Cảm thức thời gian trong thơ Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn (Luận văn thạc sĩ) - Nguyễn Thị Hiền

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC HUẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

 

 

 

 

Nguyễn Thị Hiền

Người hướng dẫn khoa học: TS.  Mai Thị Liên Giang

 

 

 

TS. Mai Thị Liên Giang (trái) & Ths. Nguyễn Thị Hiền

 

 

 

CẢM THỨC THỜI GIAN TRONG THƠ

TRƯƠNG ĐĂNG DUNG MAI VĂN PHẤN

 

 

 

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC VĂN HỌC

Huế, 2020

 

 

 

MỤC  LỤC

 

A. MỞ ĐẦU     

 

1. Lí do chọn đề tài 

2. Lịch sử vấn đề    

3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4. Phương pháp nghiên cứu       

5. Đóng góp của luận văn 

6. Bố cục của luận văn     

 

Chương 1. HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO CỦA TRƯƠNG ĐĂNG DUNG, MAI VĂN PHẤN VÀ VẤN ĐỀ CẢM THỨC THỜI GIAN TRONG THƠ HIỆN ĐẠI VIỆT NAM

 

1.1. Trương Đăng Dung - hành trình sáng tạo và những suy tư về thơ     

1.1.1. Hành trình sáng  tạo thơ Trương Đăng Dung 

1.1.2. Những suy tư về thơ của Trương Đăng Dung 

1.2. Mai Văn Phấn - hành trình sáng tạo và quan điểm sáng tác         

1.2.1. Hành trình sáng tạo thơ Mai Văn Phấn  

1.2.2. Quan điểm sáng tác của Mai Văn Phấn 

1.3. Khái lược về vấn đề cảm thức thời gian trong thơ hiện đại Việt Nam       

1.3.1. Thời gian qua các góc nhìn          

1.3.2. Vấn đề cảm thức thời gian trong thơ hiện đại Việt Nam

 

Chương 2. ĐIỂM GẶP GỠ VỀ CẢM THỨC THỜI GIAN TRONG THƠ TRƯƠNG ĐĂNG DUNG VÀ MAI VĂN PHẤN

          

2.1. Gương mặt thời gian 

2.1.1. Thời gian - nỗi ám ảnh thi sĩ

2.1.2. Bước đi của thời gian

2.2. Sức mạnh thời gian

2.2.1. Thời gian vô tình

2.2.2. Thời gian phôi pha

2.3. Thời gian và kiếp người

2.3.1. Thời gian hiện tại

2.3.2. Khoảnh khắc thời gian

 

Chương 3. DẤU ẤN RIÊNG TRONG THƠ TRƯƠNG ĐĂNG DUNG VÀ MAI VĂN PHẤN VỀ CẢM THỨC THỜI GIAN

 

3.1. Hình thái thời gian     

3.1.1. Thời gian tưởng tượng trong thơ Trương Đăng Dung

3.1.2. Vòng cung thời gian trong thơ Mai Văn Phấn

3.2. Dấu ấn xử sự với thời gian

3.2.1. Tiếc nuối thời gian trong thơ Trương Đăng Dung

3.2.2. Chiến đấu với thời gian trong thơ Mai Văn Phấn

3.3. Phương thức thể hiện thời gian

3.3.1. Cô đơn thời gian trong thơ Trương Đăng Dung

3.3.2. Đối thoại thời gian trong thơ Mai Văn Phấn

 

KẾT LUẬN

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

PHỤ LỤC

 

 

MỞ ĐẦU

 

1. Lí do chọn đ tài

 

1.1. Nói tới thời gian là nói tới hình thức tồn tại của thế giới và cuộc sống của con người. Như một lẽ tự nhiên vô hình, thời gian đã được các thi nhân bao đời cảm thức. Đây cũng là nỗi ám ảnh sâu thẳm trong tâm hồn các nhà thơ từ xa xưa, khi con người biết tự ý thức về bản thân, cũng như ý thức về thời gian và cho đến thời điểm hiện tại. Là con người không ai sống ngoài quy luật của tự nhiên, quy luật của thời gian. Tạo hóa cho thời gian của mỗi người là giống nhau, nhưng mỗi người lại có cảm nhận riêng về thời gian của đời mình, thời gian của đời người. Đằng sau sự cảm nhận ấy là cả một thế giới quan, nhân sinh quan gắn với khí chất, đời sống riêng tư cũng như đặc điểm dân tộc, môi trường văn hóa của mỗi cá nhân.

