầu tìm lại những chuẩn tắc bất biến, và, nếu
tìm đúng, thì thiên hạ được đánh thức trước đức hạnh”. “Khái niệm của Hồi
giáo về thời gian về căn bản dựa trên quá trình trẻ hóa tuần hoàn
của lịch sử nhân loại qua sự xuất hiện của các lời tiên tri khác
nhau,” Seyyed Hossein Nasr, giáo sư danh dự Hồi giáo học của Đại học
George Washington đã khẳng định như vậy. Điều đó chứng tỏ một thứ lai tạo
giữa thời gian tuần hoàn và tuyến tính vận động trong các dải tư duy
Hồi giáo. Tuy nhiên, mỗi chu kỳ đều đưa nhân loại tiến lên, với mỗi
lần mặc khải dựng lên từ cái cũ – tiếng gọi của Qu’ran tới Muhammad
trở thành lời chứng hoàn thiện, tối hậu của Chúa Trời – cho tới khi
cuối cùng chuỗi những chu kỳ này kết thúc với sự xuất hiện của
Mahdi, người trị vì trong suốt 40 năm trước ngày phán xét cuối cùng.
Giữa thời gian tuyến tính và tuần hoàn không có sự
phân định rạch ròi. Giả thiết đơn giản là có khái niệm thời gian tuần
hoàn trong những truyền thống triết học truyền miệng. Song không chỉ
đơn giản là vậy. Nhà nhân học quá cố David Maybury-Lewis đã đặt ra giả
thuyết về kiểu thời gian vừa không tuyến tính vừa không tuần hoàn trong
văn hóa Úc bản địa, tương đồng với không
- thời gian của vật lý hiện đại. “Thời - gian - mơ - tưởng” của “quá
khứ, hiện tại, tương tai tất thảy đều hiện hữu ở địa điểm này” gắn
kết mật thiết. Và liệu thời gian tách biệt hay gắn kết chặt chẽ với
địa điểm ? Điều đó thể hiện trong sự nhận thức về cái chết. Ở phương Tây
ngày nay, cái chết là sự biến mất của một thân thể là địa điểm, còn vị
trí thì không quan trọng. Trái lại, Muecke nói: “Rất nhiều câu chuyện
bản địa về cái chết của một cá nhân đều không mấy liên quan đến sự
chết của thân thể như là đến sự trả về năng lượng cho vị trí của
nguồn cội mà với đó nó tái xác định.” “Người ta sống ở một địa điểm
hơn là một thời gian” là điều mà Muecke khẳng định trong cuốn sách
Ancient and Modern: Time, Culture and Indigenous Philosophy (Cổ đại và Hiện
đại: Thời gian, Văn hóa và Triết học Bản địa). Cách tư duy như vậy
là đặc biệt kỳ lạ với phương tây hiện đại, nơi sự theo đuổi tính
khách quan đã hạ thấp một cách có hệ thống vai trò của một vị trí
rõ ràng, cụ thể. Thời gian được nhìn nhận trong văn hóa của con người
là thời gian thực tế cụ thể, một thời khắc trong thời gian: mọi thứ
đều nằm trong mối liên kết với những thứ khác, nhìn nhận những khái
niệm sống thay vì những khái niệm trừu tượng trong các lý thuyết
siêu hình, là bộ phận của một cách hiểu rộng hơn về thế giới.
Ở phương tây, sự vượt trội của thời gian tuyến tính được
thánh hóa trong thời Khai sáng. Thời gian được nhận thức với những cách thức
khác nhau định hình cách ta nghĩ về cả vị trí đương thời của ta trong lịch sử
và mối liên hệ của chúng ta với vị trí vật lý mà ta đang sống, thay đổi cách
suy nghĩ mang lại sư khác biệt về một góc nhìn mới về thế giới. Phải thừa nhận những hoài niệm xoay quanh vị
thần “thời gian” là nguồn cảm hứng sáng tác cho người
văn nghệ sĩ phôi thai những tác phẩm nghệ thuật để đời. Đồng thời việc mổ xẻ,
khám phá về thời gian cũng tiêu tốn không ít tâm sức của các nhà khoa học từ cổ
chí kim. Thời gian
là một trong những tài sản quý giá mà tạo hóa đã ban tặng cho mọi loài. Thời
gian một đi không thể quay lại, do đó chúng ta cần hiểu rõ giá trị thời gian để
sử dụng cho phù hợp. Lý thuyết về thời gian là như vậy, nhưng trong sáng tác,
nhất là ở lĩnh vực thơ ca, thời gian có những biểu hiện khác, phụ thuộc lớn vào
đặc điểm, tâm lý, cảm xúc của nhà thơ.
1.3.2. Vấn đề cảm thức thời gian trong thơ hiện đại Việt
Nam
Đề cập đến khái niệm cảm thức thời gian tức là
nói đến kiểu thời gian tâm lí thường tồn tại
trong tác phẩm nghệ thuật. Theo Từ điển tiếng Việt,
cảm thức là sự nhận thức bằng cảm quan, nhận thức bằng cảm giác. Cảm thức thời
gian là sự cảm nhận, nhận thức riêng của mỗi cá nhân về sự trôi chảy của thời
gian, nhịp độ, biểu hiện của nó... Cảm nhận ấy có thể trùng khít, nhưng thường
khác với thời gian tuyến tính.
Cảm
thức là cách con người nhận thức, đánh giá, xem xét một vấn đề nào đấy trong
cuộc sống bằng con mắt chủ quan, bằng cảm nhận của chính của họ chứ không phải
của một ai khác. Bởi thế, thời gian khách quan khi đi vào tác phẩm nghệ thuật
dường như đã không còn là chính nó. Người ta có thể thấy thời gian nhanh như
thoi đưa, hoặc chậm đến nỗi một ngày như nghìn thu. Hoặc thời gian không còn là
một khái niệm trừu tượng mà có khi tồn tại ở dạng cụ thể như hương vị, như màu
sắc, như vật thể hiện hữu. Thời gian được cảm nhận không phải bằng các đại
lượng vật lý thông thường như giây, phút, giờ, tháng, năm... mà bằng chính cảm
xúc mang rất rõ yếu tố chủ quan của con người. Tâm lí trong cảnh li biệt có thể
làm cho con người ta cảm thấy thời gian trôi đi sao thật lâu. Thời gian đời
người, đối với mỗi cá nhân mà nói, cũng khác nhau hoàn toàn. Có người thấy đời
người dài dằng dặc mà con người phải tồn tại để gánh chịu sự đày ải; Có người
thấy cuộc đời sao ngắn ngủi như một cái chớp mắt, ngắn ngủi như giấc mộng, thở
ra chưa kịp hít vào đã hết một đời ... Con người thông qua cách cảm nhận về
thời gian để trình bày quan niệm, sự hiểu biết, đánh giá của mình về cuộc đời,
về con người, về cái đã qua, cái hiện tại, cái sắp tới... Thời gian là một đại
lượng tồn tại khách quan. Thế nhưng, đối với mỗi cá nhân, nó lại mang một màu
sắc, một dấu ấn riêng độc đáo. Bởi thế, thông qua cách con người nhìn nhận,
đánh giá về thời gian, ta có thể phần nào đọc được tâm hồn, tính cách của họ.
Thời gian không phải là một yếu tố duy nhất hé mở thế giới tâm hồn con người.
Bên cạnh đó còn có cảm thức về không gian, về con người, về các hiện tượng tự
nhiên... Thế nhưng có một điều rất dễ nhận ra là không một ai lại có thể đứng
ngoài bước đi của thời gian, không một ai lại không một đôi lúc thấy cuộc đời
hoặc ngắn ngủi hoặc đằng đẵng. Có nghĩa là cảm thức về thời gian là một hiện
tượng mang tính phổ quát. Thế nên xem xét và đánh giá cảm thức thời gian của
một lớp người nào đấy trong xã hội, ta có thể đọc ra phần nào chân dung của
thời đại ấy. Họ đã dùng yếu tố thời gian như một phương tiện để lí giải con
người, cuộc đời. Thời gian không còn là một đại lượng trôi đi theo chiều tuyến
tính giản đơn nữa. Quá khứ có thể sống mãi với một cá nhân nào đấy nếu trong
quá khứ chứa đựng một biến cố có tác động sâu sắc đến đời sống tinh thần của
họ. Hay tương lai có thể đem đến cho người ta sự chán nản, vô vọng nếu nó mờ
mịt mất phương hướng hoặc nôn nóng, chờ đợi, hi vọng nếu nó đầy hứa hẹn. Thực
tại cũng có lúc thật vô nghĩa hay sẽ trở nên bất tử... Thời gian trong cảm thức
của con người như một cơ thể sống với các trạng thái cảm xúc phong phú, phức
tạp được mở rộng các đường biên để sống hết các chiều kích của nó, để đánh dấu
những thời khắc đặc biệt trong cuộc sống của mỗi cá nhân hay của cả cộng đồng.
Như vậy, con người có thể cảm nhận, đánh giá về mọi vấn đề của cuộc sống, trong đó có thời gian. Con người
thông qua đó để giãi bày thế giới tâm hồn của mình với những nghĩ suy, những
trăn trở...
Văn
chương nói riêng và thơ ca nói chung, suy cho cùng đều xuất phát từ tiếng lòng,
cảm xúc, tình cảm của con người. Qua lăng kính tâm hồn, bất cứ khái niệm, thực
thể, hiện tượng nào đều không bị bó buộc, vạn vật đều có thể biến tính, biến
hình và được cảm thức theo những cách khác nhau. Thời gian cũng không nằm ngoài
quy luật ấy. Thời gian qua ngòi bút nhà văn hoàn toàn có thể phá bỏ quy luật
vận động vốn dĩ của nó, đảo lộn trình tự hoặc bỏ qua một hoặc hai ba chiều vận
động vốn có của nó. Đó là cách một nhà văn làm ngưng đọng một khoảnh khắc, kéo
dài và nới rộng nó ra; cũng như nén lại, co vào một khoảng thời gian một trăm
năm đến một thế kỉ. Với thơ ca – nơi người nghệ sĩ gửi gắm vào đó tất cả tình
cảm, cảm xúc của mình với khát vọng tạo dựng một thế giới chủ quan đầy hình
ảnh, thì cảm thức về thời gian gắn liền với cảm thụ của nhà thơ trước cuộc đời
cũng như ý nghĩa chung về cuộc sống nhân sinh. Niềm rung động của nhà thơ với
đời càng dạt dào, nỗi lòng với cõi đời càng thiết tha bao nhiêu, thì những cảm
thức trước mỗi khoảnh khắc lại càng trở nên tinh tế, mãnh liệt và linh diệu bấy
nhiêu.
Cảm
thức thời gian thường in đậm dấu ấn lên các tác phẩm nghệ thuật. Và dường như
chính sức mạnh biểu hiện đa dạng, phong phú của ngôn ngữ đã giúp văn học lưu
lại dấu ấn về cảm thức thời gian một cách sâu sắc, sinh động hơn hẳn các loại hình
nghệ thuật khác. Nó không chỉ là một mảnh vỡ về thời gian được lưu lại bằng
hình khối, màu sắc hay âm thanh mà với một dung lượng ngôn từ ít ỏi, nó có thể
bao gồm những biến cố lớn lao của cả một đời người hay cả một thời đại. Quan
trọng hơn cả là nhìn những thời khắc được người đời cảm nhận có thể giúp ta
thấu hiểu họ, đọc được con người bên trong với những biến thái tinh vi của tâm
hồn để chiêm nghiệm lại chính con người và cuộc sống của mình, để tìm niềm vui
và ý nghĩa cuộc sống ngay trong nỗi buồn, trong những mất mát vì bài học tâm
hồn là bài học luôn mới mẻ, ngay cả khi ta nhận được nó từ những người cách ta
hàng ngàn năm. Đi vào tác phẩm nghệ thuật, cảm thức thời gian của người nghệ sĩ
sẽ được cụ thể hóa, hình tượng hóa, đem đến cho ta thời gian nghệ thuật – “là
thời gian mà ta có thể thể nghiệm được trong tác phẩm nghệ thuật với tính liên
tục và độ dài của nó, với nhịp độ nhanh hay chậm” [46, tr.77]. Thời gian trong
cảm thức của nhà văn mang những đặc trưng riêng, khác với thời gian thực tế.
Thời gian
trong cảm thức của nhà thơ luôn mang tính tâm lí. Thời gian với các đặc trưng:
tính liên tục, độ dài, hướng, nhịp nhưng các đặc trưng này có thể co giãn theo
dòng suy nghĩ và dụng ý của nhà thơ.
Trong cảm thức nhà thơ có quá khứ - hiện tại - tương lai nhưng nó không
còn tuân theo đúng chiều vận động mà có thể thay đổi trật tự bằng đảo ngược,
đan xen, có khi xuất hiện cùng một lúc. Thời gian tâm lí được nhà thơ cảm nhận
bằng những tín hiệu riêng, sâu xa trong tâm thức người nghệ sĩ, thể hiện con
mắt quan sát tinh tường cùng tâm hồn nhạy cảm. Xuân Diệu cũng thấy thời gian có
mùi – mùi vị của chia phôi: “Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi, thậm chí có
hình hài, dáng vóc “như một cặp môi gần”, hay một quả chín, một thiếu nữ trong
trắng, mơn mởn để nhà thơ phải thốt lên “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”
(Vội vàng). Các nhà thơ xưa thấy mùa thu về qua lá vàng rơi, lá ngô đồng rụng
hay hoa cúc. Hữu Thỉnh cảm nhận hơi thu qua hương ổi phả vào hơi gió, qua màn
sương giăng mắc trước ngõ: “Bỗng nhận ra hương ổi / Phả vào trong gió sen /
Sương chùng chình qua ngõ/ Hình như thu đã về” (Sang thu). Do được cảm nhận một
cách đặc biệt như vậy, thời gian trong tác phẩm nghệ thuật đôi khi trở nên hữu
hình, có màu sắc, mùi vị, hương thơm, ánh sáng. Đoàn Phú Tứ miêu tả hương thời
gian, màu thời gian: “Hương thời gian
thanh thanh / Màu thời gian tím ngát” (Màu thời gian).
Không
chỉ mang tính tâm lí, thời gian trong cảm thức người nghệ sĩ còn mang tính quan
niệm và có nội hàm triết lí. Các tác phẩm văn học phương Tây, không có ý niệm
về thời gian bởi ngay bản thân từ ngữ dùng để tả, kể đã thuộc về một thì nào
đó, điều này chứng tỏ mối quan tâm đặc biệt của họ đến thời gian hơn là không
gian. Thời gian là phương tiện để nhà văn phản ánh đời sống, thể hiện cảm xúc,
tư tưởng. Thông qua các kiểu thời gian, ta có thể thấy được đặc điểm thời đại
hay một giai đoạn trong lịch sử hoặc một loại hình, một xu hướng văn học: dân
gian – trung đại – hiện đại; lãng mạn – hiện thực; Nho – Phật – Đạo… Thời gian
trong truyện cổ tích thường mang tính phiếm chỉ “Ngày xửa ngày xưa, đã lâu lắm
rồi”, “Thuở ấy”… bởi về bản chất, cổ tích là những câu chuyện “bịa”. Người ta
kể chuyện để thể hiện khao khát về lẽ công bằng hay thỏa mãn nhu cầu giải trí,
để cho trí tưởng tượng mặc sức bay bổng. Diễn biến câu chuyện mới là điều quan
trọng, không cần biết nó có thực hay không, xảy ra vào lúc nào và nếu có người
tin nó là thật, họa chăng chỉ có trẻ em. Ngược lại, thời gian trong truyền
thuyết lại thường rất cụ thể, xác định bởi dân gian tin vào tính hiện thực của
những sự kiện, biến cố, nhân vật lịch sử mà tới nay còn ít nhiều để lại dấu
vết. Trong văn học trung đại, thời gian thường là thời gian tuần hoàn, bốn mùa
đắp đổi theo kiểu: “Sen tàn cúc lại nở hoa/ Sầu dài ngày ngắn đông đà sang
xuân”. Điều này xuất phát từ cảm quan của con người về thế giới: con người nhìn
thế giới trong tính toàn vẹn, thống nhất của nó. Bởi vậy, dù bị ám ảnh bởi tính
chất ngắn ngủi của cuộc đời, họ không có ý thức tách mình ra như một thực thể
độc lập mà thường hòa mình trong không gian thời gian vô thủy vô chung. Cách
chiêm nghiệm ấy hoàn toàn khác với con người hiện đại: càng về sau này, thời
gian trong các tác phẩm càng có xu hướng bị phá vỡ, chỉ còn là những mảnh, mẩu
được lắp ghép một cách rời rạc trong cố gắng “phi thời gian hóa”. Cách thể hiện
ấy cho thấy cái nhìn thế giới như một thực tế hỗn độn. Không thể tìm ra mối
quan hệ nhân quả, không còn tính vẹn nguyên. Cảm thức thời gian, do đó cũng là
một trong những yếu tố góp phần thể hiện phong cách. Qua cảm thức thời gian, ta
còn thấy được nếp cảm, nếp nghĩ của một con người đại diện cho một cho một
khoảng thời gian lịch sử. Nghiên cứu vấn
đề cảm thức thời gian trong thơ Trương Đăng Dung, Mai Văn Phấn cho thấy rõ hơn
vai trò của hai nhà thơ trong hành trình hiện đại hóa thơ Việt Nam.
Chương
2
ĐIỂM GẶP GỠ VỀ CẢM THỨC THỜI GIAN TRONG
THƠ TRƯƠNG ĐĂNG DUNG VÀ MAI VĂN PHẤN
Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn đều
là những người yêu quê hương, gắn bó với lịch sử dân tộc trong những năm tháng
đau thương và đều có điều kiện được tiếp xúc với văn hóa châu Âu từ rất sớm.
Thiên phú cộng với sự am hiểu về các hình thái văn học và khát khao dấn thân
thôi thúc hai nhà thơ sáng tạo, cống hiến không mệt mỏi trong hành trình đưa
thơ Việt đến với bạn đọc thế giới. Sự hiện diện của thời gian trong thơ của hai tác giả rất rõ nét qua gương
mặt thời gian, sức mạnh của thời gian, thời gian và kiếp người.
2.1. Gương mặt
thời gian
2.1.1. Thời gian - nỗi ám ảnh thi sĩ
Mỗi con người không thể tồn tại ngoài quy luật của không
- thời gian, do đó, thời gian trong thơ chính là một cách để cảm thụ thế giới
và con người. Trong thơ ca, tuy có nhịp độ, có quá khứ, hiện tại tương lai
nhưng là một phạm trù nghệ thuật “đầy ước lệ, chủ quan và thể hiện một cách
hiểu về thế giới con người khi tìm hiểu thời gian, không gian nghệ thuật của
hình tượng văn học chính là tìm hiểu cách cảm nhận cuộc sống một cách nghệ
thuật và tỉ mỉ trong đó” [24]. Thể loại này bộc lộ trực tiếp cảm xúc của con
người, tự nhận thức, cảm nhận thấy mình qua những ấn tượng, ý nghĩ, cảm xúc chủ
quan đối với thế giới khách quan nhưng lại hàm chứa cái “Tôi” cảm xúc. Nó động
đến cái chung tồn tại của mọi người, trở thành tiếng lòng thầm kín của mọi
người. Vì thế, nó biểu hiện những sắc thái tinh tế của tình cảm, con người.
“Nếu trong loại tự sự, cái chính là sự phát triển của sự kiện, là số phận của
nhân vật thì trong loại trữ tình mối quan tâm nhất là sự năng động của tình
cảm" [12]. Do vậy, thơ ca cũng đòi hỏi phải theo sát thời gian, chi tiết
cụ thể thâu tóm được những cảm xúc chân thực nhất vì các nhà thơ - những thi sĩ
muốn viết nên tác phẩm phải có cảm xúc, tình cảm… Tất cả bắt nguồn trong cảm
nhận của nhà thơ bằng tâm lý. Hiện thực cuộc sống đòi hỏi phải cầm bút chưa đủ,
thi nhân phải có sự rung cảm giao hoà. Điều này phụ thuộc vào tâm lý tác giả
cảm nhận thời gian như thế nào. Tìm hiểu đặc điểm của yếu tố thời gian trong
thơ ca là công việc không đơn giản. Đứng về phía kết cấu, người ta xếp thơ vào
loại phạm trù thẩm mỹ không gian - thời gian hỗn hợp. Và thời gian chính là yếu
tố làm chỗ dựa để thơ ca tồn tại, làm phạm trù thể hiện trước mắt người đọc.
Thời gian trong thơ chính là sự phản ánh một cách rõ ràng tâm trạng của nhà thơ
và nó cũng là yếu tố tạo nên phong cách riêng của tác giả đem lại những thành
công cho tác phẩm văn học. Những bài thơ của Lưu Quang Vũ đã tái hiện một lớp
thời gian ám ảnh của những nỗi buồn của những dự cảm và những hoài niệm cũng
như khao khát.
Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn
đều có sự xáo động tâm tư trước bước đi
của thời gian. Các tín hiệu thời gian được nhà thơ nhận ra ở những biểu hiện
tinh tế nhất. Trương Đăng Dung cảm nhận mùa thu vừa mới, vừa cũ, vừa quen vừa
lạ, vừa gần gũi mà hóa xa xăm, chưa kịp thưởng thức nhận ra đã khác:
“Anh không thấy thời gian trôi
chỉ thấy mùa thu vừa lạ vừa quen
những gương mặt những nụ cười mới
gặp
chưa kịp thân đã thấy khác đi rồi”
(Anh
không thấy thời gian trôi – Trương Đăng Dung)
Mùa thu đến bao trùm lên mọi cảnh
vật, không khó để nhận ra mùa thu qua cảm nhận cá nhân về sự chuyển giao mùa,
nhưng để thẩm thấu âm thanh tiếng thu “vừa lạ vừa quen” chắc chắn không chỉ
bằng thị giác, bằng trái tim mà có lẽ còn bằng cả nỗi niềm sâu thẳm. Nhưng
trong cảm nhận đã có câu trả lời cho bản thân về sức mạnh của thời gian, in dấu
trên những gương mặt, những nụ cười. Thu đến, xuân qua, thi sĩ còn bận lòng với
“chân trời”.
“Em ngồi bên anh nhìn dòng sông
chảy từ phía chân trời
đầy nắng, mưa và gió.
Không một cành khô, lá khô
sông thanh thản kéo trời
trôi theo mình lặng lẽ”
(Trên
đồi Vọng Cảnh -Trương Đăng Dung)
Dòng sông đêm ngày cuộn chảy như
dòng thời gian đang trôi đi. Nhìn dòng sông, Trương Đăng Dung hình dung thời
gian như đang trôi đi đến điểm tận cùng của nó.
Nhà thơ tiếc nuối thổn thức, băn khoăn day dứt tự vấn:
“Đang mùa xuân hay đã sang hè
mà hoa tím rụng đầy mặt nước
chảy về đâu, sông ơi
Sao chỉ thấy một con thuyền thấp
thoáng?”
(Trên
đồi Vọng Cảnh - Trương Đăng Dung)
Nhìn
thời gian trôi, thi sĩ bất lực, hoài nghi, không nhận ra thời gian thực tại.
“chảy về đâu, sông ơi” là nỗi khắc khoải không có lời giải đáp cũng như đang tự
hỏi bản thân rằng thời gian nào là thời gian cuối. Ta hình dung ra một con
người đang đếm nhịp thời gian. Đây là nhịp thời gian lạnh lẽo, vô tình, thản
nhiên đều bước hay chính là nhịp đời từng phút từng giây dịch chuyển? Giống như
Trương Đăng Dung, Mai Văn Phấn cũng nhìn thấy bước đi thời gian trên từng sự
vật:
“Chỉ mong những đốm vàng
Trên đó lan nhanh
Nhưng hơi ẩm đang phà hơi
Vào khoảng xanh diệp lục
Mình không manh động
Vào mùa xuân”
(Bài
thơ số 35, Tĩnh lặng - Mai Văn Phấn)
Nhà thơ vẽ ra trước mắt người đọc
một loạt các hình ảnh cụ thể, sinh động. Bước chân thời gian đi đến đâu là in
hằn dấu vết đến đó trên cảnh vật qua hình hài, dáng vẻ, màu sắc. Nó không mơ
hồ, huyền ảo mà được dễ nhìn thấy qua những đốm vàng đang lan nhanh, và hơi ấm,
và màu xanh diệp lục. Tất cả đều đang di chuyển, biến đổi vào thời khắc vào
xuân. Chủ thể muốn lưu giữ khoảnh khắc này để cảm nhận, thời gian như ngưng
lại, vào khoảnh khắc Vào mùa xuân.
Còn mùa thu trong cảm nhận của Mai Văn Phấn là:
“Hóa thân giọt nước mùa hè
Một đêm trở gió bay về với thu
Dẫu chưa trọn kiếp sương mù
Xin tan loãng kẻo trăng lu cuối trời
Bao lần xanh biếc rong chơi
Mấy lần úa rụng tiếng người vọng
theo
Thôi em! Đừng vặn! Đừng khêu!
Đáy thu thắp sáng trên nhiều ngọn
cây.
Anh vừa đọng xuống thu gày
Đã đông thành đá phủ đầy rêu xanh.”
(Khúc
cảm mùa thu - Mai Văn Phấn)
“Giọt nước”, “gió bay”, “sương mù”,
“trăng lu” là những nhân chứng có khả
năng phản chiếu, cụ thể hóa sự hiện diện của bước chân thời gian. Nhà thơ giống
như một con người tỉ mẩn không ngừng đo đếm, chi chút từng phút từng giây.
Không gì lọt ra khỏi con mắt quan sát của ông, không một tích tắc nào đi qua mà
không để lại dấu vết. Khúc cảm mùa thu
thời gian đã bị theo dõi, ghi lại mọi động tĩnh.
Trong thơ Trương Đăng Dung và Mai
Văn Phấn, thời gian là một nhân vật, một nỗi ám ảnh lớn. Thời gian xuất hiện
mọi lúc, mọi nơi với mọi không gian, mọi chiều kích của nó.
2.1.2. Bước đi của thời gian
Thời gian với tính quá trình, không
ngừng nghỉ được nhận diện qua các dấu hiệu mà tác giả phản ánh trong tác phẩm.
Đặc biệt, trong tâm thức của hai thi sĩ, thời gian trôi đi không thể níu giữ
được. Dẫu đã nhận thức được sức mạnh của nó, cả hai nghệ sĩ vẫn không khỏi có
lúc hoảng sợ, lo toan trước tốc độ chiếm lĩnh và hành trình của thời gian.
Lặng người trước bước chân nhanh
chóng của thời gian, Trương Đăng Dung hoài nghi về dấu ấn của con người:
“Anh không thấy thời gian
trôi
chỉ thấy những đám mây di
chuyển
và những chiếc lá vàng
không muốn lìa cây
gió rung, lá rơi còn vẫy
vẫy.
Anh không thấy thời gian
trôi
chỉ thấy những lá thư ngày
một bạc màu
những cơn mưa rơi vào đêm
vắng
dấu chân ta - năm tháng có còn đâu.”
(Anh không thấy thời
gian trôi - Trương Đăng Dung)
Thời
gian tồn tại vừa cụ thể vừa cũng rất mơ hồ hư ảo. Và nỗi ám ảnh này thơ cổ kim
Đông Tây đề cập đã nhiều "Một tiếng kêu dài lạnh thái hư!", hay
"Ngẫm trời đất vô cùng/ Mà rưng rưng dòng lệ…". Muốn in dấu ấn của
mình lên áng mây thời gian trong thế giới mong manh hư ảo là một giấc mộng lớn
của phận người thi sĩ. Nó như một sứ mệnh, một định mệnh sắp đặt sẵn cho những
con người mang tâm hồn nghệ sĩ. Thi sĩ Trương Đăng Dung mang trong mình sâu
lắng sự ám ảnh đó. Thơ ông bày tỏ và nâng niu. Một giọng thơ tinh tế, đầy băn khoăn,
tha thiết niềm yêu sống:
“Kìa
hoàng hôn rạng rỡ mặt trời
kìa đồng cỏ phập phồng ngực lửa
em đã
đến thổi màu vào ngọn lửa
ba mươi năm hay ba triệu năm rồi.
Em đã sống những ngày không đợi
anh đã đi không một chút bình yên
chân
trời dấu những điều không đến
ba
mươi năm hay ba triệu năm rồi.”