 

1.2. Trong số các cây bút thơ ca đương đại gây được nhiều chú ý, Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn là hai trong những thi sĩ có nhiều ấn tượng với người đọc. Trong tình hình hiện nay, làm thế nào để thơ được bạn đọc đón nhận không phải là điều dễ dàng, nhưng tác phẩm của hai nhà thơ này vẫn thu hút được sự quan tâm của đông đảo bạn đọc không chỉ trong nước mà còn ở nước ngoài. Không hẹn mà gặp Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn trong thơ đều dành mối quan tâm đặc biệt với thời gian.

 

1.3. Sự tương đồng của đặc trưng thế hệ là khởi đầu của rất nhiều nét chung khác: Cả hai nhà thơ đều là hai nghệ sĩ tài năng trong việc hoàn thiện ngôn ngữ dân tộc, ý thức cao về sứ mệnh ngòi bút, khao khát có được sự đồng cảm của người đời và nhất là sáng tác của họ luôn đau đáu những nỗi niềm nhân sinh muôn thuở. Đều là hai thi sĩ sinh trong thời kỳ chuyển giao lịch sử, cảm thấu nỗi đau chiến tranh, khát khao xây dựng và cống hiến. Nét tương đồng đưa hai con người tài hoa ở hai miền xa xứ lạ đến gần nhau, còn sự khác biệt cho phép chúng ta suy nghĩ về đặc trưng tiêu biểu của hai con người thuộc hai thế giới sáng tạo khác nhau trong cùng nỗi đam mê thơ ca.

 

Hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về nhà thơ Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn trên nhiều bình diện, yếu tố thời gian cũng đã được quan tâm bàn luận. Tuy nhiên tính đến thời điểm hiện tại thì những bài nghiên cứu về cảm thức thời gian trong thơ hai ông chỉ dừng lại trong khuôn khổ những bài viết dung lượng vừa, những bài phát biểu ngắn, chưa có công trình nào nghiên cứu về  thời gian trong cái nhìn tương quan giữa họ một cách hệ thống. Chính vì vậy chúng tôi đã chọn đề tài Cảm thức thời gian trong thơ Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn với mong muốn mang đến một cách tiếp cận thơ khác và thấy được mối tương quan nội tại trong sáng tác của hai tác giả. Hy vọng kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần khẳng định rõ hơn vị trí của hai thi sĩ khá đặc biệt trong hành trình sáng tạo và khát vọng nâng tầm thơ Việt.

 

2. Lịch sử vấn đề

 

Cho đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về thời gian nói chung trong văn học. Tuy nhiên, những đề tài nghiên cứu sâu, có hệ thống về cảm thức thời gian trong thơ Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn là chưa có. Đã có những bài báo, lời bình nói đến vấn đề thời gian trong thơ Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn nhưng chỉ nêu ra vấn đề riêng lẻ chứ chưa phân tích một cách rõ nét trong mối tương quan giữa hai tác giả.

 

Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn đều là hai nhà thơ có tài năng đặc biệt. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về tác phẩm của hai tác giả này. Ở đây chúng tôi chỉ khái quát các công trình có liên quan trực tiếp đến đề tài.

 

2.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu thời gian trong thơ Trương Đăng Dung

 

“Tác phẩm văn học như là những cấu trúc đang chờ giải mã; những cấu trúc ẩn chứa trong chúng sự thông báo...”  [6, tr.217]. Chính vì vậy mà tập thơ Những kỉ niệm tưởng tượng với 25 bài thơ ngay từ khi ra đời đã gây hiệu ứng lớn với bạn đọc.

 

Trong lễ trao giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội năm 2011 cho tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng, nhà thơ Trương Đăng Dung đã nói: “Con người là con người trong sự mong manh của kiếp sống, trong sự bất hạnh tột cùng và niềm hạnh phúc tột đỉnh của nó” [7, tr.507]. Chính tác giả cũng thừa nhận rằng: “Các nhà phê bình đã chỉ ra rất đúng về bản chất của cảm thức cô đơn, thời gian và cái chết trong tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng. Quả thực tôi đã trao cho motip khoảnh khắc một ý nghĩa quan trọng để từ đó thể hiện cảm thức thời gian trong tương quan với sự cô đơn và cái hữu hạn của kiếp người. Mỗi khoảnh khắc có thể lóe lên điều gì đó trong đời sống hiện đại, nó ẩn giấu ý nghĩa và hạnh phúc của cả cuộc đời để rồi sẽ mất đi vĩnh viễn. Và khoảnh khắc cũng chỉ là một trong những hình thức của sự cô đơn, bởi vì ở thời hiện tại tâm hồn không chỉ cô đơn trong không gian mà cô đơn cả trong thời gian. Cô đơn thời gian là khi con người một mình trong cái khoảnh khắc hiện tại, xa cách quá khứ, đối diện với tương lai mù mịt” [7, tr.508]. Điều này góp phần cho thấy rõ lực hút của cảm thức về thời gian chi phối đến hầu hết tác phẩm của ông.

 

Các nhà phê bình như Đỗ Lai Thúy, Trần Thanh Hà, Nguyễn Đăng Điệp, Insara, Đỗ Quyên, Hoàng Thụy Anh, Hoài Nam, Lê Thị Diễm Hằng, Nguyễn Vinh Huỳnh, Nguyễn Trọng Đức... đều có sự gặp gỡ trong quan niệm: Vấn đề nổi bật trong thơ Trương Đăng Dung là nỗi khắc khoải về thời gian, thân phận, kiếp người.

 

Khởi nguồn là ý kiến của nhà phê bình văn học Đỗ Lai Thúy: “Thơ Trương Đăng Dung là thơ - thời - gian... Thời - gian - thơ - Trương - Đăng - Dung là thời gian bên trong con người, thời gian chính là con người” [19].

 

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp trong bài “Thời gian và phận người trong thơ Trương Đăng Dung” đã cho rằng tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng “là tiếng cựa mình của thời gian, của tình yêu và cái chết, là nỗi bất an trước một thực tại phi lý. Đó là một thế giới ngập đầy hiện sinh trong  cái nhìn trắc ẩn của một kẻ sớm tự nguyện đứng về phe nước mắt” [7, tr.92]. Từ nhận xét này chúng ta thấy rõ, trong thơ Trương Đăng Dung cuộc sống là những áp lực, âu lo, là quá trình tìm kiếm ý nghĩa của sự tồn tại, của ý thức ám ảnh vào trong thơ.

 

Hoàng Thụy Anh với bài viết “Ám ảnh thời gian trong thơ Trương Đăng Dung” đã khẳng định: “Hầu hết các bài thơ của Trương Đăng Dung đều ngập bóng thời gian. Cái độc đáo và tinh tế của Trương Đăng Dung là cách cảm nhận thời gian” và “Nhiều cách cảm nhận tất yếu nảy sinh nhiều kiểu thời gian. Thời gian trong thơ Trương Đăng Dung được phóng chiếu tự do, không theo chiều véc-tơ” [50].

 

Tác giả Phan Tuấn Anh trong bài viết “Trương Đăng Dung thơ như là một diễn ngôn” đã tìm hiểu về những điểm mới trong thơ Trương Đăng Dung  cho rằng thi ca và lý thuyết với Trương Đăng Dung chỉ là những diễn ngôn khác nhau cho những đeo đuổi triết học nhằm biểu đạt những vấn đề triết học thống nhất và có chung cội nguồn tư tưởng” [7, tr.271]. Là một nhà lý luận khoa học làm thơ, thơ Trương Đăng Dung bộc lộ logic khoa học tự nhiên với cảm thức lý tính về thời gian hiện sinh, nhưng cũng tự phá vỡ mọi quy tắc để sáng tạo ngôn ngữ thời gian mang dấu ấn cá nhân của mình.

 

Nhà nghiên cứu Ngô Hương Giang đã khẳng định sự ảnh hưởng của nhà thơ hiện sinh Heidegger đối với thơ Trương Đăng Dung về mặt thời gian, con người sợ hãi thời gian, sợ hãi không chỉ cho mình, cho người khác mà còn vì người khác. Trong bài viết “Đọc “Những kỷ niệm tưởng tượng” của Trương Đăng Dung từ góc nhìn hiện sinh” tác giả cho rằng “ Đọc thơ Trương Đăng Dung, cái bản thể con người nơi ông cũng hao hao giống Heidegger, một ám ảnh chạy trốn, của xa lạ, của tha hương, của trầm uất [7, tr.255].

 

Tác giả Trần Thanh Hà trong “Cuộc đời không số phận” đã nói “Thơ Trương Đăng Dung bộc lộ những suy ngẫm của anh về cuộc đời không số phận... Cuộc đời không số phận mà nhà thơ muốn nói đến là niềm xót xa của anh vì kiếp người ngắn ngủi. Con người bất lực nhỏ nhoi trong trò chơi con tạo. Sống – chết mong manh vô cùng. Bởi vì mong manh đến thế nên tất cả thoáng hiện, chợt mất như ảo ảnh mà thôi. Tình yêu, hạnh phúc tưởng cầm chắc trên tay mà vụt mất tự bao giờ; thân xác kiếp người tưởng còn hiện hữu, ai ngờ chỉ còn là cát bụi phù du. Vô hạn và hữu hạn, mất và còn, có và không... là những phạm trù anh đề cập đến” [7, tr.315]

 

Trần Hoàng Thiên Kim trong bài viết “Sợ thời gian rình trong từng sợi tóc” đã nói rằng: “Song hành với một Trương Đăng Dung lý luận, người ta nhận ra một Trương Đăng Dung thi sĩ trong một thế giới cô đơn, nhiều hoài niệm, với những khắc khoải về thời gian hữu hạn của kiếp người”, “qua tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng Trương Đăng Dung đã có những khoảnh khắc cô đơn với những giây phút qua đi của tình yêu và số phận” [7, tr.449].