(Ba mươi năm hay ba
triệu năm rồi - Trương Đăng Dung)
Ý thức
về tốc độ không gì kìm giữ được của thời gian thường đi liền với sự tự ý thức
về tình cảnh bản thân về sự hoài nghi về thời gian đang sống hiện tại. Trong
khi thời gian không chờ đợi, không thể níu giữ, con người đối diện với sự thật
về quỹ thời gian ngày càng ít đi. Ta thấy trong thơ Trương Đăng Dung những
khoảng thời gian cụ thể, vừa thực vừa
ảo, hoài nghi khó xác định: “Có một thời/ có một thời/ ta đã sống thật sao?” (Có một thời - Trương Đăng Dung)
Và khoảng thời gian dài của quá khứ
in đậm trong tâm thức của Trương Đăng Dung không lúc nào nguôi ngoai hay chìm
vào quên lãng.
“Anh không biết dòng sông trôi về đâu
bốn mươi sáu ngàn năm nữa.
Có thể em vẫn nhớ một ô cửa của con tàu
nơi anh đứng,
và bàn tay thấp thoáng vẫy trong đêm.
Có thể em vẫn nhớ những vầng trăng thức trắng
lá rơi thảng thốt trước thềm.
Có thể em vẫn nhớ một bóng hình, giọng nói
đã tan trong sương khói
những kiếp người”
(Có
thể - Trương Đăng Dung)
Dù là “hai mươi ba ngàn năm về
trước”, “hay bốn mươi sáu ngàn năm nữa”…, dù là quá khứ hay tương lai những
khoảng thời gian ấy cũng đã qua đi thật chóng vánh. Bởi kiếp người như sương
khói, quả thật rất ngắn ngủi. Nhà thơ nhắc đến thời gian như nhắc đến một
khoảnh khắc, một thứ gì quý giá, rất trân trọng, càng khát khao níu giữ thì
càng không thể nắm bắt được. “Một cấu trúc câu thơ phủ định nữa lại xuất hiện,
ở đoạn trên là anh không biết đến bao giờ, không biết những ngày thơ bé, không
nhớ thời gian nước chảy, bây giờ lại không biết dòng sông trôi về đâu. Tất cả
cái sự không biết, không biết, không nhớ, không biết...trong thơ ấy lại cho
thấy tác giả biết quá nhiều, nhớ quá nhiều. Không biết và biết cũng chỉ là có
thể. Điều quan trọng là anh đã có nó, anh có em để sống, để trải nghiệm, để làm
một kiếp người. Biết mà nói không biết ấy có phải là tư duy của con người vừa cổ
điển vừa rất hiện đại thể hiện trong bài thơ này ? Và cũng chỉ có một cấu trúc
câu thơ độc đáo như thế mới diễn tả hết được những suy nghĩ, những triết lý sâu
sắc của tác giả trong bài thơ. Lại bốn sáu ngàn năm nữa, một thời gian vừa có
thể vừa không có thể ùa về mênh mông,
thảng thốt, bàng bạc trong những kiếp người quanh ta. Vầng trăng thức trắng hay
đó là anh, là anh trong những đêm thao thức, trăn trở về dòng sông, con thuyền,
bóng hình, giọng nói và... kiếp người” [7, tr.242].
Với Mai Văn Phấn, thời gian của cả
đời người dằng dặc rồi một ngày sẽ về với cát bụi:
“Ừ, thì ra cát bụi
Là một đời thân xác đớn đau
Gió vẫn ru xanh mướt ở trên đầu
Trời rót xuống từng cơn mưa đằm
thắm.
Cái ác đã ngủ yên trong nhụy đắng
Cho đất lành thơm mát đến rưng rưng
Hồn tôi lung linh hạt nắng
Rơi xuống đồng xanh không cùng.
Và rạng đông! Từng giọt rạng đông!
Tôi lại nhập hồn về với xác
Chẳng phải tôi, cũng không là người
khác
Để hồn nhiên cất tiếng khóc lọt
lòng.”
(Hồn
nhiên - Mai Văn Phấn)
Nhà thơ miêu tả hành
trình của mặt trời từ lúc bắt đầu xuất hiện tới khi tắt ánh hào quang. Khi mới
nhô lên với luồng ánh sáng rực rỡ bao bọc, anh ta thật uy nghi, hăm hở bước vào
chuyến đi. Tất cả mọi vật xung quanh dường như cũng bị cuốn hút, dõi theo ánh
sáng ấy. Nhưng rất nhanh sau đó, mọi thứ thay đổi. Mặt trời mệt mỏi, tàn tạ dần
và đi đến cuối cuộc hành trình. Đây cũng chính là vòng đời của một con người.
Chỉ có điều, mặt trời mỗi sáng đều mọc để rồi lặn khi chiều xuống, còn con
người chỉ có một cơ hội lên đường. Thời gian của họ mới ngắn ngủi làm sao,
không kịp mà nghĩ ngợi, xoay xở. Thật tình cờ là Trương Đăng Dung từ một góc
nhìn khác cũng có lúc có liên tưởng tương tự:
“Có những mùa hè không nắng
và mùa thu không trăng
thời gian đi trên những lối mòn
không thể thấy
Em đừng ngoảnh lại
cứ để những chuyến tày chạy ngược
chiều kí ức
không bao giờ vào ga
những gương mặt người lướt qua
như con số đếm giây trên đồng hồ
điện tử.
Thành phố phía chân trời
một căn phòng một chiếc giường hai
chiếc gối
một đôi mắt buồn
mười ngón tay thức dậy trước bình
minh.”
(Thành
phố phía chân trời - Trương Đăng Dung)
“Mùa hè” và “mùa thu” đều là những
thời gian trong chốc lát có thể biến dời và rồi lặp lại theo một vòng tuần
hoàn. Thế nhưng, trong cảm quan của thi nhân, phương trình đó lại hiện diện
“thời gian đi trên những lối mòn không thể thấy”.
Thời gian vô tình trôi qua, có lúc
Mai Văn Phấn kêu lên thảng thốt:
“Hoàng hôn như một cửa chùa
Hư không trên ngón tay vừa đi qua
Ta ngồi nhập định cùng hoa
Thành chuông ai thỉnh ngân nga cỏ
mềm
Cầm tay gió dắt vào đêm
Mà hồn xanh lỡ để quên cuối trời
Dấu chân xin cát chớ vùi
Cho ta về lại luôn hồi kiếp sau.”
(Qua
hoàng hôn - Mai Văn Phấn)
Tác giả đưa ra một loạt các câu hỏi
nhưng thực chất là các câu phủ định, là một thực tại hiển nhiên, trong khi để
níu giữ nó, người ta cần cả một phép màu.
“Trọn một kiếp người
Hoa uống cạn nước mắt với mồ hôi
Chim có về, bới tóc tôi mà làm tổ”
(Lời
người trồng hoa - Mai Văn Phấn)
Khi con người vừa kịp nhận ra thời
gian đó thì nó đã đi mất hút. Giống như cánh chim bay không biết mỏi, hay như
gió thổi mây trôi, thời gian không đợi một người nào, cũng không bao giờ bị
ngáng trở. Mạnh mẽ hơn, Mai Văn Phấn còn thể hiện khát khao níu giữ thời gian,
níu giữ sự sống “Cho xanh tươi lại từng cơn úa vàng”:
“Thôi đừng dỗ cỏ lên trời
Khi tan mộng mị biết ngồi với ai
Dấu chân đừng hóa chông gai
Nép vào bóng xế, dũa mài hoàng hôn
Ta về đổ bóng xuống vườn
Cho xanh tươi lại từng cơn úa vàng
Ghé môi vào miệng thời gian
Cho hơi thở mọc vô vàn cỏ non”
(Tản
mạn về cỏ - Mai Văn Phấn)
Như có một lực đẩy vô hình, thời
gian trong thơ Trương Đăng Dung và thơ
Mai Văn Phấn lúc nào cũng gấp gáp, vội vã. Người xưa có câu “Ngày vui ngắn
chẳng tày gang”. Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn đều quý trọng từng giây phút
sống, đều có một tâm hồn hết sức nhạy cảm nên mới có sự gặp gỡ này. Cái nhìn
của họ, có thể nói đậm màu sắc hiện đại. Bởi con người trong văn học cổ thường
chỉ thấy ở thời gian sự tuần hoàn, họ lấy thiên nhiên, vũ trụ làm tâm điểm.
Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn dường như đứng từ góc độ con người trần thế:
thời gian không còn mang tính khách quan mà trở thành thời - gian - của - mình
cho nên mới vội vàng làm vậy.
Có một điều đáng chú ý
là thông thường ở các xã hội thuần nông, sự nối tiếp đều đặn của các mùa vụ
thường dẫn đến thái độ vô tư trước sự trôi chảy của thời gian, dẫn đến một nhịp
sống khoan thai, đều đều, chậm rãi. Chỉ khi các đô thị bắt đầu phát triển, con
người mới thực sự có nhu cầu đo đếm thời gian một cách chi li. Đô thị trở thành
nhân tố mang thái độ mới đối với thế giới và do đó cũng mang thái độ mới đối
với vấn đề thời gian ở đô thị đã hình thành một môi trường xã hội có thái độ
đối với thời gian hoàn toàn khác thái độ của những đẳng cấp nông dân phong
kiến. Đối với thương nhân, thời gian là tiền, nhà kinh doanh cần sự xác định
giờ giấc trong xưởng của mình. Thời gian có một giá trị lớn, nó biến thành một
nhân tố cốt yếu của sự sản xuất. Như vậy, sự tương đồng trong cách cảm nhận về
bước đi thời gian ở Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn còn có thể được lí giải
một phần từ những gặp gỡ nhất định về hoàn cảnh xã hội.
2.2. Sức mạnh thời gian
Không
dừng lại ở việc mô tả hành trình của thời gian, cả hai nghệ sĩ đều đã cụ thể
hóa hình ảnh thời gian bằng sức tàn phá khủng khiếp của nó. Như trên đã nói,
thời gian không còn là một tồn tại khách quan bao chứa mọi vận động, cũng không
hẳn chỉ là khái niệm nhằm ghi lại những ấn tượng “kế tiếp nhau một cách nhịp
nhàng chia thành những khoảng cách đều đặn, có chừng, lặp đi lặp lại” [23,
tr.122] mà đã thực sự trở thành một thế lực có sức mạnh, không đếm xỉa gì đến
con người.
2.2.1. Thời gian vô tình
Thời gian tàn phá cỏ cây muôn vật và
cả con người bằng sự chảy trôi vô tình của nó, bằng sự đổi thay. Với Trương
Đăng Dung thời gian mang vẻ vô tình lãnh đạm: “Sợ bóng tối sẽ tràn vào/ khi em
mở tung cửa sổ/ cơ thể chúng ta thôi rạng rỡ./ Sợ thời gian rình trong từng sợi
tóc/ khi môi ta rời nhau/ hơi ấm đã thuộc về quá khứ/ Sợ căn phòng trở nên
trống rỗng/ khi em xếp lại chăn màn/ kí ức không còn nơi ẩn náu.” (Vật chứng - Trương Đăng Dung)
Tất cả đều sẽ chìm vào quên lãng,
không gì trụ nổi với thời gian. Mai Văn Phấn cũng cùng chung tâm sự này: “Sau
giấc ngủ dài mới hay cả quá khứ đã bị đánh cắp./ Thật kì lạ là qua một khoảng
trống, không ai trong số họ nhớ nổi nơi đây đã xảy ra điều gì.” (Di chứng - Mai Văn Phấn)
Không chỉ có giá trị vật
chất bị tiêu tan mà những giá trị tinh thần rồi đây cũng bị đe dọa. Trương Đăng
Dung ý thức rất rõ khoảng cách thời gian như một “bức tường” ngăn cản những con
người, những tấm lòng đến với nhau:
“Có
những bức tường ta xây
và ta phá
có những bức tường ta không xây
và không nhìn thấy.
Anh và em đi trên mặt đất này
giữa những bức tường ta xây và phá
nhưng tất cả đều bị bao quanh
bởi những bức tường không nhìn thấy”
(Những
bức tường - Trương Đăng Dung)
Trương Đăng Dung dành sự lo lắng
khôn nguôi cho quá khứ “kí ức không còn nơi ẩn náu”. Mai Văn Phấn lo lắng khôn
nguôi cho số phận của cái đẹp, cái đẹp vốn mong manh, yếu ớt thì lấy đâu ra sức
mạnh để chống chọi trong khi ngay đến những thứ cứng rắn nhất cũng không thoát
khỏi bàn tay của thời gian:
“Chuyện áo cơm leo lét dầu đèn...
Thời bom đạn bình minh như bát vỡ
Tôi ôm chiếc bát của bóng đêm ăn dở
Thành lực điền đối diện với hoàng
hôn”
(Hát
giữa hai mùa - Mai Văn Phấn)
Trước những vũ khí sắc bén của thời
gian, cái đẹp là nạn nhân đáng chú ý nhất, dễ bị tổn thương nhất. Mai Văn Phấn
mới chỉ dự cảm, còn Trương Đăng Dung miêu tả cụ thể một trường hợp mình đã trải
qua: ấn tượng không phai mờ của ông về hình ảnh những người mẹ, những người đàn
bà.
“Những người đàn bà đi trong bình
minh
chiếc làn xách tay
mấy quả trứng, mớ rau
và một ít bóng đêm sót lại
Con phố dài
cánh cửa sổ nhà này mở ra
cánh cửa sổ nhà kia khép lại.”
(Những
người đàn bà - Trương Đăng Dung)
Thế mới thấy Trương Đăng Dung nặng
lòng đối với những người mẹ, người vợ, người đàn bà, xuất phát từ sự chứng kiến
số phận của chính người mẹ, người xung quanh trong chính quê hương của mình,
cuộc sống vất vả mưu sinh, sự nghiệt ngã của thời gian oằn mình trên đôi vai,
gương mặt khắc khổ của họ. Dù vậy, giống như Mai Văn Phấn, ta thấy ở đây trước
hết là một trái tim giàu rung cảm của một thi sĩ, không thể ngoảnh mặt làm ngơ,
vô sự khi cái đẹp rơi vào vòng trầm luân.
Tàn
bạo nhất, đáng sợ nhất vẫn là sự tấn công của thời gian vào con người. Thời
gian sẽ lấy đi tuổi trẻ, tình yêu, sức sống mà con người không có cách gì níu
giữ:
“Những giọt mưa hôm qua rơi xuống lá
khô
những giọt mưa hôm nay rơi xuống mặt
hồ
ngày vẫn thế và mặt trời vẫn thế
người đàn bà đẩy chiếc xe lăn
lần thứ mười ba đưa chống vào bệnh
viện
đêm dài hơn ngày
ngày dài hơn con đường đã đi
nỗi buồn của chị
cũ hơn tháng ngày.”
(Ghi
chép hè 2009 - Trương Đăng Dung)
Thời gian trôi đồng nghĩa với bất
trắc, làm con người hoảng sợ: “Anh đã thấy những người dị dạng/ dang tay đòi
hái mặt trời/ những bóng ma thọt chân, lang thang/ đòi trở về quê cũ/ và những
đội quân không mũ/ tay súng, tay đao, chân bước thụt lùi/ những nhà thơ chống
gậy đứng cười/ trước những con trâu mông dính đầy mạng nhện...” (Chân trời - Trương Đăng Dung)
Không giống như dòng sông có điểm
nguồn và đích đến, dòng thời gian vô thủy vô chung mãi trôi vô tận. Có lẽ đời
người như sông, bị gió thời gian cuốn xuôi dòng, sớm muộn gì cũng đi tới điểm kết
thúc. Không dừng lại ở việc miêu tả cái già, cái tàn tạ, cả hai nhà thơ đều đẩy
đến tận cùng sức tàn phá của thời gian – cái chết.
Vũ trụ có thể vĩnh viễn, mùa xuân rồi
cũng tuần hoàn nhưng tuổi xuân của con người chỉ có một lần, đã qua là qua mãi.
Cho nên Xuân Diệu đã nồng nhiệt phủ định:
“Nói
làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu
tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại !”
Thước đo thời gian của thi sĩ là tuổi trẻ. Tuổi trẻ một
đi không trở lại “chẳng hai lần thắm lại” thì làm chi có sự tuần hoàn ! Trong
cái mênh mông của đất trời, cái vô tận của thời gian, sự có mặt của con người
thật là ngắn ngủi, hữu hạn. Nghĩ về tính hạn chế của kiếp người, Xuân Diệu đã
đem đến một nỗi ngậm ngùi thật mới mẻ. Ta cảm nghe rất rõ tiếng thở dài bất lực
của thi nhân. Ta nghe rõ cả cái bâng khuâng, nuối tiếc của nhà thơ phả vào đất
trời. Dường như trước mắt người đọc là cả một trời tiếc nuối. Tâm trạng ấy của
Xuân Diệu ta cũng bắt gặp trong bài thơ Giục
giã:
“Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn
Vừa xịch gối chăn mộng vàng tan biến
Dung nhan xê động sắc đẹp tan tành
Vàng son đang
lộng lẫy buổi chiều xanh
Vừa ngoảnh lại
cả lầu chiều đã vỡ”
Cái chết xuất hiện nhiều lần trong thơ Mai
Văn Phấn ám ảnh
như một điểm cáo chung,
chấm dứt tất cả. Có khi nhà thơ gọi tên một cách trực tiếp, cũng có khi dùng
cách diễn đạt khác:
“Tử khí kéo ngọn bấc tới đỉnh trời
Con quạ rực sáng.
......
Con quạ mơ
Mọi cái chết đều được sắp đặt
Sau tiếng quạ kêu
Ai đã tự nguyện nằm xuống”
(Biến
tấu con quạ - Mai Văn Phấn)
Khi có chuyện đau buồn, người ta
thường an ủi nhau: thời gian sẽ làm lành mọi vết thương, bởi thời gian là liều
thuốc quên lãng, nó sẽ làm mờ nhạt rồi phôi phai tất cả. Nhà thơ đặt ra giả
thiết: những gì là chân lí hiển nhiên của ngày hôm nay sẽ trở thành mối nghi
ngờ xác đáng của ngày mai. Vì vẻ đẹp - cho dẫu của một con người - vốn mong
manh, chóng tàn, chẳng thể bảo toàn vẹn nguyên hình dạng. Khi anh chết đi, bị
chôn dưới mộ sâu, lòng đất giấu kín thân thể vốn có lẽ từng là khuôn mẫu của
thời đại, thanh nhã xưa nay chưa từng có. Cả trời cũng không thể lên tiếng,
không có gì chứng minh được một vẻ đẹp đến thế đã từng tồn tại trên trái đất
này, bởi không có gì làm bằng chứng. Cho nên, nhà thơ luôn nghĩ về cái chết với
một niềm lo sợ khôn nguôi:
“Bóng đen nép vào cổ vật
Còn run sợ lúc gọi tên
Nước mắt nhòe mờ niên đại”
(Nhịp
điệu vẽ lối đi - Mai Văn Phấn)
Cũng giống như Mai Văn Phấn, Trương
Đăng Dung nhắc nhiều đến hình ảnh con quạ. Ông nhắc tới hình tượng này, nhưng
không phải để cảnh báo mà để suy tư, chiêm nghiệm. Trương Đăng Dung buồn rầu
khi nhìn thấy hình ảnh con quạ trong hiện tại dự báo cái chết:
“Anh không còn gì ngoài bàn tay em
vuốt lên tóc anh trước cả ánh mặt
trời
thời gian rơi
qua từng kẻ ngón tay em vất vả
không giữ được đâu em
anh nghe ngày một gần hơn tiếng lũ
quạ.”
(Anh
không còn gì ngoài em - Trương Đăng Dung)
Với Trương Đăng Dung, điều đáng sợ
hơn cả cái chết về thể xác là cái chết tâm hồn, là khi người ta sống không mộng
tưởng, không mơ ước, hay chết rồi mà chẳng làm gì được cho đời. Cái chết đáng
sợ còn bởi nó là một cái gì bất trắc, không thể đoán biết, cái chết hiện hữu
ngay khi đang sống:
“Có một thời
có một thời
ta đã sống thật sao”
(Có
một thời - Trương Đăng Dung)
Con người càng
tha thiết với đời sống thì càng lo sợ cái chết. Nhưng bản thân cái chết, đến
lượt nó, cũng sẽ trở thành nạn nhân của thời gian, bởi tiếp theo nó là sự quên
lãng của người đời, có nghĩa là quay về với hư vô, cát bụi, như chưa từng tồn
tại.
Không giống như các văn nhân lãng
mạn đôi khi thi vị hóa cái chết, xem cái chết “nhẹ tựa lông hồng”, cả Mai Văn
Phấn và Trương Đăng Dung đều thấy nó như một hệ quả tất yếu khi thời gian đặt
bước chân qua. Cái chết hoàn toàn chủ động tìm đến con người, còn họ luôn bị
động, yếu ớt chống trả. Chết là kết thúc mọi ước mơ, hoài bão, bị chôn vùi
trong lãng quên, là nguội tắt mọi niềm hi vọng nếu không thể tìm ra giải pháp
cho một sự bắt đầu mới. Hầu như các nhà thơ đều đã “bỏ quên” thời gian tuổi
trẻ. Thơ của hai tác giả này đều ít nói đến thời gian và tuổi trẻ. Trong thơ
Mai Văn Phấn, đó là sự rời xa vĩnh viễn của cái đẹp khỏi thế gian còn với
Trương Đăng Dung, đó là sự mất mát các giá trị tinh thần. Tuy nhiên, nói vậy
không có nghĩa họ ủy mị, sướt mướt hay tuyệt vọng. Các nhà thơ chỉ bằng một
tinh thần hiện thực nhìn thẳng vào thực tế, để rồi mỗi người một tâm trạng, một
cách ứng xử nhằm tìm ra sự thanh thản cho tâm hồn.
Như một viên tướng lão luyện, thời
gian chỉ huy cả một đội quân tinh nhuệ ngày, mùa, tháng, năm… cùng các vũ khí
nhiều uy lực luôn sẵn sàng phát huy tác dụng. Đứng sau nó là cả TỰ NHIÊN đầy
thách thức mà con người chưa bao giờ thôi khát khao chinh phục để rồi chưa một
lần đắc thắng.
2.2.2. Thời gian phôi pha
Theo vòng quay vô tận của thời gian,
những biến thiên vô chừng sẽ diễn ra. Giống như một bàn tay vô hình vận hành cỗ
máy, thời gian len lỏi vào từng đường gân thớ thịt của con người, thay thế các
tế bào đang tràn trề sinh lực bằng những cái tương tự nhưng cũ kĩ rệu rã. Trong
thơ Trương Đăng Dung và thơ Mai Văn Phấn, ta đều thấy nỗi ám ảnh tuổi già – một
nỗi đau dai dẳng.
Trương
Đăng Dung nhắc đến hình ảnh tóc bạc – hình ảnh thể hiện rõ nhất dấu ấn sương
tuyết thời gian in hình trên mỗi cá nhân. Tóc bạc là dấu ấn của tuổi tác. “Cũng
như móng tay hay các chi của con người, tóc được xem là vẫn giữ quan hệ mật
thiết với thân thể sau khi đã tách rời nó. Tóc tượng trưng cho phẩm chất của
một sinh linh, thể hiện tập trung sức mạnh tinh thần của những phẩm chất ấy.
Chúng đã hợp nhất làm nên một cơ thể vì giữa chúng vốn có sự thông cảm” [14,
tr.93]. Với nhiều dân tộc tóc có ý nghĩa rất lớn trong đời sống tâm linh thể
hiện ở các lễ nghi, cách để hay cắt tóc. Người phương Đông cũng nói “Cái răng
cái tóc là gốc con người”, khi kết hôn thì người ta dùng thành ngữ “kết tóc xe
tơ”. Trương Đăng Dung sử dụng hình ảnh
mái tóc như một phương tiện chuyển tải tâm sự của mình trước thời gian trôi
chảy. Tóc bạc không chỉ là dấu hiệu bên ngoài, sự biến đổi sinh lý mà còn mang
yếu tố tâm lý. Trương Đăng Dung rất ý thức về điều này:
“Anh không thấy thời gian trôi
Chỉ thấy lòng ngày một tha thiết với
trời xanh,
Sợi tóc rụng bàn tay nào giữ được
Mỗi ban mai khắc khoải việc chưa
thành”
(Anh
không thấy thời gian trôi - Trương Đăng Dung)
Nhà
thơ “soi gương” như một hình thức tự chiêm ngắm, mỗi lần “soi” là một lần nhận
ra biểu hiện không mong muốn ở mình:
“Anh nhìn vào mắt em
thấy hình anh ở đó
Nếu mắt em khép lại
ảnh hình kia chỉ còn lại trong em
anh không còn thấy anh trong hiện
tại
chỉ thấy em với những hình những ảnh
của mùa hè đang qua
mấy gốc vườn và mấy khóm hoa
chiếc ghế bỏ quên cơn mưa mùa hạ
tóc bà bạc xóa
thấp thoáng bên khung cửa
nắng nhòa.”
(Ảo
ảnh - Trương Đăng Dung)
Ta hiểu được, tháng năm không chỉ
đưa tới mái tóc bạc bên ngoài mà còn là sự “bạc”, sự già nua, mệt mỏi bên trong.
Lúc đầu nhà thơ còn ngỡ ngàng, thảng thốt, đến khi chấp nhận nó như một thực
tế, tóc bạc thành rào cản đối với con người, trở thành một giới hạn ngăn cách:
đã không còn trẻ trung cũng có nghĩa thời gian còn lại rất ngắn, chẳng đủ để
làm gì. Thời gian như không ngừng dồn đuổi, con người bị cuốn vào vô vàn mối
lo:
“Anh không còn gì ngoài em
sau tuổi năm mươi ngả bóng.
Anh chuẩn bị sống từ lúc sinh ra
nay hai màu tóc đan nhau
ai biết được
còn bao nhiêu năm tháng nữa trên
đầu?”
(Anh
không còn gì ngoài em - Trương Đăng Dung)
Đã bước sang bờ bên này thì không
thể quay trở lại, thế nhưng nhà thơ vẫn nhiều lần ngoái trông. Nhà thơ muốn
sống lại ký ức thời trai trẻ, nhiệt huyết, chất tài hoa lãng tử cháy không
nguôi trong một cơ thể đứng hướng “màn đêm”.
“Anh đã đứng trong màn đêm
khắc khoải chờ em đến
cùng đi về phía chân trời.
Anh đã thức nhiều đêm chờ đợi
khao khát một thứ gì nồng cháy như
mặt trời
ngọt ngào như quả chín.”
(Chân
trời - Trương Đăng Dung)
Hình ảnh sông trong thơ Trương Đăng Dung
thường gắn với nỗi lo sợ, hoảng hốt, muốn tránh xa. Phải chăng ông thấy ở dòng
nước đang cuồn cuộn trôi kia bước chân vô tình của thời gian đang vận động
nhưng lại gặp ở núi cái trầm tĩnh uy nghi, vững bền bình lặng. Tóc bạc lúc này
đồng nghĩa với thất vọng, bất lực, thậm chí hoảng sợ:
“Không một cành khô, lá khô
sông thanh thản kéo trời
trôi theo mình lặng lẽ.
Không mang theo những gì để trở
thành bất tử
sông
chảy vô tư bên những lăng mộ im lìm
những đền đài quạnh quẽ.”
(Trên
đồi Vọng Cảnh - Trương Đăng Dung)
Cũng như thơ Trương Đăng Dung, tóc
không chỉ thể hiện sự biến đổi bên ngoài mà còn là dấu hiệu của tuổi tác trong
thơ Mai Văn Phấn
“Nỗi u mê xõa tóc
Tiếng trẻ con bám vào răng lược
Chân tay chúng chạm nhau đánh lửa
Từ miệng đất đai hơi ấm tỏa lên”
(Đợi
mùa - Mai Văn Phấn)
Có thể
hình dung gương mặt người trẻ tuổi khi thời gian đi qua sẽ giống như một cánh
đồng khô nứt nẻ, mọc đầy cỏ dại tả tơi, không còn giá trị để khai thác. Những
rãnh sâu bị đào bới - vốn chẳng còn cơ hội được lấp đầy ngăn cách anh với những
ngày trẻ trung sôi nổi đầy nhiệt huyết. Gương mặt ấy “vốn là…. phần sống động
nhất, nhạy cảm nhất (trung khu của các giác quan) mà dù muốn dù không, ta để
cho người khác nhìn thấy, đó là cái “tôi” sâu kín đã bóc trần ra một phần, nói
lên rất nhiều so với phần còn lại của thân thể” [14, tr.572]. Hình ảnh ấy cứ
trở đi trở lại, khiến nhà thơ luôn phải nhắc nhở, sợ hãi:
“Sáng đâm chồi từng vệt
Tối đâm chồi từng vệt
Non tơ ngọn tóc
Hút cằn khổ đau
Đèn vụt lóe cắt không gian thành
thửa
Ánh sáng chạy thông bổn phận”
(Đối
thoại với thời gian - Mai Văn Phấn)
Khi những nếp nhăn xuất hiện cũng là
lúc con người có sự thay đổi địa vị khủng khiếp: từ buổi sáng trong lành thành
đêm tối tăm, từ vị vua quyền uy giàu có thành kẻ trắng tay, từ mùa xuân sức
sống sang mùa đông già cỗi. Bởi gương mặt kia đã bị rút hết máu, chẳng còn
nhiệt huyết sống, sinh lực. Thời gian tạo nên sự già nua.