 

Tiếp nối là Lê Hồ Quang với “Vật chứng trước thời gian”, Đỗ Thị Thu Huyền với “Thỏa thuận với thời gian”, Trần Anh Thái với “Tái ám ảnh về một bài thơ ám ảnh”... Các tác giả gặp nhau ở quan điểm Trương Đăng Dung không nói đến thứ thời gian tồn tại khách quan, ngược lại ông quan tâm tới thời gian ở “trong máu, không lời; ẩn trong khóe mắt, làn môi”, “thời gian bên trong con người”. Tác giả Mai Thị Liên Giang trong công trình “Thất bại của cái chết trong thơ Trương Đăng Dung” đã cho rằng “Con người trong thơ ông luôn nghĩ đến tồn tại và thời gian, biết cái hữu hạn để vượt lên giới hạn, biết cái chết và vượt lên cái chết, biết sống với ý thức hiện tồn” [16, tr.10]. Cuộc sống trong thơ Trương Đăng Dung như vậy là một bản hòa tấu thời gian, sâu xa hơn đó là một khúc nhạc về thời gian buồn.

 

Như vậy, nhìn chung những ý kiến về thời gian trong thơ Trương Đăng Dung đã góp phần khẳng định “thơ Trương Đăng Dung là thơ - thời - gian. Người Việt ta, kể từ khi tiếp nhận văn minh phương Tây là bắt đầu từ giã thời gian truyền thống, thứ thời gian quay theo vòng quay của mùa màng hoặc sự tuần hoàn của vũ trụ, để chấp nhận thời gian khoa học, tuyến tính. Từ đó, với họ, thời gian một mặt là sự thành công, là của cải, tiền bạc, mặt khác là cái chết, một cái chết không thể đảo ngược, không thể cứu vãn. Thời gian, vì thế, trở thành một ám ảnh” [19].

 

2.2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu thời gian trong thơ Mai Văn Phấn

 

Mai Văn Phấn  là nhà thơ nhận được rất nhiều sự quan tâm và bàn luận của bạn đọc. Thơ ông có lực hút khá lớn với bạn đọc yêu thơ không chỉ trong nước mà còn ở nước ngoài.

 

Nguyễn Đức Tùng trong bài viết “Mai Văn Phấn cuộc đời quyến rũ” cho rằng “Ngôn ngữ thơ ca thức dậy mỗi ngày. Ngôn ngữ ấy nuôi dưỡng tình yêu của con người đối với thiên nhiên, sự hiểu biết và kết nối của họ, và một khả năng như thế có thể mạnh hơn những tàn phá đang xảy ra. Nhưng ngôn ngữ cũng thường trực ở dưới áp lực của thời gian, giới hạn của chiều kích trang giấy, các quy ước, của mối quan hệ giữa thấu hiểu và diễn dịch, của tính cân bằng mong manh giữa đa nghĩa và hiểu sai ý định của tác giả”.

 

Thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn là một thế giới khó nắm bắt, mà như nhà nghiên cứu Văn Giá trong bài viết “Thơ sinh ra để nói về niềm hi vọng của con người” đã khẳng định: Trong tính toàn thể nhất quán, thơ Mai Văn Phấn đã cất lên niềm hi vọng mãnh liệt và cảm động của con người, hy vọng làm nên sự sống, thăng hoa sự sống. Tắt hy vọng nghĩa là sự sống cũng lụi tàn. Và hy vọng cũng chính là sự sống. Biểu hiện thì đa dạng nhưng đích đến quy chụm. Mai Văn Phấn đã thi triển tư tưởng này một cách nhất quán, nồng nhiệt, càng về sau càng sáng tỏ… Toàn bộ thơ Mai Văn Phấn đã dựng nên một thế giới phồn sinh và hóa sinh bất định… Với người nghệ sĩ này, một xác tín hiệu hiện lên thật nhất quán: còn sự sống là còn phồn sinh và hóa sinh bất định, là còn khiến con người ta có quyền hi vọng vào những gì đẹp đẽ và nhân bản nhất. Thơ Mai Văn Phấn hát ca niềm hy vọng không bao giờ ngơi nghỉ nơi con người” [22, tr.529].

 

Theo Đỗ Minh Tuấn: “Thế giới thơ của Mai Văn Phấn luôn luôn trong trạng thái sẵn sàng bùng nổ. Một biến động dù thi nhân day dứt siêu hình, những suy tưởng miên man... tất cả đều có thể là nhỏ nhất như một tia sáng, một tiếng chim... Từ cuộc sống xung quanh vọng tới cũng có thể khởi động lên trong sứ giả của một trật tự thi ca mới mẻ đang chờ” [28, tr.148]. Mai Văn Phấn đã hoàn thành được sứ mệnh của mình và in dấu ấn rõ nét trong lòng độc giả và nhà phê bình bởi những đóng góp lớn lao trong việc tạo dựng trật tự mới.

 

Nguyễn Thanh Tâm trong bài “Lập thể của ký ức và tưởng tượng xuyên qua Bầu trời không mái che” đã  nhận định: “Thơ Mai Văn Phấn quyến luyến người đọc không phải bằng sự mượt mà du dương của vần điệu. Sức hấp dẫn của thơ anh nằm ở thế năng trong cấu trúc ngôn từ và hình ảnh. Đó chính là những lập thể của kí ức và tưởng tượng, những chồng chất, đan cài, lồng hiện của hình ảnh, hình tượng thông qua các thủ pháp nghệ thuật đã được dụng công gia cường. Như một tình nhân khó tính, thơ Mai Văn Phấn khiến người ta mất nhiều tâm sức để chinh phục và khi đã bén duyên thì không thể nào dứt ra được” [39, tr.395].

 

Tác giả Lê Hồ Quang, trong bài “Đặc trưng thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn”, nhận định: “Thơ Mai Văn Phấn là một sự chuyển động liên tục với những tìm tòi thi pháp đa dạng. Một khi quan niệm sáng tạo là nhằm hướng đến “sự khác hẳn, biệt lập (đôi khi đối lập) với cái đã được định giá”, tác giả không ngại tìm kiếm và dung nạp những cách nghĩ, cách viết mới, hiện đại, tạo nên sự giãn nở liên tục và khá rộng rãi trong biên độ sáng tạo” [32, tr.1]. Và “ thế giới thơ ông dù biến đổi hết sức đa dạng song vẫn rất nhất quán ở tinh thần vận động hướng về cái mới, không hoàn tất, khép kín mà ngược lại, sẵn sàng “mời gọi” những diễn dịch đa chiều” [32, tr.3].

 

Kim Chuông trong bài “Mai Văn Phấn lấp lánh giữa mông lung vô thức” cho rằng: “Vũ trụ đã nằm trong trái tim thi sĩ” và “Nhà thơ luôn văng mình về một phía xa khuất để cố nén và ôm trùm nơi hồn mình một ngoại giới mông lung. Một vũ trụ thiên nhiên tự nhà thơ đẻ ra các dồi dào trực giác, nhưng trực giác lại có quá trình tích lũy nào đó” [24, tr.275].

 

Nhã Thuyên trong bài “Khí quyển thơ - sinh thái của Mai Văn Phấn: thơ, bầu trời và những linh hồn” cho rằng thơ Mai Văn Phấn mang đến “không gian luôn rộng mở đón đợi người đọc cùng sáng tạo nhưng lại không dễ dàng để gọi tên cái “khí” của một người thơ miệt mài, nhẫn nại, trong lành và nhiệt huyết như Mai Văn Phấn” [24, tr.451].

 

Nguyễn Hoàng Đức, khi đề cập đến sự thay đổi bút pháp thơ Mai Văn Phấn, đã viết: “Phải nói, anh đã thể nghiệm rất nhiều bút pháp thơ từ cổ điển đến các khuynh hướng thơ hiện đại thế kỷ hai mươi và thơ văn xuôi. Tất cả đều được cày xới, chiêm nghiệm, chìm đắm đến nhuần nhị. Đọc thơ anh, có cảm giác bình thản như một nhạc công đã tu luyện thành thạo và dễ dàng biểu diễn những khúc nhạc khó nhẹ như lông hồng” [24, tr.35].