“Trọn một kiếp người
Hoa uống cạn nước mắt với mồ hôi.
Chim có về bới tóc tôi mà làm tổ”
(Lời
người trồng hoa - Mai Văn Phấn)
Với tuổi trẻ, thời gian là một thách
thức, nhưng với tuổi già, nó trở thành kẻ thù – một kẻ thù đáng sợ. Bởi tuổi
trẻ, cho dù nhiều khi đồng nghĩa với bồng bột, non nớt nhưng tất cả mới chỉ bắt
đầu, cánh cửa vừa mở ra và cuộc hành trình vẫn hứa hẹn đầy bất ngờ. Ngược lại,
tuổi già có thể đi đôi với từng trải, minh triết nhưng đó là khi người ta phải
nghĩ tới sự khép lại. Họ, như vận động viên đến đoạn nước rút đã nhìn thấy
đích, chỉ có điều nó không phải cái đích vinh quang, hay đúng hơn, như người tử
tù trên con đường đến nơi thi hành án. Quỹ thời gian còn lại quá ngắn, họ bị
đẩy về phía trước trong niềm tiếc nuối sống vô bờ.
2.3. Thời gian
và kiếp người
2.3.1. Thời gian hiện
tại
Quan sát những quy luật tự nhiên, con người
tất yếu có nhu cầu tự nhận thức: mình là gì, là ai trong thế giới vô cùng.
Trước bước đi nhanh chóng của thời gian cùng sức tàn phá ghê gớm của nó, cả Mai
Văn Phấn và
Trương Đăng Dung đều có những giây phút nhận ra: thời gian và
cuộc đời con người trên trần thế thật ngắn ngủi vô chừng.
Trương Đăng Dung gọi cuộc đời là “kiếp
người ngắn ngủi”, kiếp người đã ngắn ngủi lại còn “lặng lẽ”. Nói như Mai Thị
Liên Giang về thơ Trương Đăng Dung “Đó là sự lặng lẽ của một tâm hồn, của một
con người nặng lòng với ký ức, nặng lòng với những duyên nợ nhân gian. Lặng lẽ để
chuẩn bị cho những đợt sóng ngầm dữ dội của dòng sông không biết trôi về đâu.
Lặng lẽ và kiếp người” [9, tr.242].
Thời gian của kiếp người ngắn ngủi
lặng lẽ bao trùm tất cả, bởi quá khứ quá lớn lao tỏa bóng, thống trị: “trôi theo mình lặng lẽ” (Trên đồi Vọng
Cảnh), “những dấu hỏi chạy trên đường/ lặng lẽ (Thành phố phía chân trời),
“từng khóm lá xanh đang lặng lẽ nép trong vườn” (Viết cho con), “em
tỏa sáng giữa đời anh lặng lẽ” (Có thể). Sau tất cả thời gian thật trôi nổi,
bất trắc, không có gì là ổn định, bền vững. Nhà thơ nhiều lúc hình dung mình
như con tàu đã khuất:
“Tàu đã khuất, con đường xa vô vọng
thi sĩ vẫn đi
mong kịp trình lên Thượng Đế
những lầm than kiếp người
rồi như một tráng sĩ
kiêu hãnh thẳng tiến về Định mệnh.”
(Tô
Thùy Yên - Trương Đăng Dung)
Diễn tả thời gian đời người, Trương
Đăng Dung sử dụng từ “kiếp người”. Từ “kiếp người” được lặp lại ở rất nhiều bài thơ là sự suy tư, đúc kết của
nhà thơ về kiếp sống. Nhưng Trương Đăng Dung chỉ nói đến kiếp này mà không hề
nhắc đến, không thấy hứa hẹn về kiếp sau. Nhà thơ chỉ mượn các khái niệm để bộc
lộ tâm tư mình còn thực chất, ông không có cái tâm an nhiên của người đạt đạo.
Về bản chất, cảm xúc ấy có lẽ xuất phát từ lòng yêu đời, yêu cuộc sống tha
thiết. Càng yêu cuộc đời, Trương Đăng Dung càng thấy khoảng thời gian sống của
người ta sao mà chóng vánh. Cho nên, nói đời như mộng, như chớp mắt không phải
để bừng tỉnh rồi quay lưng mà chính là sự thể hiện một khao khát sống dài hơn.
Giống như Trương Đăng Dung, Mai Văn
Phấn cũng không ngừng suy tư về cuộc đời. Ráo riết hơn, thực tế hơn, ông nhận
thấy con người sống giống như kẻ đi vay nặng lãi hay như một hạt giống của tự
nhiên, sống đời cây cỏ, sinh ra, trưởng thành và sẽ vĩnh viễn bị chôn vùi nếu
không ra hoa kết quả:
“Mùa hoa gom cả ánh ngày
Cho xanh hồn lá nhẹ bay về trời
Thấy mình là gió thoảng thôi
Còn
trăm năm giấu nụ cười trong hoa.”
(Hoa
Ngọc Trâm - Mai Văn Phấn)
Con người được Mai Văn Phấn miêu tả
giống như hoa hồng giữa mùa xuân. Nhưng tự nhiên tạo ra anh là để nhân giống
thêm lên, để có sự thu hoạch: khi anh chín rụng, sẽ có những chồi non mang dòng
máu của anh tiếp tục nảy nở, tô điểm cho thế gian này. Nếu anh lãng phí, không
tận dụng được tinh hoa của thời thanh xuân ngắn ngủi để tự nhân bản, anh không
những có lỗi với bản thân mà còn phụ tấm lòng của người mẹ đã sinh ra anh – tự
nhiên. Ý tưởng này được nhà thơ nuôi dưỡng và phát triển trong rất nhiều bài
thơ khác. Lại có khi, Mai Văn Phấn hình dung thời gian trên thế gian giống như
kẻ vay nặng lãi, số nợ tăng lên từng khoảnh khắc, ngày càng chồng chất và đến
lượt mình, anh phải sử dụng nguồn vốn ấy sao cho hiệu quả nhất đề không tự hại
mình. Thời gian đời người do đó lúc nào cũng gấp gáp:
“Đêm đầu mùa
Anh cuống quýt hôn em qua kẽ lá
Khi sương tan cành biêng biếc xanh.
Cô đơn tràn bãi trưa hanh
Mùa đi rung cây lá đổ
Phải dằn dữ và cũng mềm như gió
Gió từ biển xanh mang sắc của trời.
Bình minh lên chiếu sáng nửa đời
Còn nửa kia chìm vào bóng tối
Bao lối cỏ cứ xanh vội vội
Thấm lên bàn chân ai qua.”
(Màu
xanh - Mai Văn Phấn)
Theo Mai Văn Phấn, vẻ đẹp con người,
thời gian sống về bản chất không thuộc về họ, chúng chỉ là những của cải do vay
mượn mà có. Lóa mắt hay lầm tưởng về những thứ ấy, con người sẽ bị chôn vùi và
vĩnh viễn là kẻ trắng tay. Nhưng nếu khôn ngoan, họ phải biết tính toán, sử
dụng và nhất là làm nhân lên số tài sản này. Vừa là kẻ đi vay vừa là người đầu
tư, con người mải miết trong vòng quay của mình cho tới khi kết thúc. Luôn
luôn, Mai Văn Phấn nhắc nhở con người không quên điều ấy:
“Anh
nghiêng vào chiếc lá
Lá
bỗng đôm đốm vàng
Có
giọt sương lạnh giá
Rơi
xuống hồn anh đang
Lẫm
chẫm vào xốn xang
Cho
lòng mềm tơ lụa
Xin em
hong lên gió
Xem
sợi nào ngân nga.
Gieo
mình xuống phù sa
Bàng
hoàng nghe tách vỏ
Ủ chân
thật vào giữa
Chờ
mùa xuân nảy mầm.”
(Chân thật - Mai Văn Phấn)
Thái
độ ấy phản ánh mối quan tâm lớn của Mai Văn Phấn đối với cuộc đời. Người đọc
luôn thấy có sự đối lập giữa cái vô cùng với cái hữu hạn, cái nhỏ nhoi yếu ớt
với sức mạnh vô biên, cái nhất thời với cái bất tử qua cảm nhận thời gian của
hai thi sĩ, mà tâm điểm của sự đối lập ấy chính là cuộc sống con người - thời
gian vô cùng tận.
2.3.2. Khoảnh khắc thời gian
Trương Đăng Dung trong lời phát biểu tại Lễ trao giải thưởng của hội Nhà văn Hà Nội
2011 đã thừa nhận rằng“Các nhà
phê bình đã chỉ ra rất đúng về bản chất của cảm thức cô đơn, thời gian và cái
chết trong tập thơ Những kỉ niệm tưởng tượng. Quả thực, tôi đã trao cho motip
khoảnh khắc một ý nghĩa quan trọng để từ đó thể hiện cảm thức thời gian trong
tương quan với sự cô đơn và cái hữu hạn của kiếp người. Một khoảnh khắc có thể
lóe lên điều gì đó trong đời sống hiện đại, nó ẩn giấu ý nghĩa và hạnh phúc của
cả cuộc đời để rồi sẽ mất đi vĩnh viễn. Và khoảnh khắc cũng chỉ là một trong những
hình thức của sự cô đơn, bởi vì ở thời hiện tại tâm hồn không chỉ cô đơn trong
không gian mà cô đơn cả trong thời gian” [9, tr.508]. Sự cảm thụ thời gian
trong thơ chính là mối rung động của nhà thơ trước cuộc đời và ý nghĩa chung của
đời sống nhân sinh. Nhà thơ càng nặng cõi đời thì sự quan tâm trước mọi thời khắc
càng trở nên mãnh liệt.
Thời gian đời người ngắn ngủi, cho
nên với cả hai nhà thơ, thời gian hiện tại chỉ là một khoảnh khắc. Nếu thời
gian cuộc đời mang tính chất suy tư chiêm nghiệm thì thời gian hiện tại gần với
hiện thực hơn, mang nhiều yếu tố trực quan, tức thời. Chính vì tức thời nên đôi
khi nó mang tính ranh giới. Khi nhà thơ nói “bây giờ”, ta hiểu rằng cái “bây
giờ” ấy khác với cái trước đây, và sẽ khác cái sau này. Trương Đăng Dung “tự
bạch” “tôi không mang đến điều gì mới lạ, giữa quá khứ và tương lai tôi chỉ là
đứa trẻ biết già”. Chớp bắt những khoảnh khắc thánh thiện của đời sống thường
nhật Mai Văn Phấn không lãng phí ngôn từ
hình ảnh, những ẩn dụ của ông thường sâu sắc và chính xác.
“Chúng mình hôn nhau trong hành lang
hẹp
trên cỏ xanh, trong những góc tối
trên tháp chuông, bên gốc cây cổ
thụ...
Bốn bề nước tràn ướt chân
lúc ấy gió thổi rất mạnh
con sâu đo em đu lên người anh
thì thầm gặm hết những xanh non
Con ong vẫn nhởn nhơ bay
thác đổ đều đều, mưa rơi rất chậm
nhưng tất cả ngọn cây đều bạt về một
phía.”
(Gió
thổi - Mai Văn Phấn)
Cho nên bản thân khái niệm “hiện
tại” cũng lại mang tính tương đối. Có thể hình dung đó là những thời khắc mà
hai nhà thơ trải qua. Họ đều là những con người âu lo, luôn trân trọng từng
giây phút sống. Cả Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn đều đặt ra vấn đề: những điều
có ý nghĩa ở giây phút này sẽ trở nên vô nghĩa ngay lúc sau.
Với Trương Đăng Dung “Cô đơn, khát vọng, và khoảnh khắc trong thơ hiện đại” góp mặt trong tập
thơ Em là nơi anh tị nạn là một xác chứng, khi ông
cho rằng: “Thi sĩ hiện đại nắm bắt khoảnh khắc như nắm bắt mùi hương thoảng
qua. Trong các nền văn học xưa, ý nghĩa của cái khoảnh khắc này còn xa lạ, vì
các nền văn học tôn giáo chỉ biết đến những giá trị ổn định. Trong thơ hiện đại,
khoảnh khắc là một trong những hình thức xuất hiện của nỗi cô đơn, giống như
khát vọng vậy. Bởi vì, người hiện đại không chỉ cô đơn trong không gian mà còn
cô đơn cả trong thời gian” [10, tr.81, 82]:
“Sợ bóng tối sẽ tràn vào
khi em mở tung cửa sổ
cơ thể chúng ta thôi rạng rỡ.
Sợ thời gian rình trong từng sợi tóc
khi môi ta rời nhau
hơi ấm đã thuộc về quá khứ.”
(Vật
chứng - Trương Đăng Dung)
Còn Mai Văn Phấn chỉ muốn “bảo lưu”
tất cả những khoảnh khắc, dáng nét đời thường ấy trong vẻ đẹp giản đơn, trong
trẻo và tự nhiên nhất. Nhận thấy khá rõ trong thơ Mai Văn Phấn chân dung cái
tôi chủ thể đằng sau bức tranh đời sống ấy. Đấy là cái tôi chủ yếu biểu hiện
qua các hành động nhận biết thể chất trực tiếp. Chẳng hạn, bằng tay: kê chậu đỗ
quyên, nhặt được/ chiếc tất trẻ con,cầm ngọn nến/ soi về phía biển, ngắt ngọn
cỏ khô, bẻ củi khô…; bằng chân: Tôi kiễng chân, dấn bước/ lặn sâu vào ánh sáng,
tôi vừa đi vừa đếm/ bước chân… ; bằng miệng:miệng còn ngậm cà phê; cắn từng
miếng, cắn dọc/rồi cắn ngang, uống một nửa/ chờ gió…; bằng tai: Nghe tiếng
sóng, nghe gió/ miết từng đợt…; bằng mắt: Mải nhìn mưa phùn, mải nhìn cành ổi/
tụ quả, nhìn lên đồi/ cây táo bắt đầu ra nụ… Giác quan thể chất bén nhạy cho
phép cái tôi nhà thơ có thể thụ cảm đời sống một cách hết sức nhanh chóng, mãnh
liệt và tinh tế. Điều ấy giải thích vì sao đời sống luôn được tái hiện tươi tắn
và giàu cảm giác đến thế trong thơ Mai Văn Phấn. Mặt khác, cũng bởi đấy còn là
cái tôi hết sức nhạy cảm với Cái đẹp, nhất là Cái đẹp của hiện tại, trong cuộc
sống đời thường, quanh mỗi chúng ta. Đặc biệt, cái tôi ấy luôn có ý thức tìm
kiếm và hướng đến những khoảnh khắc mà ở đó con người tồn tại trong sự cảm
thông, hòa hợp sâu sắc với thiên nhiên, với mọi biểu hiện trần tục mà tinh khôi
nhất và ở đó, cái hiện tại, cái nhất thời cũng đồng thời đánh thức xúc cảm
hướng về cái Vô cùng, cái Vĩnh cửu.
“Câu ca làm khổ người ta
Em bây giờ hát bài ca khác rồi
Lại đây gió của ta ơi
Thổi làm chi mãi những lời thở than
Để ta bới nỗi đêm tàn
Tìm trong đất tiếng ngày sang thầm
thì”
(Tiếng
gọi từ những cánh đồng - Mai Văn Phấn)
Số phận con người luôn
là niềm băn khoăn trăn trở xuyên suốt các sáng tác của Trương Đăng Dung và Mai
Văn Phấn. Không chỉ đặt con người trước cơn gió thời đại hay trong các mối quan
hệ xã hội, cả hai nhà thơ đều thấy ở họ sự mong manh chẳng khác gì một chấm nhỏ
trên dòng xoáy lốc thời gian. Gióng lên hồi chuông cảnh báo, hai thi sĩ nhắc
nhở ta dừng một phút để tự nhìn lại, tự xác định vị trí của mình trong đời
sống.
Ý thức
về thời gian cũng được nhà triết học Heraclite nói một cách hình ảnh: “Không ai
có thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông”. G. Loris – một nhà tiểu thuyết kị
sĩ thời trung cổ trong cuốn Tiểu thuyết
về hoa hồng, bằng một sự nhạy cảm đặc biệt đã viết: “... nó vận động ngày
và đêm, không ngừng không nghỉ, nó chạy nhưng ta không thấy nó chạy, tưởng như
là nó không vận động tí nào cả, nhưng thực ra nó không ngừng giây lát nào cả. Và nó chạy liên miên đến nỗi không thể nào hiểu được thế
nào là giây lát hiện tại, hỏi các vị học giả tu sĩ họ cũng chịu thôi; bởi vì
chưa kịp nghĩ về giây lát thì đã mất ba lần thời gian rồi. Thời gian luôn chạy,
không thể nào ngừng, không quay trở lại được cũng giống như nước nhỏ từng giọt,
từng giọt sẽ nhỏ mãi. Thời gian, chẳng có thể trụ lại được nó, sắt cũng vậy, sự
vật nào cứng rắn nhất cũng chịu thôi, bởi vì nó ăn mòn, xói mòn tất cả, thời
gian làm cho mọi sự vật biến đổi, nuôi lớn tất cả làm cho mọi sự vật hao mòn và
diệt vong. Thời gian làm cho cha ông ta, làm cho các vị vua, các hoàng đế già
đi, thời gian cũng sẽ làm cho tất cả chúng ta sẽ già nếu như tử thần không sớm
đến lôi chúng ta đi” [18, tr.141]. Các vấn đề vừa được nhắc đến trên đây thực
ra là những vấn đề muôn thuở trong đời sống con người. Không chỉ có Trương Đăng
Dung và Mai Văn Phấn, từ xa xưa, đứng trước vũ trụ mênh mông, thấy thời gian
chảy trôi vô cùng, Trần Tử Ngang từng cảm khái:
“Tiền bất kiến cổ nhân
Hậu bất kiến lai giả
Niệm
thiên địa chi du du
Độc
thương nhiên nhi lệ hạ”
(Ai
người trước đã qua)
Đến
Thơ Mới, nỗi ám ảnh thời gian thể hiện rõ qua thơ Xuân Diệu:
“Già sẽ đến giơ tay xua ánh sáng
Đuổi bướm chim làm sợ cả hoa hương
Và dần dà càng rõ rệt bộ xương
Mà bạn hữu sẽ đặt nằm dưới đất”
(Thanh
niên)
Cũng như Xuân Quỳnh:
“Em đâu dám nghĩ là vĩnh viễn
Hôm nay yêu mai có thể xa rồi’
Niềm đau đớn tưởng như vô tận
Bỗng có ngày thay thế một niềm vui”
(Nói
cùng anh)
Thời gian vẫn là nỗi ám ảnh, là niềm
lo âu khắc khoải, bởi con người dù sống ở thời đại nào cũng đều khao khát thấu
hiểu mối quan hệ giữa bản thân với thế giới, rồi khi hiểu ra, họ đều nhận thấy
sự nhỏ bé của mình trong trời đất vô cùng. Ở Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn,
thời gian đã thực sự hiện hữu thành một chủ đề lớn. Ý thức về thời gian thể
hiện một con người cá nhân đang cựa quậy, không còn bằng lòng, tìm cách thích
ứng với những quy chuẩn có sẵn mà đang oằn mình trong dự cảm đổi thay, tự tách
mình ra khỏi thế giới để mà chiêm nghiệm, suy ngẫm, ngắm nghía. Sự gặp gỡ của
họ có thể xem như sự gặp gỡ của hai trái tim lớn, không chấp nhận dừng lại ở
thời đại mình mà đã cất lên tiếng kêu than cho con người mọi thời đại.
Chương 3
DẤU ẤN RIÊNG TRONG THƠ
TRƯƠNG ĐĂNG DUNG VÀ
MAI VĂN PHẤN VỀ CẢM THỨC
THỜI GIAN
Những con sóng dù nhỏ to, thuộc đại
dương nào vẫn khôn nguôi khao khát vỗ bờ, thơ Mai Văn Phấn và thơ Trương Đăng
Dung đều khắc khoải trong nỗi ám ảnh trước thời gian chảy trôi, sức tàn phá của
nó, trước nỗi buồn thân phận người mong manh nhỏ bé. Nhưng dù trộn lẫn cả vầng
trăng u huyền phương Đông và vầng mặt trời rực rỡ phương Tây, trong cách cảm
nhận thời gian, hai nhà thơ vẫn có sự khác biệt. Sự khác biệt ấy thể hiện ở hai
hình thái thời gian, ở dấu ấn xử sự với thời gian và hai phương thức thể hiện
thời gian.
3.1. Hình thái
thời gian
Về bản chất, thời gian trong thơ Trương
Đăng Dung và thơ Mai Văn Phấn có sự phân biệt rõ thời gian thực tế với cảm thức
thời gian của con người. Thời gian thực tế mang hai đặc tính: sự chảy trôi
nhanh chóng không ngừng và tính tuần hoàn theo một vòng quay, chu kì. Trương
Đăng Dung miêu tả bốn mùa đắp đổi, ngày tháng tiếp nối để cho thấy quy luật
không thể nào hoán cải. Trương Đăng Dung sống luôn mang theo quá khứ, tựa vào quá khứ, với những kỷ niệm lúc thật
lúc ảo.
“Bao năm rồi anh tìm em
trong những bình minh không có mặt
trời
trong những lâu đài chỉ có cánh dơi
trong những giấc mơ
không đầu không cuối.”
(Ảo
ảnh)
Mai Văn Phấn cũng nhìn thấy vòng
quay ấy đang diễn ra từng ngày, thậm chí từng giây từng phút nhưng luôn tựa vào
“ngữ nghĩa của đất mở”:
“Căng ngang trời cánh chim
cho ngữ nghĩa trị vì mặt đất
nơi mặt gió gặp đỉnh đồi cúi gục
hang tối phà bí ẩn với sương mai
ao chuôm tìm hướng lên trời
dòng sông vừa chảy
vừa sinh nở”
(Đất
mở)
Điều này phản ánh sự nhận thức của
mỗi tác giả về chu trình tự nhiên diễn ra xung quanh. Nhưng trên cái nền chung
ấy, mỗi nhà thơ lại chọn cho mình một đặc điểm để khắc sâu, tô đậm. Giống như
cùng quan sát bầu trời, có họa sĩ chỉ thấy những đám mây ngũ sắc của một ngày
đẹp đẽ, có người lại chỉ quan tâm đến những cánh chim lạc đàn bay cô đơn, Mai
Văn Phấn và Trương Đăng đã dựng lên những khuôn mặt khác nhau của thời gian, đó
đồng thời là tấm gương phản chiếu đặc điểm thời đại cũng như cá tính mỗi thi
nhân.
3.1.1. Thời gian tưởng tượng trong thơ Trương Đăng Dung
Thời gian là dấu
hiệu của tàn phai và rơi rụng. Thời gian là sự tuôn chảy “một đi không trở lại”.
Chính ý thức về thời gian một chiều chứ không phải tuần hoàn, thời gian định hướng
chứ không phải định tính, đã tạo nên cái nhìn nghệ thuật trong toàn bộ sáng tác
của ông. Thời gian với những bước chuyển động tàn nhẫn, đối lập với thời gian của
một kiếp người.
Thời gian vô hồi
vô tận nhưng cuộc đời con người lại hữu hạn, vô cùng ngắn ngủi. Thời gian trong thơ Trương Đăng Dung
nhìn chung mang bộ mặt thuần nhất, không phức tạp, mâu thuẫn. Đó là gương mặt
buồn, ở cuối cuộc hành trình của nó. Nhìn vòng quay vô tận của thời gian, Trương
Đăng Dung ít lưu tâm đến điểm khởi đầu mà thường chỉ chú mục vào phần kết thúc.
Trong bắt đầu đã thấy trước viễn cảnh của sự kết thúc. Thơ ông do đó không miêu
tả sự vật ở thời khắc huy hoàng rực rỡ hay hứa hẹn phát triển mà đặc biệt nhạy
cảm luôn nhìn hoài về quá khứ, day dứt, đau đáu hoài niệm. Thời khắc huy hoàng
nhất là thời khắc đã qua trong quá khứ, với những biến cố trong lịch sử, trong
tư tưởng. Ông từng bộc bạch:
“Tôi có tác phẩm đầu tiên là tiếng
khóc chào đời sau chín tháng ngồi im tập xếp hình dấu hỏi/ Tôi không mang đến
điều gì mới lạ, giữa quá khứ và tương lai tôi chỉ là đứa trẻ biết già” (Tự bạch)
Trương Đăng Dung như đang kể về cuộc
đời mình với giọng điệu triết lý, ông luôn băn khoăn tìm câu trả lời cho hành
trình cuộc đời khổ đau của con người. Nhưng ngẫm cho kỹ nếu nhà thơ không đặc
biệt quan tâm đến thời khắc ấy, nếu điểm kết thúc một ngày không tác động đến
mọi giác quan thì ông khó lòng đón nhận để đưa nó vào thơ được. Cũng như vậy, Trương
Đăng Dung chỉ thấy mùa đang tàn:
“Có những mùa hè không nắng
và mùa thu không trăng
thời gian đi trên những lối mòn
không thể thấy”
(Thành
phố phía chân trời)
Mùa trong thơ ông cũng thường được
miêu tả ở giai đoạn cuối, khi đã qua thời điểm sung mãn, trong kết thúc sẽ thấy
sinh sôi:
“Em ở lại
một lần nữa cùng anh giữa mùa trăng
sắp lụi
ta cùng nghe tiếng muôn loài hấp hối
tiếng côn trùng trong cát bụi sinh
sôi.”
(Ảo
ảnh)
Thời điểm kết thúc của một mùa, sự
chuyển giao giữa các mùa của năm cũng luôn khiến ông lưu tâm:
“Nếu mắt em khép lại
ảnh hình kia chỉ còn lại trong em
anh không còn thấy anh trong hiện
tại
chỉ thấy em với những hình những ảnh
của mùa hè đang qua
một góc vườn và mấy khóm hoa”
(Ảo
ảnh)
Không ngăn được việc tựa vào chiếc
đòn thời gian án ngự ở trước mặt mà ước ao:
“Anh muốn em là quá khứ để anh sống
bình yên trong hiện tại; anh muốn em là hiện tại để anh hy vọng vào tương lai;
anh muốn em là tương lai để ký ức anh tự do bừng sáng”
(Tin
nhắn cho em)
Trương Đăng Dung làm thơ khi tuổi đã
xế chiều, lúc đã đủ độ cảm thức về cuộc đời để đối diện với lẽ mất – còn, với
giới hạn của sự tồn tại. Thế nhưng, trong thơ ông lại luôn nhắc đến “những ngày
cuối”, phút cuối cuộc đời. Nói đến cuối ngày, Trương Đăng Dung không hứa hẹn
một buổi mai bình minh rực rỡ. Nhắc đến cuối mùa, ông cũng không hi vọng sự
khởi đầu của mùa sau. Miêu tả cuối năm, ông chẳng để dòng thơ mình vắt sang năm
mới. Và nhắc đến cuối đời, thi nhân tưởng tượng đến kiếp sau. Thời gian trong
thơ Trương Đăng Dung đi về phía tàn phai. Thơ ông hay miêu tả mùa thu, buổi
chiều, vốn là những thời gian gợi buồn, gợi sự tàn phai mất mát.
Trương
Đăng Dung rất hay nhắc đến mùa thu. Mùa thu trong thơ Trương Đăng Dung là hình
ảnh “mùa thu vừa lạ vừa quen” (Anh không thấy thời gian trôi), “mùa thu xao
xuyến” (ba mươi năm hay ba triệu năm rồi), “mùa thu không trăng” (Thành phố
phía chân trời), “mùa thu của ký ức” (hai chuyến tàu), “mùa thu ngày một ngắn
hơn” (một lần nữa (tặng vợ)…)… Mùa thu không chỉ báo hiệu hoàng hôn trong một
năm mà còn gắn liền với nỗi buồn về sự phai úa của đời người, một cuộc đời mông
lung, vô định như cỏ bồng, như gió thu chẳng biết đâu là chốn dừng chân. Tơi tả
trong mùa thu, xuất hiện ở những nơi từng ghi dấu bao chiến công oanh liệt của
những con người lẫy lừng một thưở, chúng tạo ấn tượng về sự đối lập giữa hiện
tại và quá khứ, giữa cái còn với cái mất, về một thời đã qua không bao giờ quay
trở lại, tính tất yếu của cuộc hành trình thời gian đi đến lụi tàn. Điều đặc
biệt trong các bài thơ mùa thu của Trương Đăng Dung là một mùa thu của ký ức,
mùa thu đi liền với cảm xúc. Là mùa thu với những đặc tính của nó định hướng
cảm xúc của Trương Đăng Dung hay chính nhà thơ là người đã gắn cảm xúc của mình
lên mùa thu, bắt nó mang tâm trạng của mình:
“Anh không thấy thời gian trôi
chỉ
thấy mùa thu vừa lạ vừa quen
những
gương mặt những nụ cười mới gặp
chưa
kịp thân đã thấy khác đi rồi.”
(Anh
không thấy thời gian trôi)
“Còn đây gương mặt của con người
Nhàu
nát mưu sinh và hy vọng
Thăm
thẳm trời cao đất rộng
Ba
mươi năm hay ba triệu năm rồi
Xao
xuyến những mùa thu gió thổi...”
(Ba mươi năm hay ba triệu năm rồi)
Thời gian trong quan niệm của nhà thơ được tư duy ở nhiều
khía cạnh khác thời gian vật lí. Nếu trước đây thời gian tuyến tính từng chiếm
giữ vị trí độc tôn trong thơ ca kháng chiến, thơ ca cách mạng “đường thiên lí
càng đi càng rộng”, “những ngày tôi sống ở đây là đẹp nhất”, ...thì nay trong
thơ hậu hiện đại nói chung hay thơ Trương Đăng Dung nói riêng thời gian ấy đã bị
phá vỡ đứt nối và đảo lộn, nó gắn bó với cuộc sống hiện đại, mang hơi hướng của
con người hiện đại hôm nay. Thời gian không còn là dòng chảy một chiều hướng về
phía trước, mà nó còn là mối lo âu, trăn trở, do đó có sự đảo ngược, xáo trộn.
Thời gian nghệ thuật có thể quay về quá khứ, có thể bay vượt tới tương lai xa
xôi, và có thể kéo dài trong chốc lát thành vô tận.
Thời
gian tưởng tượng, đứt nối, đảo lộn gắn bó song hành cùng không gian đa chiều,
biến ảo làm nên diện mạo mới cho văn học. Kiểu thời gian ấy đã tạo nên hiệu ứng
về một xã hội mới trong thơ nhưng không nằm ngoài mục đích phản ánh con người
trong mối quan hệ với hiện thực đời sống. Trong những trang thơ của Trương Đăng
Dung, thời gian hiện lên không chỉ trong một thời điểm nhất định mà nó có sự
đan xen hòa quyện giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Điều đó cũng rất dễ hiểu bởi nhà thơ luôn
nghĩ con người ta sống không thể tách rời quá khứ “Dĩ vãng quanh ta rưng rưng sương khói”. Với dân tộc cũng
vậy “Lịch sử cùng cuộn chảy với
bao mạch ngầm tha thiết ngàn sau”... Cho nên, muốn có khả năng đi
tới không thể không trang bị cho mình khả năng nhìn lại. Trương Đăng Dung thể
hiện rất rõ cảm thức của mình về hoài niệm quá khứ:
“Tôi
không thể quên một ngày tháng Năm năm 1054
tôi với
anh đã nhìn thấy mặt trời
ngày ta
sinh là ngày đầu tiên ta nằm bệnh viện
các bác
sĩ hân hoan khi có trẻ ra đời
họ lấy nhau
của mẹ ta làm đồ nhắm rượu”
(Những kỷ niệm tưởng tượng)
Thời
gian 1054 chính là thời gian tưởng tượng, đứng ở thời điểm hiện tại nhưng nhà
thơ luôn hoài niệm về một thời quá khứ vàng son đã qua. Thời khắc đó đã qua từ
rất lâu nhưng nó vẫn hằn sâu “đóng đinh vào kí ức”. Với Trương Đăng Dung, thời
gian hoài niệm về quá khứ luôn là khoảnh khắc tâm tưởng có sức cuốn hút tác giả
mạnh mẽ. Những hồi ức ấy được bắt đầu từ thời điểm hiện tại, xuất hiện khi tác
giả chiêm nghiệm, suy ngẫm hay bắt gặp một sự vật, hiện tượng nào đó trước mắt,
hoặc thậm chí nó có mặt trong cảm xúc suy nghĩ miên man, vô định:
“Hôm
nay con học đi
ông
hàng xóm chống gậy ra vườn lê từng bước nặng nề
hôm
nay con học nói
bà
hàng xóm thều thào với chồng về một miền quê thời tuổi trẻ.
Mai
ngày con lớn lên
bố
không biết những điều con sẽ nghĩ
bố
không biết những con voi còn chết cóng phía trời xa
bố
không biết những đàn chim còn bay về xứ nóng?...
bố chỉ
mong trái tim con đừng bao giờ lạc lõng
trước
mọi vui buồn bất hạnh của thời con”
(Viết cho con)
Thời gian
“kiếp người” cũng là tuyến thời gian được Trương Đăng Dung đưa vào trong thơ
với tần suất khá lớn. Kiếp người chỉ trôi qua trong chớp mắt hoặc dài lê thê,
thân thể trải qua mọi khổ đau trần đời để rồi tác giả mong đợi “rồi sẽ qua
nhanh kiếp người ngắn ngủi” (Ảo ảnh).
Kiếp
người là lặng lẽ, khổ đau, ai oán, “có gì mới hơn sau mỗi kiếp người?” là băn
khoăn, day dứt mà tác giả dành cả cuộc đời chiêm nghiệm:
“Có gì
mới hơn sau mỗi kiếp người?
con hỏi
bố,
thấy một
người già lặng lẽ đứng nhìn con”
(Giấc mơ của con)
Thời gian
tưởng tượng trong thơ Trương Đăng Dung có khi còn được mặc định bằng sự tưởng
tượng. Sự tưởng tượng gắn với những sự vật, hiện tượng khác nhau mà đặc biệt
hơn cả là sự tưởng tượng gắn với sự chiêm nghiệm quá khứ trong cái nhìn của
hiện tại tới tương lai của sự kết thúc:
“Tôi chạy
trên cánh đồng bỏ hoang
những
người khiếm thị ôm súng đuổi theo
những
người khiếm thính cầm loa đuổi theo.
Tôi chạy
trên đại lộ không người
những
chiếc xe lăn chất đầy chân giả đuổi theo
những
chiếc xe nôi chứa đầy nước mắt đuổi theo.
tất cả áp
sát tôi
tôi nói,
họ không hiểu
họ nói,
tôi không hiểu”
(Ác mộng)
Thời gian
tưởng tượng không theo một trật tự nào mà đứt nối, đảo lộn đã tạo nên hiệu ứng
về một xã hội mới, nhưng không nằm ngoài mục đích phản ánh con người trong mối
quan hệ với hiện thực đời sống. Kiểu thời gian này đã làm nên đặc trưng riêng,
khó lẫn lộn, đậm chất Trương Đăng Dung.
3.1.2. Vòng cung thời gian trong thơ Mai Văn Phấn
Khác
với Trương Đăng Dung, Mai Văn Phấn nhìn sự vật, hiện tượng và con người ở điểm
khởi đầu rực rỡ của nó. Ông
thường quan sát và ghi lại thời khắc tươi sáng, đầy sức thu hút của vạn vật.
Đến với thơ Mai Văn Phấn, ta sẽ bắt gặp những bình minh - khởi đầu
một ngày đầy hy vọng:
“Bàn tay lần vén sương mù
Gọi nghe vọng vào tít tắp
Tim ta đốt lửa nguyên sơ
Cho tóc sáng thành ngọn đuốc.”
(Trường
ca – Người cùng thời)
Người
đọc hình dung ra một không gian tràn đầy màu sắc và ánh sáng, được bao phủ bởi
ánh vàng kỳ diệu, có sức hấp dẫn, lan tỏa. Nhưng bình minh ấy, mang theo cả dấu ấn của
quá khứ:
“Ngỡ
chiến tranh về theo sau lưng mình
Phòng lạnh cơ quan thoảng mùi thuốc súng
Nọc độc chạy trong công văn, dây điện thoại,
bò cả vào vi-tính...
Những
dại khờ mắc bẫy dưới bình minh”
(Trường ca – Người cùng thời)
Miêu tả thiên nhiên, Mai Văn Phấn
cũng làm bật lên vẻ đẹp của thiên nhiên mang trong đó hy vọng sống, làm chủ
thời gian của con người. Những vần thơ của Mai Văn Phấn xôn xao trìu mến cuộc
đời. Ông nhìn con người như một mầm non mang trong mình cả quá khứ, tương lai:
“Khoảnh khắc ấy anh thành hạt giống
Bật phôi rễ và trổ lá mầm
Để trái chín, rượu ngon được cất
Và trứng chim được ủ ấm qua đêm
Anh giữ mãi tưởng tượng này đến
sáng.”
(Tỉnh
dậy trong mưa)
Sự vật trẻ trung, mới mẻ ấy mang
trong mình nhịp chảy của thời gian không phải chỉ có một chiều và càng không
vĩnh viễn. Mai Văn Phấn thấy ở sự vật tính hai mặt của nó. Ngay trong khi bình
minh, ông đã hình dung ra buổi hoàng hôn, ngay khi con người còn đang trong
hiện tại, đã thấy cả tương lai đang đến: “Giấc mơ ấy vẫn còn dang dở/ Chợt rộ
lên từng đợt lá non” (Tỉnh dậy trong mưa), “Từ hốc đen tra hạt/ Đọt mầm bật dậy/ Chim bay” (Tỉnh
dậy trong mưa).
Nhà thơ luôn thấy hai quá trình song
song: đứa con lớn lên nghĩa là người cha già đi, một sản phẩm mới ra đời nghĩa
là có cái khác đang cũ mòn, tàn tạ song song với những khởi phát, sinh sôi: “Vô tình hạt rụng trên đường/ Trỗi dậy bạt ngàn cây lá.” (Tỉnh
dậy trong mưa)
Tình
yêu luôn rất trẻ, không phải theo nghĩa đen mà trong tâm hồn con người, cần sự
chân thành, trung thực, nếu gian dối thì tình yêu sẽ biến mất, biển, đất sâu,
cội rễ cũng biến mất:
“Em bảo dẫu bằng trái
táo
Nếu gian dối biển sẽ dìm
anh chết.”
(Tỉnh dậy trong mưa)
Tuy nhiên, điều kì diệu của tình yêu
là ở khả năng tái sinh. Trong tình yêu, Mai văn Phấn cũng nhìn thấy tính hai
mặt: sự nồng nhiệt thiết tha đi bên cái nhạt nhẽo chán nản, sự sôi nổi bồng bột
đi cùng nguy cơ tắt nguội, ông luôn tìm thấy một nụ hoa, một ánh sáng trong
chuỗi thời gian của quá khứ, của tương lai đang đến:
“Luồng sáng mỏng trên con đường lát đá kia là cánh cửa
sâu hút mở ta vào kiếp trước.
Kiếp
trước em và anh là đôi rắn nước trườn qua bụi cỏ xuống hồ, bơi sóng đôi mềm mại.
Là thủy triều cuốn vào chân núi, qua ngàn năm mới để lại vết hằn. Là đôi khủng long lồng lộn trong sa
mạc nóng. Đôi đại bàng rơi tự do giao phối trên không. Hai gốc cây bện chặt khi
giông bão. Sấm sét đánh xẹp đỉnh núi để lại vết bỏng hoàng hôn …
Kìa cỗ
xe mùa thu đang đến. Tiếng nghiến của bánh xích trên ngọn cây gió rít. Cuồn cuộn
tầng lá rụng.
Anh
thót ngực giữ một trái phá, giọt nước, một nụ hoa trên con đường lát đá có ánh
sáng.”
(Buông tay cho trời rạng)
Hay: “Mỗi ngày anh được hồi sinh từ vòm lá, chập chững, biết lo toan, để sớm mai
bắt đầu một đời sống khác. Biết bao lần anh hạc gày khắc khổ, rồi sum suê bên
cây. Là đứa trẻ mải chơi bóng mát, mỗi vui buồn anh lại ngước lên.” (Giấc mơ cây)
Nếu thời gian trong thơ Trương Đăng
Dung mang bộ mặt ảm đạm, già cỗi thì ngược lại, gương mặt thời gian trong thơ Mai
Văn Phấn rất trẻ trung, cường tráng. Thời gian không lặng lẽ, ủ dột mà rất rộn
rã, mạnh mẽ thực hiện nhiệm vụ trên mỗi bước đường nó đi qua. Với Mai Văn Phấn,
thời gian là kẻ cho vay nặng lãi, đôi khi rất hào phóng, thứ nó cho vay chính
là xuân sắc, tuổi trẻ cùng nhựa sống căng tràn. Tất nhiên, như một “nhà đầu tư”
đầy tính toán, nó luôn luôn tính đến khoản lãi suất mà các con nợ sẽ bồi hoàn
khi hết thời hạn, đó là muôn vạn mầm sống, nòi giống tốt sinh sôi nảy nở. Bởi
tính thương mại này, khi cho vay, thời gian rộng rãi, hào phóng bao nhiêu thì
khi đòi nợ, nó khắc nghiệt, lạnh lẽo, vô tình bấy nhiêu, không cho ai một cơ
hội để gỡ lại. Đặc biệt, với những ai đã tiêu phí toàn bộ vốn liếng được thời
gian tạm thời cấp cho mà không tạo ra thêm được gì, số phận của họ thật thảm
hại. Trong trí tưởng tượng của thi nhân thời gian còn là người đi gieo hạt và
cũng đồng thời là ông chủ với lưỡi hái sắc trong tay, thu hoạch mùa màng. Những
bông hoa tươi thắm, những cây trái xum xuê, những con người bằng xương bằng
thịt mang trong mình dòng máu nóng… đều sống, sinh trưởng dưới cùng một bầu
trời, bị chi phối bởi cùng những điều kiện như nhau. Để rồi đến một ngày, dẫu
ra hoa kết quả hay đơn độc tàn héo, chúng đều bị đưa lên chiếc xe tang theo bóng
thời gian. Quá trình ấy diễn ra một cách hết sức tự nhiên và không gì đẩy lùi
được nó. Như một tên bạo chúa đầy quyền uy, thời gian trong thơ Mai Văn Phấn vừa
đóng vai trò là người sáng tạo vĩ đại đồng thời cũng chính là kẻ hủy diệt tàn
bạo, khát máu nhất. Thời gian, bằng công việc hết sức công phu, nhẫn nại đã tạo
ra những đôi mắt đẹp, những sinh vật rực rỡ tô điểm cho thế gian, những công
trình kiến trúc tưởng đứng vững đến muôn đời… Thế rồi cũng chính nó lại ra tay
hủy hoại không thương tiếc kho báu của mình để thay thế chúng bằng cái khác.
Thời gian thúc đẩy, tạo điều kiện cho bệnh thối mục trong hoa có dịp hoành
hành, nhấn chìm mọi tòa tháp, đánh đổ bất cứ chiếc cổng nào dù vững chắc nhất,
đào rãnh sâu, khắc vết nhăn trên vầng trán, khuôn mặt người… để rồi sẽ vây phủ
tất cả bằng cái chết. Khi tô điểm cho cái này, nó đang bào mòn tàn phá cái kia.
Khi nhìn một nụ hoa chớm nở xinh tươi là ta biết một (hay nhiều) nụ hoa khác
đang tàn úa. Không chỉ có thời gian, mọi vật đều được Mai Văn Phấn nhìn nhận
trong tính tương đối của nó, không chỉ có một mặt, bên trong chúng luôn có
những khía cạnh đối lập đấu tranh với nhau, ông bày tỏ:
“Một
ngày ánh sáng rút đi, mọi vật quanh ta chỉ là bóng tối. Cánh đồng tối
ôm giống lúa tối. Thuỷ triều tối cuốn đàn cá tối. Giọng đơn ca tối
trên nền nhạc tối. Lớp học tối nhầm lẫn giáo trình tối. Hồ sơ tối giấu
kho tài liệu tối. Đại lộ tối đổ về quảng trường tối. Cuộc diễu binh tối
phô trương vũ khí tối. Bàn tay tối buông con bồ câu tối... Vậy từ nay
tôi tiết kiệm và tàng trữ ánh sáng, gom nhặt và đầu cơ ánh sáng,
tích luỹ và khúc xạ ánh sáng, nâng niu và giành giật ánh sáng,
tôn kính và giấu bớt ánh sáng, yêu thương và ăn cắp ánh sáng, thanh sạch và
vươn trong ánh sáng...”
(Quang phổ)
Mai Thị Liên Giang đã
từng nhận xét “Cảm thức thời gian trong thơ Mai Văn Phấn có sự chuyển biến từ
thời gian đơn tuyến, không gian hình học phẳng sang thời gian đa tuyến tính,
không gian đa chiều qua các giai đoạn sáng tác” [27]. Quả thật đúng như vậy, Thơ Mai Văn Phấn có sự hòa
hợp với mọi sự biến chuyển của thời gian, thích ứng và chủ động đón đợi, bình
tĩnh, cảm nghiệm, trải nghiệm trong mọi cung bậc cảm xúc. Nhà thơ không sợ hãi
trốn chạy khỏi thời gian, càng không day dứt, tiếc nuối. Thi sĩ thấy rõ mình
đang hành xử đúng mực, đối thoại và chiếm lĩnh nó:
“Níu thời gian cong. Bốn mùa đổ từng
khoảnh khắc. Sóng nước dâng cao nơi vàng rực hoa quỳ. Lãng đãng con thuyền ngõ
vắng. Tiếng gọi mơ hồ dâng ngọn tháp vút cao. Vài gương mặt trôi đi làm nhầm lẫn
cảm quan, ý nghĩ, nhầm lẫn thứ tự trang sách, rối tung tàn tro và đám cỏ gai.
Những điều vô tình bất ngờ hé lộ.
Bất ngờ dưới vòng cung thời gian, em và anh gồng mình chống đỡ, những mũi
tên độc bị chặn lại trong vòm trời rách toạc. Tâm bão cách chúng ta chỉ một tầm
nhìn. Áp tai vào vách lũ bình yên.
Từ một điểm bất kỳ tới chỗ con mèo chơi với miếng giẻ lau là đường chân trời.
Mặt đất đang dần co lại. Vòm thời gian cong quá sẽ vỡ. Hơi thở thác nước dựng
em chất ngất, mát khôn nguôi.
Chạm âm thanh em, môi anh vỡ trăm ngàn quả chuông khác nữa. Không gian mở
ra những nếp gấp rộng thênh.
Con chim xoải cánh trong mưa, không ảo giác lao đầu xuống nước.
Nơi mũi tên rơi, mặt đất rung lên đẩy ta tới một đích khác.”
(Vòng cung thời gian)
Thấu cảm với vẻ đẹp của thời gian cũng như sự vô tình, độc lập của thời
gian nên Mai Văn Phấn đã chơi với nó như những người bạn với nhiều cung bậc cảm
xúc, nhiều biến ảo sắc thái thú vị qua mùa màng, năm tháng biến đổi. Thời gian trong
thơ ông thường xuất hiện với đa dạng hình tướng, có hình thù cụ thể, có cảm
xúc, lúc yêu thương vỗ về, lúc giận hờn vô cớ đột ngột ra đi, lúc trở về nũng nịu
êm ái như trẻ thơ, lúc đỏng đảnh, đam mê, ham muốn như thiếu nữ dậy thì đang yêu, lúc lãng mạn
sướt mướt qua những khu vườn, khoảng không, vũ trụ bao la; lúc trở về với màu sắc
sặc sỡ, thơm tho, đầy hấp dẫn, đầy thân thương của tuổi thơ qua hình ảnh quả hồng,
quả na chín trên bàn thờ tổ tiên…Ấn tượng đầu tiên với người đọc là cảm thức về
thời gian tuần hoàn theo mùa, đầy ắp trong thơ Mai Văn Phấn.
“Hóa thân giọt nước mùa hè
Một đêm trở gió bay về với thu
Dẫu chưa trọn kiếp sương mù
Xin tan loãng kẻo trăng lu cuối trời
Bao lần xanh biếc rong chơi
Mấy lần úa rụng tiếng người vọng theo
Thôi em! Ðừng vặn! Ðừng khêu!
Ðáy thu thắp sáng trên nhiều ngọn cây.
Anh vừa đọng xuống thu gày
Ðã đông thành đá phủ đầy rêu xanh.”
(Khúc cảm mùa thu)
Mai Văn Phấn tận hiến với tất cả các mùa, dừng chân hầu hết với các điểm
thú vị, khoảnh khắc chớp nhoáng của tất cả mọi dạng kiểu thời gian. Tất cả mọi
sắc thái biến chuyển có khi chậm chạp nặng nề, có khi đột ngột dữ dội, có khi
âm thầm tha thiết, có khi đỏng đảnh kiêu kì, có khi ngây thơ hồn nhiên ríu rít
như đứa trẻ, có khi lạnh lùng kinh hãi đều được ông đem vào trong thơ và tái hiện
một cách chân thật nhất.
“Nỗi niềm đem thả trong cây
Qua sương giá đến rạng ngày trổ hoa.
Lỡ vin vào bóng mây qua
Lỡ nghe đắm đuối tiếng ma gọi đò.
Ðầu kim tựa có ai chờ
Khâu ta vào với ỡm ờ xửa xưa.
Hoa ngâu vừa lịm cuối chùa
Nhẩn nha tiếng mõ bỏ bùa tiếng chuông.”
(Gom nhặt cuối mùa)
Mai Thị Liên Giang đã có những nhận xét đúng về vấn đề vòng cung thời gian
trong thơ Mai Văn Phấn “Ông đã chơi với thời gian, xóa nhòa ranh giới giữa các
mùa, xóa nhòa ranh giới thời gian và con người bằng sự nhạy cảm lãng mạn, khắc
khoải về sự thay đổi của cuộc sống trong xúc cảm thi sĩ. Có thể đây là thi giới
nghệ thuật, còn phần riêng trong đời sống thực của nhà thơ có thể khác, nhưng
Mai Văn Phấn đã diễn đạt được vòng quay về thời gian sống của con người bằng
nghệ thuật ngôn từ. Ông lặn sâu vào thời gian, lúc thì đứng trong thời gian,
khi thì đứng ngoài/ trên thời gian để quan sát, chiêm nghiệm, thưởng thức, chơi
đùa theo các thế đi với nó như người chơi cờ, nhưng mặc nhiên không tính toán
được thua. Trong trò chơi ấy con người được hiện hữu như một chủ thể chủ động,
nỗ lực tác động lên trò chơi để được sống như là mình, như cách ông đã nghĩ về
thời gian Ngày và Đêm là:
Nơi mình ngồi đánh cờ
Được thua
Đom đóm đang tụ lại”
(Ngày và Đêm) [17]
Khác với Trương Đăng Dung, Mai Văn
Phấn có những quan niệm sống lạc quan. Mai Văn Phấn duy chỉ thơ ca, tạo dựng
một sự nghiệp huy hoàng. Trong cái lụi tàn của thời gian có cái đang nảy nở,
trong cái cũ có cái mới đang hồi sinh. Con người tự nhìn sâu vào đáy tâm hồn,
vừa biết tự ngợi ca nhưng cũng biết chỉ ra cái xấu, cái hữu hạn, vừa tự hào
ngẩng mặt, vừa cúi đầu trước giới hạn nhỏ nhoi, trong cái kết thúc chứa đựng
mầm sống của sự bắt đầu.
3.2. Dấu ấn xử sự
với thời gian
Ở trên chúng tôi đã chỉ ra, cả Mai Văn Phấn và Trương Đăng Dung đều có chung cảm nhận về dấu ấn thời gian in hằn trên sự vật, con người, sức tàn phá của nó, ý thức được sự phù du của kiếp người trong dòng chảy vô tận, đầy khắc nghiệt. Đứng trước thời gian ấy, mỗi người mang một tâm trạng, từ đó dẫn đến cách ứng xử khác nhau: Trương Đăng Dung buồn đau, tiếc nuối còn Mai Văn Phấn nỗ lực, không ngừng công phá thời gian.
3.2.1. Tiếc nuối thời gian trong thơ Trương Đăng Dung
Bên
cạnh thời gian hiện tại, quá khứ là chiều thời gian được Trương
Đăng Dung
lưu tâm. Quá khứ không thể thay đổi, cũng có nghĩa đó là khoảng thời gian ngưng
đọng trong tâm trí. Nhưng với Trương Đăng Dung, quá khứ luôn hiện diện ở
cuộc sống thực, dù nhà thơ đang đứng ở cái ngày hôm
nay.
“Những thiếu nữ đêm đêm vẫn đến
mắt nhìn vào phím đàn
nỗi bất an
đến từ tuổi thơ của họ
Những chàng trai đêm đêm vẫn đến
mắt nhìn vào bức tường
nỗi khắc khoải
đến từ ngày mai của họ...”
(Trong quán cà phê Piano)
Cảnh
vật được nhìn ở hiện tại, nhưng trong tâm trí nhà thơ, nó vẫn nhuốm sắc màu quá
khứ, pháp trường là pháp trường xưa với cánh cửa kính khép
lại (Một lần nữa), chợ Bagdad nay nhưng vẫn là chợ Bagdad cũ với
bom nổ, thịt người (Ghi chép hè 2009), những dấu vết của quá khứ giờ vẫn còn ở New
York, Paris, Moskva hay Tokyo mà càng muốn quên đi lại càng nhớ rõ “những bàn
chân/ càng bước càng lún sâu vào đất“ (Giấc mơ của Kafka). Với Trương Đăng Dung, cuộc đời sẽ bất an, hoảng
loạn nếu mất đi quá khứ, như không còn nơi nào để bấu víu vào:
“Đêm
nay trời đầy mây. Điều gì xảy ra nếu ký ức không cất giữ cuộc đời ta an toàn
nhất?”
(Tin
nhắn cho em)
Người
xưa hướng về quá khứ để chiêm ngưỡng một vẻ đẹp vĩnh hằng, chuẩn mực mà họ
không tìm thấy được trong cuộc đời thực, còn Trương Đăng Dung xem quá khứ như
một cái gì đó khiến ông không đành lòng dứt ra, nên cứ mãi bị ám ảnh. Nhìn cảnh
thấy hiện lên cảnh cũ, Trương Đăng Dung cũng không ngừng khơi lại việc cũ để mà
suy tư, đối chiếu với hiện tại:
“Tôi muốn tìm tôi của những năm bảy
mươi
mười tám tuổi
ngơ ngác bước đi trên những nẻo
đường Budapest
không dám ngước nhìn trời xanh
sợ bất ngờ máy bay ném bom Mỹ xuất
hiện.
Thành phố đã bao lần không bình yên
bên dòng sông Đanuyp
nham nhở những vết đạn trên tường
vật vờ những bóng người say rượu,
những quảng trường
đám đông hò hét về một ngày mai
tưởng tượng
những giảng đường
các giáo sư không giám nói những
điều mình nghĩ.”