 

 Tất cả những công trình trên dù không trực tiếp khảo sát yếu tố thời gian trong thơ Mai Văn Phấn nhưng các ý kiến đều liên quan đến vấn đề cảm thức thời gian trong thơ Mai Văn Phấn từ các góc nhìn khác nhau. Gần đây nhất, có thể thấy công trình “Cảm thức thời gian trong thơ Mai Văn Phấn” của Mai Thị Liên Giang là một trong những tư liệu nghiên cứu công phu, có nhiều phát hiện mới. Đây cũng chính là những ý kiến nền tảng gợi ý cho chúng tôi thực hiện đề tài này. Khái quát cảm thức thời gian trong thơ Mai Văn Phấn, tác giả Mai Thị Liên Giang đã nhận định: “Thơ Mai Văn Phấn có sự hòa hợp với thời gian, thích nghi với sự vận hành của thời gian, chủ động đón đợi thời gian, bình tĩnh chờ thời gian đến, cảm nghiệm, trải nghiệm thời gian trong từng cung bậc cảm xúc của con người. Nhà thơ không sợ hãi, trốn chạy thời gian, cũng không chạy đua hay đố kị với thời gian, không tiếc nuối thời gian. Thi sĩ thấy rõ mình đang hành xử đúng mực với từng sát - na thời gian, chiêm nghiệm, trải nghiệm; chơi với nó một cách thú vị như trò xúc xắc. Thời gian trong thơ ông chính là con người!” [17, tr.53].

 

Như vậy, qua việc khảo sát các tư liệu, bài viết, công trình nghiên cứu về nhà thơ  Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn chúng tôi thấy rằng các nhà phê bình đã ghi nhận những cống hiến không hề nhỏ của  hai nhà thơ cho nền thơ ca Việt Nam đương đại. Khẳng định những thành quả mà nhà thơ đạt được chính là những nỗ lực không mệt mỏi trong hành trình sáng tác của họ với mong muốn đem đến cho diện mạo thơ dân tộc những đóng góp nghệ thuật mới. Mặc dù đã có sự quan tâm nhiều như vậy nhưng để khám phá hết những giá trị tiềm ẩn trong thế giới thơ của  hai thi sĩ này không hề đơn giản. Có thể nói cho đến thời điểm hiện tại (tháng 8/2020) vấn đề cảm thức thời gian trong thơ Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn vẫn chưa được nghiên cứu một cách hệ thống. Với đề tài này chúng tôi muốn đưa ra một cái nhìn hệ thống về vấn đề cảm thức thời gian trong thơ Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn, từ đó khẳng định thêm vai trò của hai nhà thơ trong tiến trình phát triển thơ Việt Nam.

 

3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu

 

3.1. Mục đích nghiên cứu

 

Mục đích của luận văn là tìm hiểu những nét tương đồng, khác biệt trong cảm thức thời gian giữa thơ Trương Đăng Dung và thơ Mai Văn Phấn, phân tích và lí giải sự thể hiện của cảm thức thời gian từ nhiều phương diện khác nhau.

 

3.2. Đối tượng nghiên cứu

 

Đối tượng khảo sát chính của luận văn là các tập thơ Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn  đã được in ấn và xuất bản. Bao gồm:

 

- Thơ Trương Đăng Dung:

 

+ Những kỷ niệm tưởng tượng (Nxb Thế giới, 2011);

+ Em là nơi anh tị nạn (Nxb Văn học, 2020).

 

- Thơ Mai Văn Phấn:

 

+ Giọt nắng (NXB Hải Phòng, 1992);

+ Gọi xanh (NXB Hội Nhà văn, 1995);

+ Cầu nguyện ban mai (NXB Hải Phòng, 1997);

+ Nghi lễ nhận tên (NXB Hải Phòng, 1999);

+ Người cùng thời (NXB Hải Phòng, 1999);

+ Vách nước (NXB Hải Phòng, 2003);

+ Hôm sau (NXB Hội Nhà văn, 2009);

+  và đột nhiên gió thổi (NXB Văn học, 2009);

+ Bầu trời không mái che (NXB Hội Nhà văn, 2010);

+ Thơ tuyển Mai Văn Phấn (thơ cùng tiểu luận và trả lời phỏng vấn, NXB Hội Nhà văn 2011);

+ hoa giấu mặt (NXB Hội Nhà văn, 2012);

+ Vừa sinh ra ở đó (NXB Hội Nhà văn, 2013);

+ thả (NXB Hội Nhà văn, 2015);

+ Tĩnh lặng (NXB Hội Nhà văn, 2018);

+ Thời tái chế (NXB Hội Nhà văn, 2018).

 

3.3. Phạm vi nghiên cứu

 

Phạm vi nghiên cứu của luận văn là cảm thức thời gian trong thơ Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn qua những điểm chung và những dấu ấn riêng. Ngoài ra chúng tôi còn khảo sát thêm một số tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, dịch thuật của hai nhà thơ, để có căn cứ khoa học khi phân tích, so sánh giữa các luận điểm trong luận văn.