(Những
nẻo đường Budapest)
Dường như không tìm được người đồng
cảm trong hiện tại, Trương Đăng Dung tới trò chuyện, suy nghĩ về những người
xưa, những thi sĩ tài hoa nào Xuân Diệu,
Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên… Nghĩ về con đường mà thi sĩ hướng đến, cảm xúc thường
thấy ở ông là buồn thương, tiếc nuối, ngậm ngùi: “Hàn Mặc Tử bước vào quán nhỏ/
đám đông đang nói cười/ ông vội bước ra/ ngước mắt nhìn trời/ từng giọt trăng
đỏ ối/ rơi rơi./ Chế Lan Viên khẽ nghiêng người/ từng mảng rêu xanh/ dơi bay/ những
tháp Chàm/ lả tả./ Xuân Diệu thẫn thờ nhìn bãi đá/ gót hồng thiếu nữ cát vàng/
những con dã tràng ngẩn ngơ/ sóng đuổi theo nhau vào bờ/ rồi ở lại.” (Nơi thi
sĩ đến)
Sự nhạy cảm đặc biệt của Trương Đăng
Dung với quá khứ xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Khi con người buồn vì hiện tại
và lại chẳng mong gì ở tương lai thì thường nghĩ nhiều đến quá khứ. Quá khứ
chính là điểm tựa để con người có thể bước tiếp trong tương lai:
“Kỷ niệm cứu rỗi chúng ta, nó lưu
giữ thứ ánh sáng làm cho gương mặt ta mãi mãi là gương mặt con người.” (Tin nhắn cho em)
Tuy nhiên,
dù nghĩ về quá khứ hay nhìn về hiện tại, nhà thơ vẫn không tránh khỏi nỗi sợ
hãi, buồn đau, ngậm ngùi. Buồn đau, ngậm ngùi, tiếc nuối dường như là tâm trạng
thường trực của Trương Đăng Dung, nó có nguồn gốc từ khí chất của nhà thơ cộng
thêm với sự trải nghiệm hiện thực trong quá khứ:
“Kí ức tìm thấy tôi của ngày xưa
trên những nẻo đường Budapest
những tháp chuông và những tượng đài
mùa đông tuyết phủ trắng
mùa hè trắng phân chim...
Thành phố vẫn chưa bình yên
sau nhiều biến cố,
tôi tìm thấy tôi trong lòng thành
phố
nơi có những chiếc cầu
lặng lẽ nối hai bờ kí ức”
(Những
nẻo đường Budapest)
Con người hữu tình mà cỏ cây vô ý.
Cỏ vẫn xanh, mùa vẫn tiếp mùa, nỗi buồn của con người cũng tự nhiên và vĩnh
hằng như màu cỏ xanh. Tâm trạng nhà thơ có khi ẩn kín trong màu cây cỏ “ký ức
cũng tàn phai. Ký ức đổi thay khác màu cỏ tự thay trên các nấm mồ” (Tinh thần
Kafka), có khi bùng phát trong phút giây
tưởng nhớ bạn thơ:
“Không có gì mới đâu, thi sĩ
mỗi ngày sống là một ngày thất vọng
từ Tây sang Đông
người sợ con người
Hai mươi bốn năm rồi thêm một lần
khóc bạn
giữa châu Âu bất an
tôi ngữa mặt nhìn Trời.”
(Bên
mộ một nhà thơ)
Nhà thơ cũng có khi tự đi tìm giải
pháp vượt thoát khỏi tâm trạng bằng cách đi trình Thượng Đế khi “những con
đường không biết dẫn về đâu”! Thi sĩ chỉ như một chấm nhỏ cuối chân trời trong
hành trình tự nguyện, trong đau khổ, hoài nghi:
“Tàu đã khuất, con đường xa vô vọng
thi sĩ vẫn đi
mong kịp trình lên Thượng Đế
những lầm than kiếp người
rồi như một tráng sĩ
kiêu hãnh thẳng tiến về Định Mệnh”
(Tô
Thùy Yên)
Nhà
thơ dùng cách cổ vũ tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời để đối phó với sự vô thường của
cuộc đời.Trương Đăng Dung đôi khi tỏ ra bất lực:
“Tôi
bị sinh ra
tôi
phải dấn thân
tôi
hội tụ những điều kiện chết
Tôi
không hi vọng gì.”
(Tự do của Nikos Kazantzakis)
Thơ ca suy cho cùng là điểm tựa cuối
cùng để nhà thơ chống chọi với cái khắc nghiệt thời gian. Buồn đau, tiếc nuối trước
mọi đổi thay diễn ra trước mắt, Trương Đăng Dung hay vịn vào những sự vật tồn
tại vĩnh hằng để giữ cho mình cái tâm an nhiên, tự tại, để tự cân bằng. Đứng
trước không gian cô đọng, nghĩ suy về bao lẽ đổi thay, biến dời, nhà thơ tự an
ủi mình trong sức mạnh của ngôn ngữ, tự nhận mình được hưởng lợi và chịu thiệt
thòi từ sự phản bội ngọt ngào của ngôn ngữ.
“Bạn đọc bài thơ
như vấp ngã vào tấm lưới ngôn từ
dệt bằng những ý tưởng riêng tư
tôi sắp đặt.
Bạn biến bài thơ của tôi
thành mê cung
của sự tạo nghĩa không ngừng
theo ý bạn.
Giữa những con chữ
bạn lấp đầy khoảng trống
cụ thể hóa những điều mơ mộng
theo khả năng và giới hạn của chính
mình.”
(Sự
phản bội ngọt ngào)
Thường trực trong thơ Trương Đăng
Dung vẫn là một nỗi buồn mênh mang, một tiếng thở dài không dứt. Nhà thơ không
muốn chấp nhận thực tế, không muốn thỏa hiệp nhưng lại chẳng biết làm sao để
thoát ra khỏi cái quy luật nghiệt ngã của nó. Không giống như các nhà thơ thiền
điềm nhiên trước vòng sinh - trụ - dị - diệt, Trương Đăng Dung là con người đầy
lo âu, luôn trăn trở trước quy luật tuần hoàn của thời gian, mình muốn làm gì
với/ cho cuộc đời mình?!:
“Con làm kẻ thứ ba
giữa tâm hồn bất an
và thể xác bất toàn.
Con tìm nơi cứu rỗi
giữa những hoài nghi, cô đơn và bất
lực
ngỗn ngang ký ức
tâm hồn con mang nặng cuộc đời con”
(Trên
bàn mổ )
3.2.2. Chiến đấu với thời gian trong
thơ Mai Văn Phấn
Nếu Trương
Đăng Dung nặng lòng ngóng vọng về quá khứ thì Mai Văn Phấn không ngừng chiến
đấu với thời gian. Thời gian tương lai thường xuyên xuất hiện trong thơ ông kèm
theo sợi dây nối liền hiện tại và quá khứ. Nhà thơ đặt ra các giả định về thì
tương lai còn chưa đến để từ đó định hướng cho hành động trong hiện tại. Quá
khứ với Trương Đăng Dung là một giá trị, một nỗi đau thương, nhớ thương, khắc
khoải. Với Mai Văn Phấn, quá khứ là một lăng kính giúp nhà thơ có cơ sở nhìn
thấu tương lai và sống có ý nghĩa hơn ở hiện tại. Nếu quá khứ là cái đã hoàn
kết, ngưng đọng, bất biến thì trái lại, tương lai là cái luôn ở thế khả năng,
chỉ ra các khả năng ấy, nhà thơ cho thấy triển vọng thay đổi nó.
“Cha muốn con thức dậy trước bình minh. Khi bàn
chân đêm lướt qua dàn hoa leo trước cửa. Những bông hoa cuống quýt sắc
màu, mở từng cánh khẽ khàng, khuôn mặt đêm dần sáng. Mặt trời còn run
rẩy trong vạt áo nồng nàn của đất, sau những tấm rèm cửa, trong hốc cây hay
trong tiếng nước xuýt xoa ong óng mặt ao nhà.
Con
là nơi dòng sông từ giã những ngôi sao, nơi con thú hoang gọi rừng thay
lá, nơi khoảng trống hóa thành thời gian. Khoảnh khắc ấy là minh mẫn và
ngái ngủ, là bột nhão sắp đông thành bánh, là những gì cha làm chưa kịp
phía cha mơ...
...
Phía cha mơ có ban mai đến sớm, ban mai ấy giống như con dẫu khóc hay cười
đều làm sáng lên lớp bụi trần gian, sáng lên những đường kỷ hà trên nền
thổ cẩm. Trên hương án tổ tiên những bài vị nhang đèn đang tư lự một điều
gì âm ỉ. Sau tiếng đàn đá trống đồng, cha đứng ngây nhìn đàn chim Lạc bay
qua...
Con đã thức dậy trong ban mai của cha. Phía
chân trời hừng đông như trẻ thơ bụ bẫm đang duỗi dài khoái hoạt. Vài
tia sáng đầu tiên giãi bày niềm hân hoan trên thềm cửa, rồi đưa những ngón
tay mềm âu yếm đỡ con đi.”
(Lúc mặt trời mọc)
Chiến đấu với thời gian
bằng tương lai
Tương lai đồng nghĩa với sự thay đổi các
trạng thái:
“Vây cá lông chim bóng bẩy tràn lan
Vẽ
sặc sỡ trên những đồ trang sức
Xuân
đã đến lại ngóng mùa xuân khác
Ta
thèm một lần nhân danh đất đai.”
(Khúc phóng túng)
Với
người trẻ tuổi đẹp đẽ, tương lai là tuổi già, nếp nhăn, mệt mỏi, với những
người đang yêu, tương lai là sự hờ hững, nhạt phai, với Mai Văn Phấn tương lai
là sự ấm dần lên của thiên nhiên, là sự cựa mình của quá khứ:
“Anh
mơ được em gieo trồng trên ngực
Bàn
tay dịu dàng vun vào da thịt
Hôn
lên tai anh lời chăm bón thì thào
Anh
cựa mình nồng nàn tơi xốp."
(Bài ca buổi sớm)
Mai Văn Phấn đặc biệt quan tâm đến
những chuyển động của ngày mới sang:
“Câu
ca làm khổ người ta
Em
bây giờ hát bài ca khác rồi
Lại
đây gió của ta ơi
Thổi
làm chi mãi những lời thở than
Để
ta bới nỗi đêm tàn
Tìm trong đất tiếng ngày sang thầm thì.”
(Tiếng gọi từ những cánh đồng)
Với Trương Đăng Dung cái mới ra đời
không bao giờ là mới hoàn toàn và nếu muốn được chấp nhận, nó phải kế thừa một
phần dáng vóc của cái cũ, cái đã trở nên quen thuộc với cộng đồng nếu không
muốn bị coi là ngoại lai, lập dị thì ngược lại, với Mai Văn Phấn, cái mới ra
đời bằng sự phủ nhận cái cũ. Điều họ quan tâm hơn hết là tương lai chứ không phải
cái đã qua. Nói như vậy để thấy rằng, với Trương Đăng Dung quá khứ dù hay dở
vẫn mang một ý nghĩa thiêng liêng không thể bôi xóa. Còn với Mai Văn Phấn có
thể sẵn sàng nở nụ cười với cái đã qua để tiến về phía trước bởi điều thực sự
và trước hết có giá trị với họ là tương lai.
Tương lai đồng nghĩa với thay đổi
nhưng như thế không có nghĩa nó chỉ toàn một màu tối, Mai Văn Phấn dù có những
lúc hoang mang, nhưng rồi điều ông quan tâm, nỗ lực hơn hết chính là sự chủ
động chiến đấu với thời gian. Thời gian có lưỡi hái, bức tường, hoa tàn, đốm
lửa tàn, có bóng tối, những con Bang con Bống cùng quy luật của lãng quên làm
phương tiện hỗ trợ. Mai Văn Phấn qua quá trình suy tư trăn trở, cũng tìm được
ba vũ khí hữu dụng để chiến đấu với “tên bạo chúa” ấy, đó là tình yêu và sản
phẩm của nó là những thế hệ sau đầy sinh lực cùng với một phương tiện hỗ trợ
khác - thơ ca:
“Soi vào lịch sử chiến tranh
Những
nền văn minh hủy diệt
Xin gọi
lay từng cái chết
Tái
sinh cùng những bình minh.”
(Chương
IV: nỗi đau phát sáng – người cùng thời)
Chiến
đấu với thời gian bằng tình yêu
Những nhà thơ trẻ thế hệ ngày hôm
nay thường phản ánh tình yêu đôi lứa, hạnh phúc gia đình, những buồn vui và cả
những mất mát với nhiều cung bậc cảm xúc, sắc thái riêng. Tình yêu được phản
ánh bằng thơ lúc này thực hơn, đời hơn, phức tạp và cũng đau đớn hơn. Thơ không
ồn ào mà bình dị thâm trầm, không có chuẩn mực hay một khuôn mẫu nào nhất định…
Những vần thơ như bật ra từ chính cuộc sống con người, từ chính cuộc đời trần
trụi, thô ráp, đầy mạnh mẽ và tự tin, đam mê và chấp nhận. Cùng với khát khao
yêu thương là niềm đam mê nhục cảm được phơi bày và phản ánh, bài thơ Màu
đen một của Nguyễn Quang Thiều là một ví dụ:
“Hai
màu đen đã sát nhau như hai cái cây trong đêm và thì thào như khóc. Thì thào,
thì thào dẫn lên thành tiếng gào gọi. Ngôn ngữ trắng không giết được những u oa
của chúng. Chỉ còn lại thì thào như lá khua, dội lên trong tiếng răng rắc của
cây đang đổ.
Chúng,
hai mảng đen, đã trộn vào nhau. Những cặp môi xiết vào nhau như thổ dân xiết
hai miếng đá. Và máu của cô đơn, khát vọng rỉ ra chảy trên hai bi kịch đen. Hai
bi kịch rã rượi, soãi dài và bừng lên khoảnh khắc cứu vớt”
(Màu đen một)
Với thơ Mai Văn Phấn khi vẽ nên
những cảm xúc yêu thương mãnh liệt, cháy bỏng, tuy tác giả cũng đề cập đến
những xúc cảm cuồng nhiệt yêu thương nhưng ở đây không đồng nghĩa với sự trần
trụi, tầm thường mà chính là đường nét nghệ thuật:
“Lồng vào nhau từng khuôn mặt. Lời vô nghĩa mở ra tưởng tượng. Đặt em
nơi khoảng trống, thổi vào những ngón chân làm cơ thể vụt căng xâm lấn không
gian. Hơi thở bắt đầu những chuyển động. Bàn chân em dính chặt vai anh. Giọt mồ
hôi sáng trong họng tối. Mặc lưỡi mềm vừa treo ta lên...
Miệng anh
còn thơm trái cây và hương trà em uống. Chiếc bánh ngọt pha kem lẫn với quế
chi. Anh còn nhớ. Chiếc ghế rộng lắm. Khi bờ vai trổ những bông hoa, môi anh
thắp ngọn đèn linh thiêng góc tối. Bông hoa chỉ nói được phần nhỏ nhoi lòng đất
rộng. Lòng đất rung chuyển khi bông hoa đứng yên.
Yêu nhau.
Là những nghi thức dâng tụng trời đất. Bây giờ là mùa xuân. Anh mệnh Kim và em mệnh Hỏa.
Từ lửa làm ra Thổ, ra Mộc, ra Thủy. Đất rùng mình. Sông chảy. Ngàn vạn lá mầm
từ thân thể nở bung.”
(Anh anh em em)
Và dường như tình yêu, khát vọng
nhục cảm được xem là “Yêu nhau. Là
những nghi thức dâng tụng trời đất”, mượn cảm hứng vũ trụ “Kim, mộc, thủy, thổ, hỏa” để
tô đẹp thêm tình yêu “Ngàn vạn lá mầm
từ thân thể nở bung” Cũng chính cảm hứng này, Mai Văn Phấn đã đa dạng hóa tình yêu với
nhiều hình ảnh mới lạ, so sánh độc đáo đôi tình nhân với đôi “rắn nước, khủng long, thủy triều, đại bàng,
gốc cây” là một duyên mệnh gắn chặt qua nhiều kiếp sinh tồn, là
hiện tượng “thủy triều, sấm sét” đã
tồn tại mặc định trong tự nhiên. Như một sự khẳng định tình yêu bền chặt, hiện
hữu, tồn tại tự nhiên và yếu tố nhục cảm nếu có thì chỉ càng tô đẹp hơn tình
cảm bình dị và thân quen này:
“Kiếp
trước em và anh là đôi rắn nước trườn qua bụi cỏ xuống hồ, bơi sóng đôi mềm
mại. Là thủy triều cuốn vào chân núi, qua ngàn năm mới để lại vết hằn. Là đôi
khủng long lồng lộn trong sa mạc nóng. Đôi đại bàng rơi tự do giao phối trên
không. Hai gốc cây bện chặt khi giông bão. Sấm sét đánh xẹp đỉnh núi để lại vết
bỏng hoàng hôn…”
(Gặp)
Bên cạnh những vần thơ đề cao khát
khao kiếm tìm hạnh phúc của con người với những tình cảm mãnh liệt, mong muốn
yêu thương và được yêu thương trọn vẹn còn là những tình cảm nhẹ nhàng, đằm
thắm có sức gợi và sức lan tỏa vào tâm hồn con người hết sức sâu sắc. Khao khát
tình yêu đích thực cùng những hạnh phúc đời thường giản đơn và bình dị với
những dòng thơ nhẹ nhàng, trìu mến nhưng không hề làm mất đi sự da diết, nồng
nàn mà tình yêu lứa đôi vốn có như trong bài thơ “Viết cho cây sáo” của Mai Văn Phấn:
“Vũ trụ
lầm lì lơ lửng trong đêm. Những con sóng dịu mềm cho bên lở biết mình còn
đó, để ban mai thức dậy gặp bên bồi”.
Quả thật, thơ Mai Văn Phấn luôn đầy
ấp những yêu thương nhẹ nhàng, trìu mến mà không hề có những trách móc giận
hờn, vị kỉ như thơ của Thường Đoan “Em
đã ngốc nghếch làm mái che cho loài chim bạc bẽo. Chỉ biết ấm riêng mình nào
hiểu nổi lạnh của ai đâu ! Em đã ngô nghê sống trong tiếng hót của loài chim
sâu mà ảo tưởng đến một thiên đường hoàng yến. Em đã mê muội và vắt kiệt dòng
máu mình đi hồi sinh cho một kẻ không tim” (“Với loài chim di trú” - Thường
Đoan) và cũng không quá
mãnh liệt bày tỏ, thẳng thắng kêu gào, vồ vập lên với tình yêu cháy bỏng như
thơ của Phạm Thị Ngọc Liên “Em sẽ
yêu anh như tháng giêng thương nhớ. Ôi tháng giêng, tháng giêng, tháng giêng.
Tháng lộng lẫy của cả mười hai tháng, tháng tiếng hát của các loài chim, tháng
vương miện của các loài hoa, tháng hạnh phúc trăm thứ quả... Tháng giêng dài
như sông, tháng giêng rộng như biển. Tháng giêng chờ những lời tha thiết – nói
rằng Em yêu anh, yêu anh” (Em yêu anh như tháng giêng). Hay
như cách thú nhận hết sức thật thà của những người đang yêu nhau về nỗi nhớ,
nỗi nhớ ấy không thể hiện cường điệu như ca dao “nhớ ai bổi hỏi bồi hồi/ như đứng đống lửa, như ngồi đống than”.
Ở đây, đơn giản nhớ là nói nhớ: “Trăng mọc sớm, thơ ngây và thoảng mùi rơm rạ. Nhớ
người yêu vô cùng.” (Anh tôi)
Tình yêu “thắm” vào những đồ vật xung
quanh và gần như không thể thiếu của sinh hoạt hằng ngày từ “cây cối, đường xá, phố nhà, vào vườn tược,
ruộng nương, sông suối...” đây cũng chính là sự khẳng định tình yêu
là một phần không thể thiếu của cuộc sống con người.
“Ôm em
nghe nhạc nước chảy qua triền núi rộng, những vỏ sò vỏ hến hoá thạch đã thức
dậy, tổ chim yến trên vách đá lơ phơ… Cây cỏ, con đường, cả viên cuội quanh đây
rất lạ. Hình như chúng đã cách xa ta, hôm qua, từ nhiều thế kỷ trước. Hay bóng
dáng, hồn vía ta tự kiếp nào chẳng biết, đang bồn chồn chờ những nụ hôn”
(Những bông hoa mùa thu)
Cách so sánh ví von, ẩn dụ
tượng trưng nhẹ nhàng nhưng hết sức đặc sắc. Và chính sự nhẹ nhàng, đầm thắm đó
luôn gợi lên cho con người mong muốn về một mái ấm bình yên, giản dị. Nơi mà
những người yêu nhau thật sự muốn dừng chân để vun đắp thêm cho tình yêu của
mình. Nhân vật trữ tình ở đây,
đã tìm được mái ấm của mình từ những điều hết sức bình dị “Nơi anh về trú ngụ là ô trời xanh trong
mắt em cười. Hạnh phúc nào bằng ta bên nhau thảnh thơi, như được xoải mình
nơi chân đê cát mịn” là nơi “trú ngụ” bình yên sau những bôn ba, tất bật của đời sống.
Không giống như thơ ca thời đại trước, hạnh phúc của anh nông dân mơ ước có một
mái ấm “chồng cày, vợ cấy, con
trâu đi bừa” (Ca dao).
Thời gian cho tình
yêu là một đề tài lớn xuyên suốt các tác phẩm của Mai
Văn Phấn. Nhà thơ đã viết về tình yêu bằng tất cả niềm say mê của
một trái tim trong lồng ngực trẻ. Người đọc thấy trong thơ ông mọi cung bậc cảm
xúc khi yêu : xao xuyến, nhớ nhung, hờn giận, hạnh phúc, tuyệt vọng… Có cả tình
yêu trong sáng, thuần túy tinh thần lẫn thứ tình yêu đan xen, đấu tranh với dục
vọng xác thịt và quyền lực… Có
nhiều bài nhà thơ viết về nỗi đau chia cắt, sự bất lực, đau khổ cũng như giằng
xé giữa tình yêu chân chính với xúc cảm nhục dục nhưng hơn hết, ông thấy được ở
tình yêu giá trị vĩnh hằng. Nhà thơ ca ngợi vẻ đẹp của nó:
“Những mặt người chờ đợi dưới hừng
đông
Nỗi
đau sáng lên soi niềm vui dung dị
Không gian, thời gian mách bảo bình minh
Tiếng cười nói ân tình rạng rỡ.”
(Chương V: Đằm thắm mặt người – Người
cùng thời)
Ông tuyệt đối tin tưởng vào khả năng
tình yêu đem đến cho con người niềm vui, khiến họ hài lòng, hạnh phúc hơn tất
cả mọi lạc thú vật chất tầm thường. Bởi vì trước kẻ thù thời gian, mọi thứ rồi
sẽ bị chôn vùi, chỉ có tình yêu là không sức mạnh gì cướp đi được.
Không vụ lợi toan tính, không dễ
dàng đổi thay, tình yêu khiến con người sống có ý nghĩa, vững tin xua đi mọi
bóng tối, điềm nhiên trước bất kỳ mối đe dọa nào và vì vậy, nó chứa đựng sức
mạnh vĩnh cửu có thể chiến đấu với thời gian. Với Mai Văn Phấn, tình yêu không
còn là tình yêu nếu nó bị thay đổi theo hoàn cảnh hay lung lay trước âm mưu phá
hoại của thời gian, tình yêu có thể nguội tắt hôm nay nhưng ngày mai sẽ lại
bùng lên. Tình yêu bất tử bởi nó không quan tâm đến tuổi già, nếp nhăn, một lần
đã yêu là trọn kiếp:
“Anh biết mình đã trọn kiếp mơ
Một kiếp yêu tỉnh lại
Chạy về cuối làn hương
Gặp con đường
Chạm một bông hoa bé tí
Mọi cuống hoa trên mặt đất rung lên.”
(Tỉnh dậy trong mưa)
Tình yêu sâu sắc không nô lệ quyền
lực, luôn bền vững bởi nó không dễ dàng chịu sự tác động của các nhân tố bên
ngoài. Có được tình yêu, con người sẽ không bị thời gian đe dọa. Nhà thơ khẳng
định điều ấy như một chân lí, đảm bảo nó bằng cách nói như đinh đóng cột. Cho
nên, khổ đau, mất mát, dự cảm không lành chỉ càng khiến con người nên yêu nhiều
hơn.
Chiến
đấu với thời gian của tình yêu bằng thế hệ sau
Tình yêu trong quan niệm Mai Văn
Phấn không chỉ dừng ở giận hờn nhớ nhung trách móc, ở cảm xúc mãnh liệt, ở giá
trị an ủi về mặt tinh thần mà còn cần hứa hẹn khả năng đơm hoa kết quả. Mai Văn
Phấn, bằng nhiều cách nói khác nhau, lặp lại giả định cùng các khả năng kèm
theo nó: nếu người trẻ tuổi sinh con đẻ cái, để lại cho đời thế hệ sau của mình
và ngược lại, anh chỉ sống rong chơi đến khi tuổi trẻ qua đi. Người trẻ tuổi
được tự nhiên đầy sáng tạo ưu đãi, phú cho những vẻ đẹp ngời sáng, phẩm chất ưu
tú mà người khác - dù muốn – cũng không có được. Đó là vẻ đẹp được xem là hình
mẫu của muôn đời, chỉ có thể tìm thấy trong con người đẹp nhất ở các văn bản cổ
xưa, thậm trí trong hiện tại, anh sống động hơn, tuyệt vời hơn. Bởi thế, đến
lượt mình, anh trở thành người có trách nhiệm phải giữ gìn, bảo vệ, nhân giống
vẻ đẹp ấy, không để cho nó trở thành uổng phí, vô nghĩa. Nếu anh không lấy vợ
sinh con, anh sẽ trở thành một người keo kiệt, tham lam, một kẻ háu ăn, chiếm
hết cả phần đáng được nhận của thế giới và do đó, sẽ lãnh nhận hậu quả là một
cái chết cô đơn, lạnh giá, tuyệt vọng. Thế hệ sau là mầm móng của tương lai,
tạo dựng, hoàn thiện tương lai và làm hồi sinh, tái sinh thời gian, sự sống chỉ
thay đổi mà không mất đi.
“Tiếng em rồi tiếng con cười
Rộng thêm căn phòng ta ở
Anh hồi sinh tuổi ngây thơ
Đùa vui hồn nhiên tở mở.”
(Chương
IV: nỗi đau phát sáng – Người cùng thời)
Không chỉ thuyết phục đối tượng bằng
lý luận suông, Mai Văn Phấn còn dùng những hình ảnh ví von so sánh. Ông hình
dung con người trong độ thanh xuân giống như những bông hoa rực rỡ trong mùa
hè. Khi đông đến, chúng bị bao trùm bởi tuyết sương lạnh giá, sự hủy diệt. Còn
thế hệ sau giống như cây trái trong mùa xuân, chờ đợi đến ngày được thể hiện. Tinh
chất của chúng khi đã được chưng cất sẽ vẫn tồn tại một cách thơm tho đến tận
mùa sau.
“Con đang khai hoa đậu quả
Ngự
trên ngực mẹ ngực cha
Cây
bám vững vào mạch đất
Rễ
sâu cành lá la đà.
Đằm
thắm mặt người gần xa
Cho con hiện thân da thịt
Ra đi từ muôn năm trước
Bàn chân mới tới bây giờ.”
(Chương
IV: nỗi đau phát sáng – Người cùng thời)
Cũng có khi ông dùng hình ảnh em cho
con bú để ẩn hiện về hình ảnh của bản thân qua hình ảnh của con. Con là một
phần của cha, hình ảnh của con mang theo cả bóng dáng của cha trong đó:
“Chiều nay em cho con bú. Ngoài kia từng chân kiến đang đi, từng
cánh ong vẫn còn đang vỗ. Nơi anh về trú ngụ là ô trời xanh trong mắt
em cười. Hạnh phúc nào bằng ta bên nhau thảnh thơi, như được xoải mình nơi
chân đê cát mịn. Anh hôn lên ngực em căng đầy thơm mát, chiều ngọt ngào
cánh cò cánh vạc, qua môi anh khẽ đậu xuống hồn. Căn phòng mình chẳng
còn những bức tường bao quanh và không gian thành thời gian thánh
thiện, khi anh mải mê nhìn vầng ngực em dâng đầy như biển, cứ thu mình tìm
vào miệng con be bé xinh xinh..."
(Em
cho con bú)
Đau xót, lo sợ cho sự tàn phai, mai
một của cái đẹp, Mai Văn Phấn đã thấy ở thế hệ sau một nguồn sinh lực thật dồi dào
đủ sức chống chọi, thách thức cả kẻ thù dữ tợn, hung bạo nhất – thời gian.
Có lẽ
không phải ngẫu nhiên mà Mai Văn Phấn nhiều lần so sánh con người như cây cỏ,
như những sinh vật trong thiên nhiên. Các thi nhân thường mang niềm sầu thảm vì sao
mùa xuân của đất trời ra đi rồi lại quay về, còn xuân của đời người chỉ một đi
không trở lại. Nó sẽ đem đến cho con người sự tái sinh trong một cuộc sống
khác, cuộc sống thứ hai, trong trường hợp khi thời gian qua đi, mọi người quên
lãng, những trang thơ úa vàng bất lực. Chỉ ra sức sống vĩnh cửu, sức chiến đấu
với thời gian qua thế hệ sau, phải chăng Mai Văn Phấn đã tìm được câu trả lời
cho sự so sánh ấy: Bằng việc tạo ra những đứa trẻ xinh đẹp, bằng
cách di truyền cho chúng những gien tốt cả về thể chất lẫn tinh thần, con người
sẽ không còn nhỏ bé, bất lực, có đủ sức sánh ngang quyền tạo hóa và tạo ra vòng
quay vô tận của chính thế hệ mình. Cứ mỗi hè về là nắng lên, mỗi đứa trẻ ra đời
sẽ bắt đầu một mùa hè rực rỡ mà cha mẹ chúng đã đi qua. Như thế là lấy chính vũ
khí của thời gian, của thiên nhiên để vô hiệu hóa sức mạnh của hắn vậy. Thời
gian với lưỡi hái tử thần chỉ có thể gặt hái cây trái và cả con người khi chúng
đã đến độ chín và nếu các đối tượng đó kịp để lại mầm sống cho tương lai, sự ra
đi ấy sẽ thật nhẹ nhàng.
Chiến đấu với thời gian
bằng thơ ca và
sáng tạo
Tình yêu giúp
con người thoát ra khỏi bóng tối của nỗi sợ hãi và chuỗi những ngày vô nghĩa.
Sản phẩm của nó – những đứa trẻ nối tiếp nhau sẽ chứng minh cho một nguồn sống
quý giá đã tồn tại trên thế gian. Bên cạnh đó, Mai Văn Phấn cũng tìm thấy một
phương tiện hỗ trợ đắc lực chống lại sự phôi pha của thời gian - thơ ca.
Trong
cuộc chạy đua bất tận, ngòi bút nhà thơ và lưỡi hái thời gian diễn ra hai quá
trình ngược nhau:
“Chọn
màu áo em
Làm
bìa tập thơ
Những
đốm bóng
Theo
tay người dệt lụa
Miệng
tằm
Bờ bãi
Bóng dâu...
Nhưng
em ở đâu?
Người
mặc chiếc áo ấy
Khi tắt
nắng
Và
bóng đen thức dậy
Anh đi vòng quanh con chữ
Gọi ơi hời!”
(Một lần...thi pháp)
Trong
khi thời gian khắc sâu những nếp nhăn, cướp đi tuổi trẻ con người, nhà thơ,
bằng khả năng sáng tạo, đem đến cho họ một cuộc sống khác, khắc họa hình hài họ
trên trang giấy. Cũng có khi Mai Văn Phấn cho rằng, vẻ đẹp đích thực
của con người, cuộc sống không gì tô vẽ được, ta chỉ có thể cảm nhận nó một
cách chính xác nhất bằng trực quan sinh động hay qua tấm qương soi. Mặc dù vậy,
cố gắng làm một tấm gương - dù chưa thật hoàn hảo - thi sĩ miêu tả lại thật
chi tiết những gì mình thấy, như khi đọc sách ngắm trăng:
“Nhớ em khi anh đọc
sách.… Ánh sáng không có trong văn bản, anh tưởng tượng thêm hình ảnh dưới
trăng. Những chuyện đầy trăng.”
(Tỉnh
dậy trong mưa)
Như bông hoa đã được bảo toàn hương
sắc, được cất giữ ở một nơi tin cậy, mặc kệ những cơn gió dữ, nắng chói, người
trẻ tuổi sẽ mãi giữ được vẻ trẻ trung trong vần thơ bất tử. Thần chết khi ấy
cũng sẽ trở thành một kẻ bất lực bởi hắn không mang theo được gì. Giấy trắng
mực đen tưởng chừng yếu ớt, không nanh vuốt, lại dễ dàng bị ố vàng nhưng hóa ra
nó còn tồn tại lâu hơn cả đá, tượng thần hay các công trình kiến trúc nguy nga.
Và tác giả với thơ ca, hòa vào làm một trong những trang thơ bất hủ: “Trang sách/ Mở mặt đất chữ/ Rừng
núi/ Sông hồ/ Những con đường chữ/ Nâng cuốn sách/ Tôi /Là một chữ/ Nét chữ nhịp
thở/ Bàn tay lật lên/ Nét tóc cứng/ Da vàng / Ánh sáng trên trang sách/ Thu thế
giới/ Và tôi/ Thành một.” (Tĩnh
lặng)
Khi tất cả đều trở nên bất lực,
những câu thơ vẫn kiên cường, cho tận đến ngày phán quyết. Bởi sự tồn tại của
nó song song với sự tồn tại của con người. Khi nào con người còn sống, còn yêu
cái đẹp thì thơ ca còn giữ mãi giá trị: “Pablo Neruda than thở rằng thơ đang
dần bị thu hẹp vào vương quốc của riêng
nó, rằng bây giờ chỉ có các nhà thơ đọc nhau. Nhưng tôi tin, thơ sẽ hay hơn nếu
chúng ta biết đón chờ những giá trị mới bằng một tâm thế mới” [38, tr.392]. Nhà
thơ từng lập luận: Muốn níu giữ được bước chân nhanh chóng của thời gian, ngăn
chặn sự phá hủy của nó với cái đẹp, trừ phi có một phép màu. Và phép màu ấy
chính là tình yêu tỏa sáng trong thơ. Từ đâu thơ ca có sức mạnh diệu kỳ như
vậy? Mai Văn Phấn giải thích nó ở chỗ: thơ chính là những đứa trẻ được tách ra
từ trí óc, và khi nó thoát ra khỏi người anh, nó có một đời sống riêng, sinh
mạng riêng giữa cuộc đời. Thơ có thể giúp con người bày tỏ những điều bình
thường họ không thể nói, không dám thốt ra lời. Thơ được chắt lọc từ phần tốt
nhất, giàu có nhất, phần sẽ được giữ lại sau khi thể xác bị chôn vùi dưới ba tấc
đất. Rất chân thành, Mai Văn Phấn đưa ra lời khẳng định: “Thơ hay có thể đến
tình cờ với một số thi sĩ trong khoảnh khắc đốn ngộ, xuất thần... Nhưng đa số
các nhà thơ có được thơ hay qua quá trình tu luyện, tích lũy kiến thức phong
phú, một hành trình bới tìm “vỉa quặng” của tâm hồn, đợi đến khi chín muồi, cảm
xúc sẽ chợt nhòa chợt hiện và nhà thơ, viết với tất cả choáng ngợp của mình. Sự
choáng ngợp mê man của tác giả rồi sẽ lan truyền đến người đọc. Tưởng như, nhà
thơ gặp bài thơ hay giống như người toạ thiền trong quả chuông ánh sáng, hoặc
cảm giác như kẻ thoát xác; tưởng như nhà thơ lúc đó là kẻ lạc vào rừng rậm, chỉ
nhìn nhanh được những hình ảnh lớn, trực diện, còn những cây dương xỉ, con sóc,
con sâu nhỏ bé, hoặc cả những vỉa ngầm… dành lại cho người đọc hình dung. Đúng
như Octavio Paz đã viết “Thơ ca là khoảnh khắc ngừng lại của thời gian”. Tầm
vóc của thi sỹ chính là khả năng khái quát, biến những hình ảnh quen thuộc
thành biểu tượng thi ca, tiên tri cả thời đại đang đến. Hình ảnh con ngựa trong
đêm tối trong bài thơ “Con ngựa đen” của Joseph Brodsky viết năm 1961, (Hoàng
Ngọc Biên dịch) là bóng dáng thế kỷ chúng ta đang sống. Nhà thơ đã nhìn thấy
những hiểm hoạ đến với loài người, như chiến tranh, bệnh tật huỷ diệt hàng
loạt, xung đột sắc tộc, tôn giáo… Bài thơ là một tiên báo: con ngựa đen “chờ
đợi trong chúng ta đứng dậy một kỵ sĩ”.
Thơ hay, cuối cùng còn tuỳ khả năng
đồng sáng tạo của người đọc. Phần lớn bạn đọc đều bị động trước các văn bản
thơ, tức chờ bài thơ đi vào lối mòn thẩm mỹ của mình để đồng cảm đồng điệu mà
ít có ý thức vươn tới giá trị của thi ca, không chuẩn bị nhập chung hai luồng
ánh sáng cùng rọi trên một điểm. Nếu có thơ ca tinh tuyển thì cũng cần có cách
đọc tinh lọc. Đó là cách đọc dám từ bỏ mọi thói quen cũ, sẵn sàng đến với những
giá trị mới một cách bình tĩnh, công bằng; thái độ lắng nghe thơ chuyển động dĩ
nhiên quan trọng, nhưng lắng nghe chính mình càng quan trọng hơn.” [38, tr.391).
Thơ ca, tự bản thân nó có một linh hồn, một trí tuệ. Đôi khi Mai Văn Phấn tự
phân thân để cầu khẩn, thuyết phục nàng thơ thực thi nhiệm vụ, phát huy khả
năng của mình. Có lẽ không với vũ khí nào như thơ ca, Mai Văn Phấn thấy mình
mạnh mẽ đến thế, quyết liệt đến thế trong nỗ lực khuất phục sức mạnh bạo tàn
của thời gian. Nhà thơ trực tiếp tuyên chiến với hắn:
“- Mỗi người chỉ có một lần cơ hội
- chết như một nhà thơ” [38]
Trong cả ba thứ vũ khí mà Mai Văn
Phấn nhắc đến để chiến đấu với thời
gian, không có vũ khí nào không liên quan đến tôn giáo, đến sự tu hành, khổ
luyện nhằm được giải thoát về mặt tinh thần nhờ đấng siêu nhiên. Trái lại, dù
là tình yêu, thế hệ sau hay thơ ca thì chúng đều là sản phẩm sự sáng tạo của
con người. Trong thơ Mai Văn Phấn, đây có thể xem là một quan điểm có tính cách
mạng và ngày càng chiếm ưu thế, giải phóng họ khỏi mọi tín điều, ràng buộc cổ
hủ. Con người không cần đến Chúa mà hoàn toàn có thể bằng chính năng lực của
mình vươn đến sự bất tử.
3.3. Phương
thức thể hiện thời gian
3.3.1. Cô đơn thời gian trong thơ Trương Đăng Dung
Trào lưu chủ nghĩa hiện
sinh phát triển nở rộ ở phương Tây vào những năm 50, 60 của thế kỷ 20 và có ảnh
hưởng sâu rộng. Sự tồn tại của con người là dữ liệu duy nhất có thể cảm
nhận ngay tức thì, chứ không phải bản chất. Là một thuyết nhân bản, chủ nghĩa
hiện sinh hướng đến thân phận và sự hiện hữu của con người, giúp con người đưa
ra quyết định và chịu trách nhiệm trước sự tồn tại của mình để khẳng định “chủ
thể tính” và “nhân vị tự do”.
Cuộc
đời con người là những chuỗi đau khổ, mâu thuẫn. Và bản thân sự hiện diện của
con người trên thế giới này là một sự khổ đau. Trong thơ Trương Đăng Dung
thường xuyên thấy một bóng người cô đơn, một bản thể đơn côi, lạc lõng. Con
người ấy dường như lúc nào cũng mang nặng trong tâm hồn một nỗi bấn loạn vì
luôn cảm thấy bơ vơ trước mênh mông cõi đời và tấp nập cõi người. Sự cô đơn
xuất hiện khi con người không tìm thấy sự hòa hợp với thế giới mà mình đang tồn
tại để rồi trở nên xa lạ với tất cả, xa lạ ngay với chính bản thân mình. Cô đơn
thời gian là khi đứng ở hiện tại, đối diện chính mình của quá khứ, tương lai,
thấy được sự lạc lõng của chính mình. Hiện tại, tương lai bấp bênh không biết
cái gì sẽ đến, đối diện với chính mình của quá khứ và tương lai. Hơn một lần
trong thơ ông, người ta nghe tiếng quạ - loài chim ăn xác người, loài chim xuất
hiện cùng cái chết:
“Anh nghe ngày một gần hơn tiếng lũ quạ”
(Anh không còn gì ngoài
em)
Những
yếu tố phi lý, nghịch dị như một cách để phản ánh thế giới - được Trương Đăng
Dung đưa vào trong thơ. Ông kể những chuyện ngược đời “Ở New York chiều chiều/
những con voi nhảy từ tầng muời một xuống sông/ cứu những con chim sẻ/ Ở Pari
trước cửa viện bảo tàng/ người nằm ngáp/ trâu xếp hàng mua cỏ…” (Giấc mơ của Kafka). Ông nói về những cái quái đản “những
đội quân không mũ/ tay súng, tay đao chân bước thụt lùi” (Chân trời), “những
đôi mắt/ dính trên cổ những người không có mặt/ những tiếng kêu/ phát ra từ miệng
những người không có cổ” (Giấc mơ của Kafka).
Toàn những điều kì lạ, quái dị, khó cắt nghĩa. Thế giới là như thế: “phi lý” và
“hư vô” - một mớ hỗn tạp của những điều không thể lý giải. Con người không hiểu
vì sao mình sống? Vì sao mình tồn tại trong thế giới này? Những dằn vặt về bản
thể xuất hiện, con người không ngừng tự vấn để rồi nhận ra cuộc đời là vô
nghĩa. Hạnh phúc, tình yêu chỉ như những ảnh hình không có thật:
“Anh
hỏi dòng sông về hạnh phúc trên đời
sông
trả lời anh sông chỉ biết trôi
anh
hỏi ngọn núi
núi
trả lời anh núi chỉ biết ngồi
anh
hỏi con người
người
trả lời anh bằng nước mắt rơi”
(Ảo ảnh)
Bị ném
vào thế giới ấy, con người bị bỏ rơi, mang nặng trong mình tâm trạng hoảng
loạn, cô đơn và sụp đổ niềm tin một cách trầm trọng. Họ như đánh mất chính mình,
trở thành một người khác - tha nhân. Họ cảm thấy ngơ ngác, thờ ơ, lạ lẫm trước
tất cả:
“Tôi
lớn lên ngơ ngác cõi người
tình
thương, thù hận, buồn vui
hun
hút đường xa cát bụi
người
đi không biết về đâu”
(Chúa đã ra đi)
Để
thoát khỏi nỗi cô đơn và sự buồn chán, con người trông chờ vào sự đồng cảm sẻ
chia, sự quan tâm giúp đỡ lẫn nhau giữa người với người. Tâm hồn nặng gấp trăm
lần thể xác, chúng ta sống với nhau phải làm sao cho tâm hồn trở nên bất tử.
Tình người, ấy là liệu pháp duy nhất làm lòng người ấm lại. Thế nhưng, thế giới
trong thơ Trương Đăng Dung thường ẩn chứa sự chia cắt. Khát khao cố gắng xích
lại gần nhau lại càng bị đẩy ra xa. Cái tôi không thể tìm thấy sự hoà hợp, kết
giao. Nỗi cô đơn vì thế mà dâng lên gấp bội:
“Giữa
những cái bắt tay
có một
bức tường
giữa
em và người em thấy trong gương
có một
bức tường
giữa
hai chiếc gối nằm kề nhau
có một bức tường
….
Những bức tường, những bức
tường, những bức tường
có mặt khắp nơi,
trong những lời vui đoàn tụ
trong những lời buồn chia
tay,
những bức tường ta không
xây
những bức tường không thể
phá”
(Những bức tường)
Ranh giới vô hình của lòng
người, là cái hố sâu ngăn cách giữa người với người. Không tìm thấy sợi dây
liên hệ, không tìm thấy tiếng nói sẻ chia. Chỉ thấy một sự vô cảm đến đáng sợ “không
thấy kẻ gây tội ác/chỉ thấy nạn nhân/ và người ngồi xem nỗi đau qua màn ảnh nhỏ” (Ghi chép hè 2009), chỉ thấy “cánh cửa
sổ nhà này mở ra/ cánh cửa sổ nhà kia khép lại/ Họ đi hàng dọc/ gương mặt không
trang điểm/ như được vớt lên từ đáy giếng” (Những người đàn bà). Cứ như thế, cuộc sống trở nên bế tắc,
quẩn quanh. Con người như lạc vào một mê cung không lối thoát. Càng đi sâu càng
lạnh, “càng bước càng lún sâu vào đất”, họ trở nên mệt mỏi rã rời. Mọi cảm xúc
chai lì , tâm hồn người dường như hoen gỉ: “Có một thời/ trẻ con sợ búp bê và không
thích sữa/ Có
một thời/ anh đi bên tôi mà sao cách trở/ Có một thời/ Đi về đâu mà ai cũng vội/ Có một thời/ hạt bụi cũng
quẩn quanh/ Có
một thời/ nghe
hát dân ca lòng ta mệt mỏi/ …../ Có
một thời/ có một thời/ ta đã sống thật sao”
(Có một thời)
Điệp khúc “có một thời” như khắc khoải, nhức
nhối, xoáy sâu vào tâm trí người đọc. Có một thời người ta đã sống để rồi chính
mình cũng không thể tin được rằng mình từng sống qua một thời như thế.
Mỗi
khi mang nặng nỗi bấn loạn trong nội tâm của mình, con người thường tìm về kỉ
niệm, hướng về kí ức. Bởi lẽ kí ức và kỉ niệm là nơi nương náu cuối cùng của
những linh hồn không tìm được sự bình yên trong cuộc sống. Vậy mà ở đây, ngay
cả kí ức, ngay cả những kỉ niệm tuổi thơ cũng bị đánh mất khiến con người càng
chìm sâu vào bi kịch cô đơn.
“Hơn
nửa thế kỉ đi lại trên mặt đất này
tôi
không còn nhiều bạn
cây
gạo đầu làng cũng bị chặt mất rồi
tôi
không còn kí ức
những
giọt máu cuối trời tuổi thơ…”
(Ghi chép hè 2009)
Nỗi cô đơn còn xuất hiện khi con người ý thức
được sự chóng vánh của thời gian trần thế; sự ngắn ngủi, vô thường của kiếp
người trong cõi phù sinh. Đối với Trương Đăng Dung thời gian là một nỗi ám ảnh,
một cảm thức thường trực trở đi trở lại trong thơ . Thời gian trôi khi “tóc bà
bạc xóa/ thấp thoáng bên khung cửa/ nắng nhòa” (Ảo ảnh). Thời gian đi qua cùng
sự ngỡ ngàng “răng mẹ rụng lúc nào không biết nữa” (Có một thời). Thời gian rơi
qua “từng kẽ ngón tay em vất vả” (Anh không còn gì ngoài em). Thời gian đến rồi
đi, lặng lẽ và vô tình, lạnh lùng và tàn nhẫn. Nó cuốn phăng tất cả trước sự
bàng hoàng, thảng thốt của con người. Nó chối từ mọi tiếc nuối, van xin, nài
nỉ. Nó khiến cho con người rơi vào trạng huống trống trải, đơn độc.
Nỗi ám
ảnh thời gian thật ra không phải đến Trương Đăng Dung mới có. Trong Thơ mới,
đặc biệt là thơ Xuân Diệu đã thể hiện rất rõ tâm trạng sợ hãi, nuối tiếc và cảm
giác cô đơn của con người trước dòng chảy thời gian. Nhưng điều đáng nói là
khác với Thơ mới, Trương Đăng Dung có một cách cảm nhận thời gian riêng: mới lạ
và độc đáo. Đỗ Lai Thúy đã rất tinh tế khi nhận ra rằng “Thơ Trương Đăng Dung
đôi khi còn vương lại chút thời gian cũ như chiếc lá cuối cùng của mùa đông
trước. Nhưng, nhìn chung, thơ anh đã có một thời gian khác. Nếu thời - gian -
Thơ - mới là thứ thời gian, dù chi phối con người một cách rốt ráo, thì vẫn cứ
là cái bên ngoài con người, là khung của một đời người. Trong khi đó thời -
gian - thơ - Trương - Đăng - Dung là thời gian bên trong con người, thời gian
chính là con người”. Trong Thơ mới, thời gian được cảm nhận từ ngoại giới, từ
thiên nhiên, từ đặc trưng mùa… Nói chung là từ những thứ ở bên ngoài con người
và con người cảm nhận nó bằng cảm xúc riêng của mình. Xuân Diệu từng sợ hãi,
cuống quýt trước thời gian khi nhận ra “Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc/
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi/ Chim chuyền cành bỗng đứt tiếng reo thi/
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa” (Vội
vàng). Với Trương Đăng Dung “Anh
không thấy thời gian trôi” nhưng lạ thay thời gian lại trở thành nỗi khắc khoải
khôn nguôi trong thơ. Con người không thấy thời gian trôi, bởi thời gian ở đây
không đến từ bên ngoài, tác động vào giác quan con người mà ngược lại là thời
gian ở bên trong con người, thuộc về con người - thời gian bản thể. “Anh không
thấy thời gian trôi” nhưng lại cảm thấy sự thay đổi của vạn vật. Thời gian là
máu thịt, ẩn trong tóc trong môi, rình rập trong hơi thở, len lỏi khắp tâm hồn:
“thời gian ở trong máu,
không lời
ẩn mình trong khoé mắt, làn
môi
trong dáng em đi nghiêng
nghiêng như đang
viết lên mặt đất thành lời
về kiếp người ngắn ngủi”
(Anh không thấy thời gian trôi)
Có thể nói, trong cách cảm
nhận thời gian với ý nghĩa “thời gian là tồn tại”, Trương Đăng Dung đã góp một
tiếng nói mới lạ và độc đáo cho thơ - thời - gian. Nếu thời gian trong Thơ Mới
là tiếng động từ ngoại giới thì thời gian trong thơ Trương Đăng Dung là tiếng
rít từ thẳm sâu con tim người. Nỗi cô đơn trước thời gian trong thơ ông, vì thế
cũng là nỗi cô đơn khởi phát từ bên trong con người. Cái lạnh đến từ bên ngoài
thì còn có thể sưởi ấm. Nhưng cái lạnh trong
tâm hồn thì làm sao sưởi được. Nỗi cô đơn dâng trào tạo ra cảm giác sợ hãi.
Sợ thời gian qua mau, sợ tuổi trẻ chóng tàn, sợ hạnh phúc và tình yêu tan biến:
“Sợ thời gian rình trong
từng sợi tóc
khi môi ta rời nhau
hơi ấm đã thuộc về quá khứ”
(Vật chứng)
Nhiều lúc Trương Đăng Dung
còn lạ hoá thời gian, tạo ra một thứ thời gian phi lý. Thời gian của những kỉ
niệm từ “một
ngày tháng Năm năm 1054” (Những kỉ niệm tưởng tượng), của cuộc gặp gỡ “hai mươi
ba ngàn năm về trước” (Có thể)… Kiểu thời gian này mang ý nghĩa giễu nhại, có
tác dụng giúp người đọc hình dung được sự vô nghĩa của cuộc đời và cảm nhận
được hết nỗi cô đơn trống vắng của kiếp người trong cuộc nhân sinh. Con - người
- thơ Trương Đăng Dung đã sống hàng nghìn năm, thậm chí hàng chục nghìn năm vẫn
thấy cuộc đời là vô nghĩa lý thì khoảng thời gian mấy mươi năm trong giới hạn
một đời người có đáng kể gì.
Sự chóng vánh của thời gian,
sự vô thường của kiếp người thực ra là quy luật. Đã là quy luật thì không thể
khác. Trương Đăng Dung hiểu rõ điều này. Ông ý thức một cách sâu sắc giới hạn
của đời người và ý nghĩa của kiếp người. Song dẫu thế vẫn không khỏi trăn trở,
băn khoăn, tiếc nuối trước sự mỏng manh chóng tàn của tuổi trẻ, trước ranh giới
của sự sống và cái chết, của tồn tại và hư vô. Có lẽ vì thế mà câu thơ “kiếp
người ngắn ngủi” trở đi trở lại trong thơ ông như một tiếng thở dài. Nhà thơ
luôn luôn nghĩ về cái mất - còn, vô vị - có ý nghĩa trong cuộc đời. Có những
người sống cả đời không để lại được dư âm, ngược lại có những người chỉ trong
một khoảnh khắc mà ghi danh đến nghìn năm. Cái khoảng cách thời
gian
tưởng xa vời vợi mà đôi khi lại thật gần. Và vì không thể được trả lời, không
có ai đáp lời nên chúng vẫn mang tính chất một cảm xúc dồn nén, suy tư một
chiều. Cô đơn thòi gian trong thơ Trương Đăng Dung vì thế là
kiểu cô đơn chủ động.
3.3.2. Đối thoại thời gian trong thơ Mai Văn Phấn
Mai Thị Liên Giang cho
rằng: “Thời gian và sự biến đổi của vũ trụ, của thế giới luôn là vấn đề quan
trọng được các thi sĩ quan tâm. Bản chất của đối thoại là hỏi, nghe, trả lời,
đồng ý. Con người khi đã ra đi nhưng những cuộc đối thoại có ý nghĩa với đời sẽ
luôn ở lại. Mỗi nhà thơ đều trải nghiệm, đối thoại với thời gian theo cách của
mình. Trong hành trình đi tìm cái không thể nhìn thấy, các thi sĩ thường bị
ngăn cách với thời gian, với thế giới về mặt ý hướng, mục đích và sự hiểu biết.
Bức tường ngăn cách bất khả thấu của thời gian vừa thử thách họ, vừa gọi mời họ
đối thoại, vừa khuyến khích họ tìm cách vượt qua” [17]. Mai Văn Phấn ý thức
được vẻ đẹp, giá trị của mình, con người nhân văn thời đại đầy tự tin khi đứng
trước thiên nhiên, vũ trụ. Thần thánh, luật lệ, những điều trước đây tưởng
chừng thiêng liêng, bất di bất dịch nay đã phần nào mất đi ưu thế của nó, phơi
ra bộ mặt phàm trần. Thời gian với tư cách là một quy luật của thiên nhiên, tạo
hóa do vậy cũng không phải là cái gì quá xa vời - dù nó vô cùng ghê gớm, có sức
mạnh. Với Trương Đăng Dung, thời gian là đối tượng để suy tư, trăn trở, chỉ
mong “qua kiếp người ngắn ngủi” còn với Mai Văn Phấn, thời gian là đối tượng để
trao đổi, trò chuyện, thậm chí thách thức. Đối thoại như là môi trường sống
đích thực của ngôn ngữ “trong tính toàn vẹn, cụ thể và sinh động của nó”. Xu
hướng của nhà thơ hướng về đối tượng phản ánh bằng sự sôi nổi, nguồn nhiệt hứng
không che giấu. Nó đối lập với giọng trầm ngâm, suy tưởng, giàu tính hướng nội
trong thơ Trương Đăng Dung. Giọng điệu này thể hiện qua hệ thống từ ngữ, cách
tổ chức hình ảnh, tổ chức câu, cách kết cấu bài thơ và nhịp điệu thơ.
Mai Văn Phấn miêu tả thời gian từ
ngôi thứ nhất và đặt các đối tượng ở ngôi thứ hai như trong đối thoại trực tiếp.
Trừ một số bài thuần túy bộc lộ tâm trạng, cảm xúc của nhân vật trữ tình, còn
lại tính “hướng ngoại” thể hiện rất rõ qua việc các bài thơ luôn hướng đến một
đối tượng cụ thể, xác định. Ta nghe trong đó không chỉ có lời của nhà thơ mà
còn có cả âm vang của người đối diện. Nhà thơ như đang trò chuyện bằng giọng
tâm tình, đầy cảm thông thấu hiểu: “Tôi đau giấc mơ cây cỏ úa vàng, trút xuống
từng cơn thiếu máu. Lá khô đưa tôi về một thời mất máu, một thời khinh rẻ máu,
một thời gian lận máu, một thời lợi dụng, tụng ca máu. Một vong linh không rõ
giới tính đu lên cuống một chiếc lá và xưng danh từng là giọt máu. Ngọn cây và
con chim sâu gần đó vội vã lắc đầu, rồi không tranh luận với vong linh ấy nữa”
(Trường
ca - Thời tái chế)
Hay khi nài nỉ thuyết phục:
“Dấu chân xin cát chớ vùi
Cho ta về lại luân hồi kiếp sau”
(Qua
hoàng hôn)
Khi tự bộc bạch để đưa ra triết lý
của bản thân:
“Không phải nơi nào khác
Mà chính từ bông cỏ may kia
Đang làm nên một ngày tuyệt đẹp
Tôi rảo bước đến quán café gần nhất
Đợi người đàn bà của tôi
Và nhìn rất lâu về phía ngọn đồi
Đúng, rất đúng
Tất cả chúng ta vừa sinh ra ở đó.”