 

4. Phương pháp nghiên cứu

 

- Phương pháp thống kê, phân loại: Dùng để thống kê các câu thơ, bài thơ thể hiện cảm thức thời gian (ngôn ngữ, hình ảnh, biểu tượng) trong thơ Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn, từ đó phân loại, khái quát các kiểu thời gian thể hiện trong tác phẩm, đưa chúng vào các nội dung cụ thể phục vụ cho mục đích nghiên cứu.

 

- Phương pháp so sánh, đối chiếu:  Đặt sáng tác của Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn trong cái nhìn tương quan để tìm ra những nét tương đồng, khác biệt. Chúng tôi chủ yếu sử dụng phương pháp so sánh về mặt loại hình, lí giải các tương đồng, dị biệt từ các hiểu biết về tiểu sử nhà văn cũng như đặc điểm xã hội, môi trường văn hóa mà nhà văn sống. Bên cạnh đó, đặt hai tác giả này trong mối quan hệ với các nhà thơ xuất hiện trước và sau họ để thấy nét độc đáo trên cái nền chung của thời đại cũng như trong tiến trình lịch sử văn học và đóng góp riêng của mỗi người.

 

- Phương pháp cấu trúc, hệ thống: Tạo ra tính khoa học trong luận điểm, luận cứ, luận chứng và giúp đánh giá thơ Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn trong tính chỉnh thể toàn vẹn.

 

- Phương pháp phân tích – tổng hợp: Được sử dụng xuyên suốt trong luận văn nhằm kết hợp phân tích dẫn chứng với việc đưa ra những nhận định ở các chương, các phần.

 

5. Đóng góp của luận văn

 

Luận văn hoàn thành sẽ có những đóng góp nhất định sau:

 

- Đánh giá khách quan về cảm thức thời gian trong thơ Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn.

 

- Gợi mở hướng vận dụng yếu tố cảm thức thời gian để đọc hiểu và nghiên cứu các tác phẩm của hai tác giả trong mối quan hệ so sánh.

 

- Khẳng định giá trị thơ Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn, những đóng góp của hai tác giả trong hành trình đổi mới thơ Việt. Đồng thời góp thêm một phần nhỏ trong hành trình đưa thơ Trương Đăng Dung và thơ Mai Văn Phấn đến gần hơn với độc giả.

 

- Bằng kết quả khảo sát, phân tích, chỉ ra những nét đặc sắc trong cảm thức thời gian ở hai tác giả, đặc biệt nhấn mạnh những chỗ tương đồng và dị biệt, phần nào chỉ ra nguyên nhân cũng như ý nghĩa của nó trong quá trình sáng tạo.

 

6. Bố cục của luận văn

 

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được triển khai trong 3 chương:

 

- Chương 1: Hành trình sáng tạo của Trương Đăng Dung, Mai Văn Phấn và cảm thức thời gian trong thơ hiện đại Việt Nam.

 

- Chương 2: Điểm gặp gỡ về cảm thức thời gian trong thơ Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn.

 

- Chương 3: Dấu ấn riêng trong thơ Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn về cảm thức thời gian.

 

 

 

 

NỘI DUNG

 

 

Chương 1

 

HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO CỦA TRƯƠNG ĐĂNG DUNG,

MAI VĂN PHẤN VÀ VẤN ĐỀ CẢM THỨC THỜI GIAN

TRONG THƠ HIỆN ĐẠI VIỆT NAM

 

 

1.1.Trương Đăng Dung - hành trình sáng tạo và những suy tư về thơ

 

1.1.1. Hành trình sáng  tạo thơ Trương Đăng Dung

 

Trương Đăng Dung sinh ngày 8 tháng 5 năm 1955 tại một làng quê nghèo thuộc xã Diễn Trường, huyện Diễn Châu, Nghệ An. Sau khi hoàn thành chương trình PTTH, ông sang học tập và tốt nghiệp khoa Ngữ văn thuộc Trường đại học Tổng hợp Budapest - Cộng hòa Hungari (Tốt nghiệp năm 1978). Ngay sau khi tốt nghiệp đại học, Trương Đăng Dung trở về đất nước và làm việc tại Viện Văn học. Trong quá trình làm việc và nghiên cứu, ông luôn nỗ lực nâng cao trình độ, không ngừng đổi mới và sáng tạo trong lĩnh vực khoa học nghiên cứu văn học, tích cực đưa khoa học dần tiến kịp với thế giới... Trương Đăng Dung trở lại Hungari làm nghiên cứu sinh rồi bảo vệ luận án Tiến sĩ (Năm 1984). Sau khi bảo vệ luận án Tiến sĩ, Trương Đăng Dung có đủ cơ hội và khả năng để cống hiến nhiều hơn, năm 1996 được phong tặng học vị phó Giáo sư văn học. Những nỗ lực của ông được thể hiện bằng các trọng trách quan trọng tại Viện Văn học. Thời gian học tập ở Hungary ông được tiếp xúc với tư duy lý thuyết phương Tây một cách bài bản, đồng thời được trải nghiệm các khuynh hướng sáng tác hiện đại, hậu hiện đại. Một cậu bé nhà quê nghèo khổ, sống trên một xứ sở bị bom đạn chiến tranh cày nát, đã quen với cuộc sống ấy như một điều hoàn toàn tự nhiên, giờ đây bước vào một thế giới hoàn toàn xa lạ. Trương Đăng Dung thuở ấy kể lại trong những năm đầu đại học ông sống khép mình, lạc lõng giữa bạn bè, cả Việt lẫn Hung. Trương Đăng Dung đến với hành trình “xóa mờ ranh giới” bằng thơ.