(Nơi
cội nguồn thế giới)
Mai Văn Phấn đầy nhiệt hứng. Ông tự
nhận mình “là chiếc bình gốm hở miệng” tương thông với tất cả, giao hòa thấu
hiểu vạn vật:
“Tôi là chiếc bình gốm hở miệng
Thông với bên ngoài
Trong tôi
Vườn ươm hạt giống
Nắng sớm đang tưới
Đẫm từng gốc
Bên dòng sông
Dưới chân tôi nước rút”
(Tĩnh
lặng)
Các hình ảnh tượng trưng cho sự trôi
chảy của thời gian, khoảnh khắc nhà thơ oằn mình giữa vòng xoay của nó luôn
hiện ra sinh động như tranh vẽ:
“Những giọt rượu vẽ lại hạt giống
Dấu giày nở
Mảnh trăng mòn vẹt
Cổ
ngấn tròn lăn trong sức ép...
Vẽ
hình người chết dính
Quanh
mẩu xương ta vừa nhằn ra
Quanh
hạt cơm vô tình vương vãi
Mang
lỗi lầm hình trái chín”
(Đối thoại với thời gian)
Nhà
thơ không che giấu những lo lắng, buồn rầu, thôi thúc trong nội tâm mà bộc lộ
một cách tự nhiên với người trước mặt, với người đọc:
“Không gọi được ai, lạc vào ai
Rượu hút cạn
Ngón tay rỗng buốt
Nín thở nghe nước xiết
Phơi khô ươn ái sông dài
Chảy qua thân
Nặng trĩu bờ vai rậm rịch
Bước chân hốc mắt đi tìm
Oan
khiên con đò tự vẫn
Dâng
ngang ngực
Nước
mắt lửa kéo cày
Hoàng
hôn chất ngất hạt giống
Sương
giăng dài cơn mơ”
(Đối thoại với thời gian)
Để
có được hiệu quả giao tiếp tối ưu, Mai Văn Phấn còn thông qua cách tổ chức
hệ thống hình ảnh tạo ra một không khí dồn dập, khẩn trương. Hình ảnh thơ Mai
Văn Phấn
thường không đơn lẻ mà xuất hiện thành từng chùm theo từng nhóm chủ đề. Bằng
cách đó, nhà thơ gợi ra được tính khốc liệt của cuộc sống như cuộc
vật lộn trên thương trường: khi anh sinh ra là đã kí vào bản hợp đồng vay nợ tự
nhiên, anh sẽ luôn phải đối mặt với nó, không có cách nào khác, dù có người vay
nhiều, người vay ít, người được ưu ái, người không… Để người trẻ tuổi thấy sức
mạnh, sự tàn phá của thời gian, nhà thơ cũng dựng lên trước mắt người đọc hình
ảnh về những công trình vĩ đại là sản phẩm sáng tạo của con người hay vốn là
tinh túy rất cứng rắn, vững bền của tự nhiên. Đến chúng còn bị bàn tay thời
gian phá nát, huống gì một con người nhỏ bé, yếu ớt, không vũ khí, không thần
bảo hộ. Để cụ thể hóa tiến trình tất yếu thời gian đưa con người đến với cái
chết, con người khi già cỗi thì phải trở về với hư vô cũng tất yếu tựa cây cối
đến thì phải thu hoạch, không thể tránh được, và tự nhiên luôn trong tư thế sẵn
sàng thực thi bản án ấy.
“Hoa tàn cây vẫn còn đau
Hương thơm quyến luyến trên đầu cỏ
xanh.
Hồn
mình dựa chốn mong manh
Rồi
hư danh ấy cũng thành hư không.
Mắt
vừa mở với rạng đông
Chân
trời hổn hển phập phồng ngón chân”
(Kinh
cầu ban mai)
Giống như nhiều mũi tên cùng hướng
về một đích, hình ảnh góp phần thúc đẩy người đối thoại hướng về nội dung
chính. Ta
có thể hình dung chúng như những nếp gấp xếp chồng lên nhau của chiếc quạt
giấy, khi đến một độ nhất định sẽ đủ lực tạo ra gió mát. Suy cho cùng việc cứ
nói mãi về một vài vấn đề bằng những hình ảnh quen thuộc chắc chắn không thể tránh
gây sự nhàn chán cho người đọc, nhưng đọc thơ Mai
Văn Phấn,
ta vẫn luôn cảm thấy mới mẻ, hấp dẫn. “Thời gian cũng giúp
nhà thơ bừng ngộ trước vẻ đẹp vĩnh cửu của thi ca. Trong thơ Mai Văn Phấn có
phải thời gian cũng là một thực tại huyền bí thách thức tâm cảm của người đọc?”
[17].
KẾT LUẬN
Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn đều
sống trong một thời đại nhiều biến động và đều đã có chỗ đứng trong lòng bạn
đọc yêu thơ trong nước và cả nước ngoài như một biểu tượng của tình yêu thơ ca,
biểu tượng của tinh thần lao động sáng tạo đáng. Những “đứa con thơ” của họ đã
phần nào cho thấy nỗi buồn, vui, yêu ghét, xúc cảm mãnh liệt cũng như rung động
thiết tha của mỗi tác giả trên hành trình sáng tạo. Sống với hiện tại, đếm từng
nhịp thời gian, cả hai nhà thơ đều thể hiện những phút ngậm ngùi đầy nhân bản
khi nhận ra giới hạn của sự tồn tại trong cuộc sống đấy trân quý này.
Thơ Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn
có sự gặp gỡ đặc biệt trong “cảm thức
thời gian”. Thời gian là đề tài muôn thuở, giàu sức gợi mở, là cảm hứng
sáng tạo bất tận trong thơ hai ông. Hành trình của thời gian với những bước đi
âm thầm tạo nên những sự đổi thay to lớn trong cảm nhận của người nghệ sĩ. Thời
gian vô tình với sức mạnh khủng khiếp, ám ảnh tuổi trẻ, tuổi già và cái chết.
Người nghệ sĩ sống trọn vẹn và trân trọng từng khoảnh khắc của thời gian. Bởi
quá yêu đời, yêu người, yêu cái đẹp, họ thức tỉnh trong lòng mỗi người đọc niềm
trân trọng đối với từng giây phút sống. Về bản chất, sự gặp gỡ của hai thi sĩ
là sự gặp gỡ của những con người không còn nhìn thế giới như một khối thống
nhất; tĩnh tại, tuần hoàn. Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn luôn ý thức bản
thân là một phần trong thế giới “nhàu nát mưu sinh” đó, đồng thời biết thân
phận như một cá thể độc lập, có tiếng nói, cảm nhận riêng.
Bên cạnh sự gặp gỡ đó, gương mặt
thời gian trong thơ Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn mang những dấu ấn riêng,
đặc sắc, khó lẫn lộn về hình thái, dấu ấn hành xử và phương thức thể hiện thời
gian. Ở Trương Đăng Dung, thời gian mang nét buồn lặng lẽ cổ kính như dòng sông
cố giấu bao đợt sóng dưới lòng sâu, ngậm ngùi về “một kiếp người lặng lẽ” tìm
đến chỗ “tị nạn” ở nơi “em”. Thời gian mang tính phổ quát, hướng đến tính phổ
quát. Còn ở Mai Văn Phấn, thời gian mang tinh thần khởi sinh cội nguồn văn hóa -
mạnh mẽ sinh sôi rồi tàn lụi nhưng hứa hẹn tái sinh trong “tĩnh lặng”, tạo ra
hình thái “vòng cung” trong cảm thức về không - thời gian... Thời gian trong
thơ Trương Đăng Dung là thời gian của những buổi chiều, mùa thu thê lương, tê
tái trong cuộc hành trình đi về phía những ký ức. Phù hợp với chiều sâu kí ức
là giọng điệu đầy triết lí suy tư, phản ánh một con người từng trải, sớm hiểu
nhiều éo le ngang trái của đời, mang câu hỏi không lời đáp “có gì mới sau mỗi
kiếp người ? ”. Thời gian trong thơ Mai Văn Phấn thường là biểu tượng kép, mang
bóng dáng của thần Dớt uy quyền trong thần thoại Hy Lạp, có khả năng sáng tạo,
đồng thời cũng có sức hủy diệt để tái sinh. Thơ Mai Văn Phấn đôi khi xuất hiện
trong ngôn ngữ và giọng điệu đối thoại, tranh luận sôi nổi, khi nài nỉ, khi một
mực quả quyết... Ông đã cho người đọc thấy một nỗ lực cách tân sáng tạo trong
những phương thức biểu đạt phong phú, đa dạng.
Nhìn toàn cảnh thế giới thi ca
Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn, có thể đúc kết lại trong triết lý “Tìm lại
bản thể”, “trở về nguồn cội” vốn là căn cốt của đời sống nhân loại mà con người
đã lãng quên hoặc vô tình đánh mất nó. Soi rọi Cảm thức thời gian trong thơ Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn,
chúng ta hoàn toàn có cơ sở khoa học để tự tin khẳng định phẩm tính thơ của hai
tác giả là dòng thơ triết luận, luôn sáng tạo trong đa dạng cảm thức về thời gian
và không gian. Qua nhà thơ, người ta tìm
thấy tầm cỡ của thời đại (Juri
Wolker). Điều ấy đúng với hai ông. Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn là một
trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Trụ lại được trước
dòng chảy của lịch sử đời sống, chính bởi thơ hai ông đã đáo cùng được những
giá trị đời sống và nghệ thuật, vượt qua giới hạn thử thách của một thời.
Cảm thức về thời gian mang đến cho người đọc những sự cảm
nhận chiều sâu tư tưởng khi tâm hồn con người
không tìm được tiếng nói đồng điệu, không có một sợi tơ nào nối mạch cho cảm
xúc mình những liên tưởng thân quen. Cảm thức thời gian trong thơ Trương Đăng Dung và
Mai Văn Phấn mở ra một bức tranh sinh
động về trạng thái tư duy của con người trong thời hiện đại. Thơ của hai tác giả đã tạo ấn tượng cho người đọc bởi
những đặc sắc trong cảm thức về thời gian để độc giả suy ngẫm, chiêm nghiệm
trong tính đa chiều, biến ảo của nó.
Qua khảo sát Cảm
thức thời gian trong thơ Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn, có thể thấy những
nét tương đồng, điểm gặp gỡ, đồng thời phân tích và lý giải sự thể hiện của cảm
thức thời gian từ nhiều phương diện khác nhau. Bước đầu luận văn đã đánh giá
khách quan về cảm thức thời gian, gợi mở hướng vận dụng
yếu tố cảm thức thời gian để đọc hiểu và nghiên cứu các tác phẩm của hai tác
giả trong mối quan hệ so sánh, khẳng định giá trị thơ Trương Đăng Dung và Mai
Văn Phấn, những đóng góp của hai tác giả trong hành trình đổi mới thơ Việt. Bằng
kết quả khảo sát, phân tích, chúng tôi không chủ trương tìm kiếm sự khác biệt,
tương đồng mà chủ yếu muốn nhìn thấy diện mạo một thế hệ nhà thơ thời đổi mới,
mà Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn là một trong những gương mặt tiêu biểu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu văn bản
1. Lại Nguyên Ân (2017), 150
thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
2. Lê
Huy Bắc (2013), Văn học hậu hiện đại, lí
thuyết và tiếp nhận, NXB Đại học Sư phạm.
3. Henri Bénac (Nguyễn
Thế Công dịch) (2005), Dẫn giải ý nghĩa
văn chương, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
4. Nguyễn Việt Chiến (2007), Thơ
Việt Nam, tìm tòi và cách tân (1975 – 2000), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
5. Trương Đăng Dung (1998), Từ văn bản đến tác phẩm, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
6.
Trương Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học
như là quá trình, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
7.
Trương Đăng Dung (2011), Những kỷ niệm tưởng tưởng - Tác phẩm và dư luận,
Nxb Văn học, Hà Nội.
8.
Trương Đăng Dung (2012), Lời giới thiệu
tiểu thuyết Lâu đài của F.Kafka, Nxb Văn học, Hà Nội.
9.
Trương Đăng Dung (2017), Cô đơn, khát vọng
và khoảnh khắc trong thơ hiện đại, Tạp chí Thơ, số 5 & 6, Hội Nhà văn
Việt Nam, Hà Nội.
10.
Trương Đăng Dung (2020), Em là nơi anh tị
nạn, Nxb Văn học, Hà Nội.
11.
Nguyễn Đăng Duy (2001), Văn hóa tâm linh,
Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
12. Đặng
Anh Đào, Hoàng Nhân (2005), Văn học phương Tây, NXB Giáo Dục, Hà
Nội.
13.
Nguyễn Đăng Điệp (2006), Thơ Việt Nam sau
1975 – từ cái nhìn toàn cảnh, Tạp chí nghiên cứu văn học số 11.
14. Jean Chevalier Alain
Gheerbrant (2002), Từ điển biểu tượng văn
hóa thế giới, Nxb Đà Nẵng.
15.
Mai Thị Liên Giang (2015), Chủ thể tiếp
nhận và lịch sử tiếp nhận Thơ mới (chuyên luận), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
16.
Mai Thị Liên Giang (2018), An trú miền đọc
(Tiểu luận – Phê bình), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
17.
Mai Thị Liên Giang (2019), Cảm thức thời
gian trong thơ Mai Văn Phấn, Tạp chí Dạy và Học ngày nay, Kì 2-11/2019, tr
52.
18. A.
JA. Gurevich (1996), Các phạm trù văn hóa
trung cổ, Nxb Giáo dục
19.
Nguyễn Thị Bích Hải (2004), Thi pháp thơ
Đường, Nxb Giáo dục.
20. Kate Hamburger (2004), Logic học về các thể loại văn học, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
21. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng
chủ biên, 2009), Từ điển thuật ngữ văn học,
Nxb Giáo dục.
22.
Trần Mạnh Hảo (1995), Thơ - phản thơ, Nxb Văn học, Hà Nội.
23.
Cao Xuân Huy (1995), Tư tưởng văn hóa
phương Đông gợi những điểm nhìn tham
chiếu, Nxb Văn học.
24. Nguyễn
Vân Khánh (1988) Đồng hiện - cách xử lý thời gian trong truyện ngắn Dưới
bóng hoàng lan , Tạp chí Văn học và tuổi trẻ số 30/1998
25.
Đình Kính (2011), Thơ Mai Văn Phấn và
Đồng Đức Bốn khác biệt và thành công, Nxb Hội Nhà văn.
26. Đình Kính (tuyển chọn, 2011), Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn khác biệt
và thành công (Kỷ yếu hội thảo thơ tại Hải Phòng, 15/5/2011), NXB Hội nhà
văn, Hà Nội.
27. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn
(2005), Văn học Việt Nam sau 1975 những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
28. Nguyễn Đức Nam,
Lương Duy Trung (chủ biên) (2002), Văn
học phương Tây, Nxb Giáo dục.
29.
Lê Lưu Oanh (1998), Thơ trữ tình Việt Nam
(1975 - 1990), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
30.
Mai Văn Phấn (1992), Giọt nắng, Hội
Liên hiệp Văn học nghệ thuật Tp. Hải Phòng.
31.
Mai Văn Phấn (1995), Gọi xanh, Nxb Hội
nhà văn.
32.
Mai Văn Phấn (1997), Cầu nguyện ban mai,
Nxb Hải Phòng.
33.
Mai Văn Phấn (1999), Trường ca Người cùng
thời, Nxb Hải Phòng.
34.
Mai Văn Phấn (2003), Vách nước, Nxb Hội
Nhà văn.
35.
Mai Văn Phấn (2009), Hôm sau, Nxb Hội
Nhà văn.
36.
Mai Văn Phấn (2009), và đột nhiên gió thổi,
Nxb Hội Nhà văn.
37.
Mai Văn Phấn (2010), Bầu trời không mái
che, Nxb Hội Nhà văn.
38. Mai Văn Phấn (2011), Thơ tuyển Mai Văn Phấn cùng tiểu luận và trả lời phỏng vấn, Nxb Hội
Nhà văn. Hà Nội.
39.
Mai Văn Phấn (2012), hoa giấu mặt,
Nxb Hội Nhà văn.
40.
Mai Văn Phấn (2013), Vừa sinh ra ở đó,
Nxb Hội nhà văn.
41.
Mai Văn Phấn (2015), thả, Nxb Hội Nhà
văn.
42.
Mai Văn Phấn (2016), Không gian khác
(Phê bình - Tiểu luận), Nxb Hội Nhà văn.
43.
Mai Văn Phấn (2018), Tĩnh lặng, Nxb Hội
Nhà văn.
44.
Mai Văn Phấn (2018), Thời tái chế,
Nxb Hội Nhà văn.
45. Hoàng Phê (chủ biên)
(2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà
Nẵng.
46.
Nguyễn Ngọc San, Đinh Văn Thiện (1998), Từ
điển điển cố văn học, Nxb Giáo dục.
47.
Nguyễn Thành - Hồ Thế Hà (2017), Văn học
Việt Nam ba mươi năm đổi mới (1986 - 2016), Nxb Văn học, Hà Nội.
48. Nguyễn Bá Thành
(1995), Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại Việt Nam, Nxb Văn học, Hà
Nội.
49. Nguyễn Thị Quỳnh Trang (2012), Cảm thức hiện sinh trong thơ Trương Đăng
Dung, Luận văn thạc sĩ, Đại học Đại học Khoa học Huế.
Tài
liệu mạng
50. Hoàng Thụy Anh (2010), Ám ảnh thời
gian trong thơ Trương Đăng Dung, http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c215/n5880/Am-anh-thoi-gian-trong-tho-Truong-Dang-Dung.html
51. Hồ Thế Hà (2013), Thơ tạo sinh
nghĩa Mai Văn Phấn, https://phebinhvanhoc.com.vn/tho-tao-sinh-nghia-mai-van-phan/
52. Doãn Thị Hồng (2009), Cảm thức thời gian trong thơ đời Trần, http://luanvan.net.vn/luan-van/luan-van-cam-thuc-thoi-gian-trong-tho-doi-tran-74449/
53. Nguyễn Thị Minh (2010), Cảm thức
thời gian trong thơ chữ hán của Nguyễn Du và thơ Sonnet Shakespeare, http://luanvan.co/luan-van/luan-van-cam-thuc-thoi-gian-trong-tho-chu-han-nguyen-du-va-tho-sonnet-shakespeare-67075/
54.
Nguyễn Thanh Tuấn (2019), Trương Đăng
Dung từ đời sống qua khoa học, đến nghệ thuật, https://nhandan.com.vn/tho/thoi-gian-va-su-ton-tai-nhan-ban-trong-tho-truong-dang-dung-253310/
PHỤ LỤC
THỐNG KÊ CÁC BÀI THƠ CÓ CÁC HÌNH ẢNH ĐÃ ĐƯỢC PHÂN TÍCH
A. Về
thơ Trương Đăng Dung
- Anh không thấy thời gian (lá vàng, bạc màu, đêm vắng, năm tháng,
mùa thu, trời xanh, sợi tóc rụng, ban mai, kiếp người ngắn ngủi)
- Ảo ảnh (bao năm, bình minh, mặt trời, giấc mơ, kiếp người ngắn
ngủi, sẽ, một ngày kia, một lần nữa, mùa trăng sắp lụi, hiện tại, mùa hè đang
qua, cơn mưa mùa hạ, tóc bà bạc xóa, nắng nhòa)
- Trên đồi Vọng Cảnh (dòng sông, mùa xuân, hè, đến một ngày)
- Anh chiếm chổ bóng đêm (bóng đêm, khoảnh khắc, ánh sáng, ngàn đời)
- Ánh sáng này... (ánh sáng, trời không sao, mờ hơi sương, ánh sao,
trời không sao, ánh sáng)
- Vật chứng (bóng tối, thời gian, sợi tóc, quá khứ, ký ức)
- Có thể (đã, hai mươi ba ngàn năm về trước, ngày ấy, trời xanh, bao
giờ, bình minh, hoàng hôn, thời gian, ngày xưa, đến hôm nay, bến sông xưa,
những ngày thơ bé ấy, trời vẫn xanh, tự bao giờ, bốn mươi sáu ngàn năm nữa,
vẫn, trong đêm, vầng trăng, sương khói, kiếp người)
- Ba mươi năm hay ba triệu năm rồi (ba mươi năm, ba triệu năm rồi,
chưa đến ngày, bóng đổ, hoàng hôn, mặt trời, những ngày, đã, chân trời, những
mùa thu)
- Không đề (mùa xuân, trời xanh, mặt trời sắp lặn, đã, hôm nay, hôm sau,
hoàng hôn xuống)
- Anh không còn gì ngoài em (sau tuổi năm mươi, lúc sinh ra, năm
tháng, ban mai, lần nữa, mặt trời, thời gian rơi, tiếng lũ quạ)
- Thành phố phía chân trời (mùa hè, nắng, mùa thu, trăng, thời gian,
kí ức, con số đếm giay trên đồng hồ điện tử, chân trời, bình minh, mặt trời
lên)
- Chân trời (chân trời, đã, trong mơ, mặt trời, màn đêm, đêm, quả
chín, ánh trăng)
- Những bức tường (đã, trời xanh, đêm đêm, lũ quạ)
- Những người đàn bà (bình minh, bóng đêm, đêm qua)
- Những con kiến (sáng nay, chỉ mấy giây, suốt ngày, vừa, đã)
- Những kỷ niệm tưởng tượng (một ngày tháng Năm năm 1054, mặt trời,
ngày đầu tiên, đêm, rồi, vừa, sáng nay, lần thứ một ngàn, quạ, đã lâu, một ngày
kia, sẽ)
- Có một thời (một thời, lá vàng rơi)
- Tôi lại nhìn thấy họ (bình minh, suốt đêm, lại nhìn thấy, đêm đêm,
lần đầu)
- Ghi chép hè 2009 (hôm qua, hôm nay, mặt trời, lần thứ mười ba, đêm,
ngày, đã, tháng ngày, hơn nữa thế kỉ, rồi, kí ức, tuổi thơ)
- Chúa đã ra đi (đã, một trưa tháng Năm, mặt trời, sẽ, chân trời,
từng buổi, đầu tiên, mỗi buổi, vẫn)
- Giấc mơ của Kafka (chiều chiều)
- Đêm ở Roma (trong đêm, ngày mai, trời sắp sáng)
- Nơi thi sĩ đến (đang)
- Viết cho con (bây giờ, lá xanh, đám mây, mùa đông, hôm nay, thời
tuổi trẻ, mai ngày, thời con)
- Tin nhắn cho em (đêm nay, sao, kỷ niệm, ánh sáng, quá khứ, hiện
tại, tương lai, ký ức, đêm nay)
- Hai chuyến tàu (giờ xuất phát, bóng đêm, ký ức của mùa thu, rồi một
ngày)
- Ác mộng (đêm)
- Trên bàn mổ (đã, 65 năm, kí ức)
- Một lần nữa (một lần, một lần nữa, ngày
anh sinh, ngày anh sống, bóng đêm, bao lần, từng đêm, tóc bạc, từng giây phút,
kiếp làm người, mùa thu ngày một ngắn hơn)
- Bà và cháu (phía chân trời, cánh cò bay, ba tháng tuổi, sáu mươi,
tóc xanh, tóc bạc, giữa trời chiều)
- Giấc mơ của con (đêm qua, trăng, đom đóm, dưới đất còn bom, vệt
sáng, sáng nay, tuổi năm mươi, kiếp người)
- Trong quán cà phê Piano (đã, đêm đêm vẫn đến, tuổi thơ, ngày mai,
muộn)
- Đối thoại (hôm nay, thứ Hai, ngày kết thúc chiến tranh, thời gian,
thứ Ba, ngày Trái đất, thứ Tư, ngày thế giới phòng chống HIV, thứ Năm, ngày Lễ
tình yêu, thứ Sáu, ngày Người cao tuổi, thứ Bảy, Ngày cuối năm, Hiện tại)
- Độc thoại (vừa, kiếp người, đang ngày
đêm, từ thuở ấy, đã đến lúc, cuối ngày)
- Sách của Giona (nếu, sẽ)
- Sách của Gióp (ngày sinh, đám mây di chuyển)
- Sách của Aylan Kurdi (đêm ấy, đã, từng, vẫn, sau ba ngày đêm)
- Tinh thần Kafka (ký ức, vẫn)
- Đọc lại Dostoievsky (kiếp người)
- Tô Thùy Yên (đã, vẫn, mặt trời vẫn mọc,
thời gian, phía trước mờ sương, kiếp người)
- Bên mộ một nhà thơ (nước Hung mới, nỗi đau vẫn cũ, xưa, nay, trong
chiến tranh, trong hòa bình, mỗi ngày, hai mươi bốn năm rồi, thêm một lần)
- Những nẻo đường Budapest (những năm bảy
mươi, mười tám tuổi, trời xanh, đã bao lần, một ngày mai tưởng tượng, đã, lịch
sử, kí ức, ngày xưa, mùa đông, mùa hè)
- Lên cao, lên cao (hàng cây lá đỏ, đã lâu, mặt trời)
- Lưu ý (một sáng, đám mây bay, một chiều, một đêm, sợi tóc rụng)
- Như thể (thời gian hiện tại, quá khứ, tương lai, bắt đầu, kết thúc)
- Tự bạch (đầu tiên, sau chín tháng, những ngôi sao, bao đời, đêm
đêm, bình minh, bóng, cát bụi, quá khứ, tương lai)
B. Về thơ Mai Văn Phấn
- Tản mạn về cỏ (mộng mị, bóng
xế dũa mài hoàng hôn, đổ bóng, úa vàng, thời gian)
- Một mình (mây bông, tàn mùa, sáng, trăng thượng tuần, lu)
- Bên hoa (bóng ngày, ngọn đèn, trăm năm, còn chưa sáng hết, sương)
- Du ca (giấc mơ, dòng sông đã ngậm bả trầu phù sa)
- Khúc cảm mùa thu (mùa hè, một đêm, thu,
sương mù, trăng lu, úa rụng, đáy thu)
- Thay lời chim làm tổ (vừa tỉnh dậy, xuyên ngày vào đêm, giờ đã, một
thời, mảng đêm, giọt sương, hừng đông, ngày rạng, rơm xanh, mùa lên)
- Trương Chi (vầng trăng, ngày tràn đêm, đêm dài)
- Gom nhặt cuối mùa (qua sương giá đến rạng ngày, bóng mây, xửa xưa,
vừa)
- Bâng quơ (sông xưa, sợi tóc)
- Mưa cuối hạ (chiều, miền âm dương, sen tàn, thời gian, tuổi thơ)
- Lơ lững (mùa thu)
- Qua hoàng hôn (hoàng hôn, vào đêm, kiếp sau)
- Hoa ngọc trâm (sương sa cuối chiều, xuân về, bóng trăng tròn, mùa
hoa, trăm năm)
- Rượu xuân (mùa xuân)
- Kinh cầu ban mai (một mai, hoa tàn, vẫn còn, vừa mở, rạng đông)
- Không đề I (thuở dại khờ, của bây giờ)
- Em xa (mơ)
- Nước mùa xuân (mùa đông)
- Mười nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc (tháng ngày, nỗi đau xưa,
nay, mưa về nguồn)
- Em gái đi lấy chồng (từ độ, ba bốn ngày, đêm nay)
- Con ngủ (mảnh trăng, giọt đêm, đêm sương, đang mơ)
- Chiếc lá (lá rụng, dòng xanh)
- Đà Lạt thì thầm (chiều nay, sương về)
- Ảo ảnh Tháp Chàm (hoa văn rêu phủ, nghìn năm)
- Cánh chim qua (bất chợt)
- Tìm hài cho em (thuở nhỏ)
- Nghe tin em sinh con (vừa qua phút lâm bồn, hụt bước trước hoàng
hôn, chiều rỗng)
- Cảm giác mùa thu (một sớm)
- Chiều Trà Cố (chiều)
- Chiều (ngàn năm)
- Thoáng thu (sương khói, lá khô thoát xác bay lên)
- Gai (sớm, chiều)
- Hồn nhiên (khi ngủ say, như xưa lúc mẹ vắng nhà, một đời, đã, rạng
đông)
- Màu xanh (đêm đầu mùa, khi sương tan, mùa đi, bình minh, bóng tối,
cỏ cứ xanh vội vội, thời gian)
- Mơ thực (mười lăm phút, mơ dằng dặc mấy mươi năm, mộng, gió thu,
chiếc lá rơi)
- Chân thật (bỗng đôm đốm vàng, giọt sương lạnh giá, mùa xuân)
- Lời người trồng hoa (từ bãi dâu xanh đến lúc phơi tơ, nắng lụi tàn,
bốn mùa, trọn một kiếp người)
- Thu về (mùa hè,thu về, giọt sương, hôm nay là hôm nào)
- Mộng mơ (thế kỷ hăm mốt)
- Bóng mình (nắng sớm, ban mai, bóng về, trăng rằm)
- Tạ ơn bông lau (nắng bạc vàng, đêm, những thế hệ mai sau)
- Cuối xuân đầu hè (nắng, cuối mùa, cúc vàng, mới vừa về đến)
- Ngủ quên trong rừng (nắng,
đêm qua, bóng tối, mơ)
- Em (buổi sớm, mùa thu, trời xanh xanh, mây trắng, rũ bóng, cơn mơ)
- Thuốc đắng (sương rơi, vắt qua đêm lạnh, mùa xuân tràn vào, khi lớn
bằng cha bây giờ)
- Nét quê (từ thuở nào)
- Vầng trăng và con đường (vầng trăng,
sương, ánh ban mai, mảnh đêm, vừa lặn)
- Anh về (vườn xưa)
- Nghi Tàm (thời gian, hè, xưa)
- Cát bụi và tôi (ký ức tuổi thơ, bóng tối, mặt trời chiều)
- Bạn (một chiều, lá rơi, mùa
thu)
- Nhớ Hà Nội (một chiều, ngày ấy,
vừa, lối cũ, chiều)
- Tự thú trước cánh đồng (bóng
tối tràn tím rạng đông, đêm, giấc mơ, lúc giao mùa, ngày mới, nắng ấm, mùa
vàng)
- Bài ca buổi sớm (đang về, mùa
đông, lá vàng, mưa xuân, đêm vừa qua, đã mấy nghìn năm)
- Thương em (mùa xuân, tàn, vừa)
- Sợi dây im lặng
(từ đầu này đến cuối những hoang sơ, mơ, chốn cũ, đã khác rồi)
- Nỗi nhớ mùa thu (một mùa thu,
trái chín, mùa thụ phấn, chiều)
- Tiếng gọi từ những cánh đồng
(sương sớm, bao kiếp người, gốc tối âm u mà hạ, nỗi đau một thời, ban mai, lúa
vàng ươm, đang, trăng lặn sao mờ, sương giá, sớm hôm, bạc màu, bây giờ, đêm
tàn, ngày sang, đêm, ngày gió mưa, bây giờ, con Bống con Bang, thân cò lặn lội
nghìn năm trong mộng, một sớm, mưa xuân, mùa gặt trước, đọt mầm)
- Nhật kí đô thị hóa (bóng tối,
ngày thơ ấu, từng kiếp người, trăng, đêm, trứng nước, văn minh, từ cái thời Văn
Lang lúa nước, mùa thu)
- Một lần...thi pháp (khi tắt nắng,
bóng đen)
- Dấu hiệu mùa xuân (chân trời
đang ấm dần, mưa phùn)
- Khúc phóng túng (xuân đã đến,
mùa xuân khác)
- Giấc mơ đi
qua (giấc mơ đêm qua, đêm, ban ngày, nghìn năm dằng dặc, suốt đời, ban mai,
đêm đã nhạt cuối vườn, bình minh, nửa bóng đêm, trái chín, vành trăng)
- Nghi lễ cuối cùng (ánh sáng,
đêm, lá mầm)
- Hát giữa hai mùa (mùa đông,
chân trời, rạng đông, xa xưa, những đêm không sao, thời bom đạn, bình minh,
bóng đêm, hoàng hôn, thu, hoa vàng, bóng tối, giấc mơ, hai mùa, nắng mỏng,
sương thưa)
- Lúc mặt trời mọc (trước bình
minh, đêm, đêm dần sáng, mặt trời, rừng thay lá, thời gian, khoảnh khắc, mơ,
ban mai đến sớm, tổ tiên, chân trời hừng đông, tia sáng đầu tiên)
- Viết cho cây sáo (ánh sáng,
bóng tối, đêm, ban mai)
- Nước mắt (tháng ngày tàn héo
xuân xanh, từng mảng rêu phong, bao đêm)
- Em cho con bú (chiều nay, thời
gian, xa xưa)
- Đêm ở Thụy Khê (vạt cỏ xưa,
giờ, đêm nay trăng rằm)
Từ 1995 đến 2000
Trường ca: Người cùng thời
Chương I: Nhóm lửa
(bình minh, đêm, dĩ vãng, năm tháng phủ sương, ban mai, bình minh, hoàng
hôn, hình bọc trứng, khuôn mặt Âu Cơ, đêm đêm, mùa màng vàng ấm, hừng đông,
cháy dỡ đêm qua, lời hịch năm xưa, hôm nay, cọc sông Bạch Đằng, cuộc chiến
tranh, những thời thiếu nữ, giấc mơ, nay, hoàng hôn, người xưa, tổ tiên, một sớm,
những vì sao, hôm nào, bông hoa cuối vườn, con thuyền trôi đi trong sương, người
cùng thời, giờ phút lên đường, rạng đông, ban mai, sương mờ, đang, đêm qua)
Chương II: Tôi với mọi người
(đời, hết chiều, phận người mỏng, đêm đen, người xưa, một thời, ngàn năm,
trăng non, bóng đen, hừng đông, ngày sang, thời vụ, bao đời, mùa, đêm)
Chương III: Cộng hưởng 1(vừa, ngàn năm, tuổi thơ, giấc mơ, thời gian, mùa
sau, quá khứ, tương lai, xoay ngược tháng ngày, nảy mầm, giờ mở mắt, bóng đêm,
úa vàng, trổ đọt mầm, phút giây, ban mai, mùa sau, nghìn xưa, ký ức, buổi sớm,
thời mọc tóc thay răng)
Chương IV: Nỗi đau phát sáng
(mặt trời lên, vừa, một thời, mấy triều vua, ngày Trạng Trình Nguyễn Bỉnh
Khiêm từ quan, khi Nguyễn Trãi kề đầu dưới lưỡi dao đao phủ, chân trời mới,
sương mù, chiến tranh, bình minh, hoàng hôn, bóng đêm, thời bao cấp, khi phá bỏ
bức tường BERLIN, khi Xô-Viết-Liên-Bang tan rã, bây giờ, cùng thời)
Chương V: Đằm thắm mặt người
(hừng đông, thời gian, bình minh, trăng, một thời xa sau, một đời, ngày
tháng, đang khai hoa đậu quả, từ muôn năm trước, tới bây giờ, thế kỷ, nảy lộc
trong đêm mưa phùn, chiều, sáng, mùa vàng, khi mờ mịt, lúc chói lòa, lại, bốn
mùa, thưở nào)
Chương VI: Cộng hưởng II
(đã, ban mai, vầng mặt trời, đêm tối, bình minh, đêm đem, người cùng thời,
cuối hoàng hôn)
Chương VII: Mail cho em
(TỔI THƠ, KHI ĐÔI MÔI TA GẶP NHAU, THẾ KỶ, BAN MAI, GIỌT SƯƠNG MAI, HOÀNG
HÔN, ĐÃ, THỜI GIAN)
Chương VIII: Trái
tim giải thoát
(qua rồi mộng mị, rạng
đông, mùa sang, thời gian, tổ tiên, đêm ngày, hoàng hôn, chiều, ban mai, thời hồng
hoang tiền sử, đã qua nền văn minh dựng nước, từ văn minh cơ học đến ngưỡng cửa
của văn minh tâm học, mùa xuân)
Chương IX : Cộng hưởng III
(ánh trăng xanh , mặt trời vẫn thức, đêm , bóng tối, ban mai, xưa, người
xưa, người nay, ban mai, rạng đông, ánh sáng, trời xanh, tương lai, xa xưa, hồn
tổ tiên, hoàng hôn, thời gian, bây giờ, thế kỉ sau)
Chương X : Phía trước bàn chân
(giấc mơ, vừa được sinh ra, người xưa, vẫn mãi còn xanh, đời trước đời
sau, thế kỷ sau, cùng thời, đã chết)
- Khúc dạo đầu (ký ức, cơn mưa
cuối cùng thế kỷ, cũ, ban mai)
- Mũi tên bóng tối (tưởng tượng,
ngày, bốn mươi năm trước, thời gian, hoàng hôn, bóng tối)
- Nghe nana mouskousri (hiện thời, quá khứ,
hoàng hôn, ban mai)
- Bức ảnh, trái cây và giấc mơ
(ký ức, buổi sớm, ánh sáng, giấc mơ, cội nguồn, kiếp sau, đêm qua)
- Thời vụ (lại, tổ tiên, bình
minh)
- Trong căn phòng (bóng tối)
- Cấu trúc tạm thời (bóng, tia
nắng cuối chiều)
- Bây giờ mưa phùn (làm lại từ
đầu, vẫn còn, xưa, nụ mầm, mộng mị)
- Phía sau ánh
sáng (trốn màn đêm đi tìm ước mơ, giấc mơ, chân trời, bình minh)
- Giải pháp (tia sáng ngôi sao,
vẫn, xưa, một mầm cây vừa mọc)
- Sáng mùa hè (màn đêm, vừa)
- Từ một đường bay (từ ngàn
xưa)
- Đầu thu (mùa hè, mùa sen, khi
hơi thu bắt đầu phe phẩy, chiếc lá chưa vàng)
- Đổ phía khuất vầng trăng (đã
qua, trăng, lá rụng, bóng tối, những đêm không trăng)
- Dấu vết bình minh (đã, ban
mai, hạt sương, giấc mơ)
- Anh đã rơi (đang chết đi và
đang sinh sản, bóng tối)
- Chuyện hoa cúc (mùa thu, heo
may, hoa cúc, chiều, hoa tàn tới tả mùa sau)
- Tập phát âm (hôm nào, bóng tối,
vừa, đã)
- Biến tấu đêm mưa (bóng tối, hồi
tưởng, đêm, giấc mơ)
- Giọng nói (vừa tỉnh dậy, đã,
chốn cũ)
- Gương mặt em (đang, tuổi thơ
chân đất)
- Nhịp thu về (mùa thu, từ giấc
mơ mùa hạ, xác lá mủn, cao xanh về trong hốc mắt tan sương)
- Hồi sinh (lá già, ban mai,
người xưa, ngày mùa)
- Quyền lực mùa thu (mùa thu, vừa
chạy qua mùa hè)
- Hoa bằng lăng (ban chiều,
đang tối dần, mùa hè, mặt trời, nắng xế, khi chiều xuống, khi mùa thu, sẽ, hôm
nay)
- Tiếng kẹt cửa (trong cơn mơ,
lại về)
- Mùa hạ rất gần (mưa phùn,
hoàng hôn chảo lửa, gần cuối, đang)
- Bông hoa (trí nhớ, kỉ niệm,
xưa, ký ức, tưởng tượng, đã)
- Làng (lại, tổ tiên, trời rạng)
- Bài hát mùa màng (vừa mở, mùa
cũ, mùa mới, rạng đông, mùa tái sinh)
- Đất mở (hoàng hôn, ánh ngày,
tối, sương mai, vừa chảy vừa sinh nở)
- Sen (hôm qua)
- Giàn ý (mùa xuân, 03 giờ nữa)
- Nhịp điệu vẽ lối đi (trí nhớ,
bóng đen, nhòe mờ niên đại)
- Linh hồn đã bay... (bóng đêm,
chân trời, sương tan, lá rụng, bóng râm, nụ mầm vừa nhú, ối màu, vừa mơ, vẫn
còn)
- Im trôi (ký ức, sương mù, đã
cũ, hôm nay)
- Nơi trời rộng (mùa ấm nóng, đảo
lộn trật tự thời gian, quả ngọt, thóc vàng, ký ức, hạt mưa phùn)
- Được quyền nghĩ những điều đã ước
(hôm qua, mặt trời, đêm sâu, cỏ non vừa mọc)
- Đợi mùa (ký ức, sương giá,
mùi nắng, đang chờ chết)
- Đối thoại với thời gian (trái
chín, hoàng hôn, cơn mơ, sáng đâm chồi, tối đâm chồi, ánh sáng)
- Mộng du (đêm)
- Ngày đẹp trời (ký ức, đêm,
ánh trăng, một ngày dài)
- Mười bài tập mùa xuân (mưa dầm,
phiên chợ Tết cổ xưa, đã bốn mươi năm kí ức, mùa xuân, mùa hoa gạo, gió mùa
đông bắc, chuyển mùa, giao mùa, đầu mùa)
- Anh anh em em... (vừa được vẽ,
đã, ánh trăng, một sớm, đêm qua, đã đợi anh từ trước, bây giờ là mùa xuân)
- Bến cuối (tổ tiên tại thời điểm
khởi hành, quá khứ, đã chết, thời gian)
- Biến tấu con quạ (khai sinh,
mơ, đã, hoàng hôn, rạng đông, bóng râm, đang, xuyên đêm, lần đầu tiên)
- Dừng lại để suy nghĩ (tại thời
khắc, nơi ranh giới tiếp diễn và kết thúc)
- Di chứng (bình minh, quá khứ,
sau giấc ngủ dài, dĩ vãng, đã, từ đấy)
- Không quán tính (bắt đầu, đã)
- Đêm trong ý nghĩ (đêm đến, ký
ức)
- Vòng cung thời gian (níu thời
gian cong, bốn mùa, khoảnh khắc, vàng rực hoa quỳ, vòng cung thời gian)
- Những ý nghĩ không sắp đặt
(ký ức, cũ, đã)
- Niệm khúc số 18 (đang, phút
giây tưởng niệm)
- Dấu vết (kỷ niệm, đến kì sinh
nở)
Từ năm 2000 đến 2010
- Vẫn trấn tĩnh tiễn khách ra ngõ
(xong, đã bảy năm, bao giờ, vẫn, đã)
- Quay theo mái nhà (đêm, bóng
tối, đã khuất, giờ mặc niệm, kim giây quay chậm hơn hẳn kim giờ, vừa quay vừa tỉnh
dậy, thời gian)
- Anh tôi (lúc gần đất xa trời,
ký ức, trăng mọc sớm, vừa)
- Đúng vậy (lúc đi, sáng rồi tối)
- Giấc mơ vô tận
(giấc mơ gần sáng, ngôi sao soi, buổi sáng, ngày 28 tháng 12)
- Đêm lập xuân (thời gian, lập
xuân, mùa đông, bóng núi, thay mùa)
- Dậy trẻ con (đêm đêm, hoàng
hôn)
- Còn cậu hãy đứng đằng kia
(đêm nay, giấc ngủ, vì sao cuối cùng, trời tối, lúc 0 giờ, ban ngày, rạng đông,
lúc năm giờ sáng)
- Hắn (bóng tối, tiếp diễn, đã,
một dự báo về tương lai, buổi chiều)
- Nhìn kỹ (vẫn còn, hôm nay, hồi
17 giờ 30)
- Kể lại giấc mơ (đêm qua, thế
kỷ trước, lại mơ thấy, vừa thức dậy)
- Nếu (thức dậy trong nắng sớm,
mơ, đêm ngủ, bạc đầu, đêm qua)
- Chuyện còn dài (ba tháng tuổi,
kiếp trước, tiếp tục tưởng tượng)
- Sống hồn nhiên (nắng tháng
sáu, tưởng tượng ra mưa xuân)
- Bưng chậu nước lên cao (trời đang mưa, bất chợt nảy trong tưởng tượng)
- Nhắm mắt (thuở nhỏ, từ nay, khi nhắm mắt)
- Tắm đầu năm (mùa xuân về, đã,
ánh sáng, ngọn đèn)
- Mưa trong đất (hồi sinh,
trong mùa thu, mùa hạ ầm ào đổ xuống, trong nắng tháng sáu, đêm tối, ánh sáng,
bóng đèn, tổ tông, bóng tối)
- Để nhận ra anh (bóng tối, hôm
qua, tưởng tượng, trong giấc mơ)
- Những tiếng nổ nhỏ (nhưng
ngôi sao đen đổi ngôi trong nắng sớm, cuối chiều nắng hen, bắt đầu)
- Chọn cảnh (trong mơ, lúc ăn
sáng)
- Nhìn anh (hồi chuông sớm,
trăng, mùa lúa đương thì, thu)
- Mùa xuân (mùa xuân, hoa đào,
tối, tạm biệt mùa đông, mây trắng)
- Những bông hoa mùa thu (sắp
mưa, mặt trời, trái xanh níu cành chín rục, chiều muộn, mùa hạ, nắng gắt, bóng
tối, giữa mùa thu, nắng rực rỡ, ráng chiều, hừng đông, buổi sáng, chuyện hôm
qua, những nắm sáu mươi, qua mùa đông, đêm xa, hôm sau, mỗi ngày, hôm qua, từ
nhiều thế kỷ trước, tự kiếp nào chẳng biết, đang bồn chồn chờ những nụ hôn, cơn
mưa buổi sớm, giấc mơ, mùa xuân, lá vàng hồi sinh, mùa họa, úa vàng, gần sáng,
năm nay trời lập xuân muộn, còn 136...123...97 ngày, vào mùa những đàn ông bỏ tổ,
cuối mùa, ánh trăng, qua đêm, sương, hừng đông chạng vạng, đang chờ trời sáng,
ký ức, cơn mơ, đầu mùa, ráng chiều, bóng tối, giấc mơ, hoa cúc dại, hôm nay,
hoàng hôn, bóng mây, nắng sớm, sương mù, bao năm, đến chết, tái sinh, trăng
lên, ánh sáng, kiếp khác, bào thai, vài ba sợi tóc, non, mới ra ràng, lúc trăng
lên, mặt trời vừa tan trong buổi sớm, bóng tối, ngả vàng, khoảnh khắc sát mình
vào đất, nắng ấm, thời khắc chuyển mùa, bình minh, buổi chiều tà vừa tái sinh
dưới đám mây bay)
- Cửa mẫu (ánh trăng, đêm tối,
thời gian nhầm lẫn, đã khuất, đêm, mặt trăng, bình minh, chân trời, bóng tối,
giấc mơ gần sáng, nhìn thấy lần đầu, lúc cha hôn mê, mơ thành bào thai)
- Đá trong
lòng suối (lặng yên cho nước chảy, mùa xuân, lúc râm lúc nắng, lúc này)
- Giai điệu xuân (hạt nắng, mùa
nước về, chim bồ câu ra ràng, sương đêm, lũ nấm rơm mở mắt, trùm lên non nước
xanh)
- Cốm hương
(thu về, cốm non, mùa thóc nếp, chín nẫu chân mây mùa hạ, đêm)
- Nghé ơi (ban mai, khuya, nắng sớm,
giao mùa)
- Thu đến (chiếc lá kia rơi, xua
mây đen, nắng sẽ hanh hao, heo may run ngõ nhỏ, cây già, chú bê non, chiếc lá ấy
rơi, thời khắc mùa thu về đích)
- Đỉnh gió (ánh sao rơi, buổi sớm
vỡ òa, mùa xuân, chờ nảy lá mầm)
- Vườn em (sau cơn mưa, mùa thu, vặt
nắng, ban mai)
- Mùa trăng (trăng đã về, trăng
khuya, đêm lóe sáng, buổi chiều, ngày chối gắt và rạng rỡ, đây là thời khắc ái
ân, thắp sáng lãnh địa bóng tối, mùa phồn sinh thụ phấn kết hạt, thiêm thiếp
trăng khuya, ngày mai, và thế giới sẽ đổi khác)
- Hình đám cỏ (từ nay, sương
đêm nắng mới, mặt trời, ban mai, sớm nay, chuyển mùa, sớm mai thay áo mới, gần
sáng, hôm trước, lơ mơ dưới nắng, một phút, thời khắc đầu mùa, đá khô rụng xuống,
cuối chiều, thuở dại khờ xưa, buổi sớm mây trắng, bóng tối, chiếc bút và đồng hồ
tự trôi, giây phút, sương sớm ùa đến, nắng ùa đến, rạng đông chìm vào đất, hừng
đông, mười năm..., ba mươi năm..., đã lâu, tưởng tượng, lại, qua kỳ nghỉ hè,
hôm qua, đã, bình minh, buổi chiều, lại tiếp tục, tháng bảy, cầm tay nhau khi
ngủ, vạt nắng xiêu đi, tháng ngày, ngày xưa, cơn mơ, sơ sinh, bóng đêm, vừa,
chín rục, thêm đốt, bình minh, vừa sinh, đang, bóng tối, đang vượt cạn, trôi
sang kiếp khác, bình minh khác, hôm qua, ngày đến rồi!, trong giờ sinh nở, ánh
trăng khuya rơi, thời khắc bật miệng núi lửa trước bóp cò, nắng sớm, cuối hạ,
đêm tối, đêm qua lại mơ, nhớ lại, trái mùa, ban trưa, hoàng hôn, trong quá khứ,
sớm mai)
- Ở SOKCHO (ban mai, mùa hạ,
mùa xuân, tuyết, mùa đông, tin nhắn, lúc giao thừa, đêm đen, vụ mùa)
- Buổi sáng lên Yên Tử (gió
xuân hôm nào)
- Em đừng thức giấc (trong giấc mơ)
- Vô tình trong nắng sớm (đêm
qua, nắng sớm đang phủ lên đỉnh núi)
- Lên chùa (hoa bưởi mùa thu,
trái mận mùa xuân)
- Mùa hoa mận
(mưa xuân, mùa hoa, nơi cội nguồn thế giới, bình minh, buổi sớm)
- Tỉnh dậy trong mưa (ngày mù
trời, tưởng tượng, trong đêm, khoảnh khắc ấy, hạt giống, giấc mơ vẫn còn dang dở,
chợt rộ lên từng đợt lá non, mặt trời về với bóng tối, nơi đây, giờ này, trước
khi ban mai trong suốt kéo lên, hình như ngày đã muộn, vẫn dịu dàng đi xem ban
mai, sẽ, nắng hây hây, nắng xế, làm cánh đồng lúa chín rộ lên, mùa ong đi hút mật,
đang chuyển động, vừa rửa tay bằng ánh trăng lấp lóa, mùa đông, mùa xuân, hoa
loa kèn mở cánh, suốt giấc mơ, gần sáng, đã trọn kiếp mơ, một kiếp yêu tỉnh lại,
sương sớm, nhớ mình đã, giữa mùa hè, vừa hiện ra, ngày mai đang yêu, thưở ban đầu,
đang).
- Bông hoa Yên Tử (bảy trăm năm
trước).
- Buông tay cho trời rạng (em
mơ, tưởng tượng, vẫn mơ, thức dậy đổ đầy trăng vào nắng sớm, thời khắc yên
tĩnh, trời rạng, mùa hoa năm nay cũng khác, một buổi sáng, vào kiếp trước,
hoàng hôn, kìa cỗ xe mùa thu đang đến, cuồn cuộn tầng lá rụng, ánh sáng)
- Giấc mơ cây (mưa cuối đông,
tưởng tượng, đang mơ, không còn chỗ cũ, sớm mai mặt đất tỉnh dậy, mỗi ngày, hồi
sinh, để sơm mai bắt đầu một đời sống khác, tràn sương nắng, ngàn năm, rơi vào
giấc mơ, bóng tối, tưởng tượng, ánh ngày phủ vạt cỏ vừa thức dậy, khoảnh khắc sớm
mai chỉ đến một lần)
- Tiếng vỗ ngắn ( đã rữa, hôm
nay, nhìn lá khô không biết, mình đang ở quá khứ, hay tương lai, đêm qua tôi
mơ, lạc sang thời đại khác, năm ngoái)
- Thả diều trong Đại Nội Huế
(ngày ấy, hết nửa ngày, đã chiều, lại)
- Quang phổ (ánh sáng từ hàng
cây vừa tàn lụi nhường chỗ cho nắng sớm mai, đêm qua, tờ lịch vừa kết thúc một
ngày, ký ức, tưởng tượng, một sớm ta thức dậy, đêm, giấc mơ, sớm mai, một ngày
ánh sáng rút đi, bóng tối, từ nay, ánh sáng, bóng đêm vẫn còn nham nhở đâu đây,
mặt trời gần đứng bóng)
- Rời tay để bạn đi (khoảnh khắc
cuối ban mai, mỗi cuối thu)
- Đường bay (hết bình minh)
- Gặp mùa xuân (vẫn dậy sớm,
trong bình minh khác, mùa xuân ở khoảng giữa)
- Tĩnh lặng (đã, không còn, tôi lớn bằng
giấc mơ, bắt đầu ngả vàng, mới gặt, vẫn còn chỗ cũ, đang lớn, đang già, hôm
nay, bây giờ, quá khứ, tương lai, giấc mơ, tuổi thơ, bóng tối, mùa đông, lúc
hoàng hôn, hừng đông, khép lại thời gian, nén chặt bình minh vào đêm, nhiều
năm, những đốm vàng, vào mùa xuân, đêm qua trong giấc mơ, lớn nhanh như một lá
mầm, cả đời, kiếp trước, sẽ, khi tỉnh thức, khi ngủ, cho tới khi)
- Đợi (có phải mùa xuân, giấc mơ, mặt trời,
lâu rồi)
- Cố nhớ (đã, mơ, đêm qua, hình như, lần
cuối, rồi)
- Phân bua (lá khô, bình
minh, xuân về)
- Không mơ (đêm, sáng, và vẫn thế, như
không trôi)
- Rễ và đá (sớm mai)
- Trồng rau (trong mơ, đêm quá ngắn, lại tỉnh
giấc)
- Hai thời đại (hai thời đại đang
bàn giao, thuộc thời đại cũ)
- Lúc này (tối qua, giờ)
- Hạt mưa giao thừa (trong đêm, chuyển động,
tái sinh trái đất, giấc mơ)
- Có tiếng sét dưới bàn chân trụ (rơm rạ đầu
mùa)
- Nơi tuyệt đẹp (cùng giọt sương vừa thức
dậy, giây phút, đang)
- Mở (tự bao giờ, dù mới xảy ra, đã, mỗi
thế hệ, các thế hệ không sống chung mái nhà, cảnh cũ, tâm sự cũ, đêm qua mơ thấy
ánh sáng, hình như lúc ấy, hết buổi sáng, sắp)
- Đôi (giấc mơ, nơi so le mùa, vườn trăng
nghiêng, dạt dào ánh sáng, bóng tối)
- Khép cánh (tưởng tượng)
- Đầu tháng (trăng xuống nhanh, sẽ có lúc
rất vội, còn bây giờ, thì chưa)
- Đêm (còn lâu mới hết đêm)
- Chuyển vần (giọt sương)
- Trái hồng (trái chín, trái hồng vỡ, tuổi
thơ lem luốc)
- Trái cây (bóng tối, ánh sáng tinh khiết,
trái chín, tia nắng cuối chiều, ngày vẫn nung cây)
- Con bồ câu (gợi nhớ giấc mơ đêm qua, đã
chín, ngô lúa vào mùa thu hoạch)
- Đêm hoa nở (đêm, sương giá, bóng tối, trời
đã rạng, chiếc lá rụng biết mình gục vào mặt cỏ)
- Mở trong bình minh khác (bóng tối, khép
lại giấc mơ)
- Đôi chim sẻ (vừa nở, đang sôi, đã mở, mới
thổi)
- Quả phúc bồn tử (hôm qua, đã chín, sớm
nay, khuya, từ thế kỷ trước, trong đêm, mơ)
- Con thiên nga bay đi (ra đi từ rạng
đông, đêm ngày bốc hơi)
- Tôi tin (nắng sớm, đang)
- Tượng “Chàng trai ghìm cương ngựa”* ở Saint
Petersburg (trong chiều, sẽ)
- Từ pháo đài Petro – Pavlovsk (sau tiếng
đại bác lúc 12 giờ)
- Ngày thu ở nước Nga (đã khuất, đã khác,
rụng trước hoàng hôn, mùa thu, vừa nở)
- Thánh ca trong nhà thờ Vaxili Blazenui
(đi về hừng đông, vừa mới)
- Qua tầng trời (nơi không bóng tối, lúc
giao mùa)
- Nước đang chảy qua trái đất (hạt sương,
từ đêm tối, cây trong vườn vươn dậy, hoa bắt đầu nở, và bắt đầu mưa, đêm, tiếng
sấm đầu mùa chạm giấc mơ, giọt sương mát ủ trong mầm hạt, mưa xuân, từ mùa đông
năm ngoái, đàn sứa phát quang lòng biển êm).