 

Trương Đăng Dung là tác giả của nhiều công trình khoa học dày dặn và những tác phẩm dịch thuật có ý nghĩa và giá trị như: Các vấn đề của khoa học văn học (chủ biên, 1990), Văn học và hiện thực (viết chung, 1990), Từ văn bản đến tác phẩm văn học (1998), Tác phẩm văn học như là quá trình (2004). Đặc biệt là công trình chuyển ngữ Truyện Kiều sang tiếng Hungary được ông hoàn thành khi chưa tròn 30 tuổi...  Người đọc còn biết đến một dịch giả uy tín Trương Đăng Dung với những dịch phẩm như: Lâu đài (F.Kafka-1998), Đứa trẻ mồ côi (Môricz Zsigmond - 2009), Trên đường đến với ngôn ngữ (M. Heidegger), Nghệ thuật và chân lí khách quan (G. Lukács), Thằng điên và quỷ sứ (tiểu thuyết Sarkadi Imre, 2000).

 

Với thơ ca, năm 2011, Trương Đăng Dung xuất bản tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng với 25 bài là tập hợp những sáng tác chọn lọc trong suốt chặng đường dài mấy chục năm ông đã sống, nhận thức và trải nghiệm thế giới. Người đọc còn thực sự choáng ngợp bởi: thời gian thơ có sức ám ảnh lạ thường, không gian thơ lạ hóa - mơ hồ, hệ thống biểu tượng thơ bắt nguồn từ chủ thể nên không còn điểm tựa ở thế giới hiện thực mà phụ thuộc vào trí tưởng tượng và quan điểm nhà thơ... Điều đặc biệt nhất trong số ấy là thế giới hiện thực đã bị xoay chiều, đảo ngược, vỡ vụn và xâm lấn lẫn nhau. Bằng lối phê bình tri âm, trong lời giới thiệu thi phẩm Những kỷ niệm tưởng tượng, nhà phê bình Đỗ Lai Thúy đã gọi tên một cách khá chính xác thơ Trương Đăng Dung: “Có thể nói, thơ Trương Đăng Dung là thơ thời - gian”. Bên cạnh những phát hiện khá thú vị, Đỗ Lai Thúy đã làm một phép so sánh giữa quan niệm thời gian trong Thơ Mới và thời gian trong thơ Trương Đăng Dung để đi đến nhận định: “Từ Thơ Mới đến thơ Trương Đăng Dung là một quá trình”. Thơ Mới, nhất là thơ Xuân Diệu, là những tiếng nói khắc khoải muốn vượt qua nỗi - ám - ảnh - thời - gian này. Thơ Trương Đăng Dung đôi khi còn vương lại chút thời gian cũ như chiếc lá cuối cùng của mùa đông trước. Nhưng, nhìn chung, thơ anh đã có một thời gian khác. Nếu thời - gian - Thơ - Mới là thứ thời gian, dù chi phối con người một cách rốt ráo, thì vẫn cứ là cái bên ngoài con người, là khung của một đời người. Trong khi đó, thời - gian - thơ - Trương - Đăng - Dung là thời gian bên trong con người, thời gian chính là con người, hay nói như M. Heidegger, một triết gia mà Trương Đăng Dung sùng mộ, “tồn tại và thời gian”, “tồn tại là thời gian”. Có lẽ, chính thứ thời gian có tính kiến tạo này đã làm cho mọi sự trên đời này đều mang tính quy ước, đều là sự thỏa thuận của ngôn ngữ, đúng hơn của trò chơi ngôn ngữ” [7, tr.86].

 

Tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng là quả ngọt của sự kết tinh trong một thời gian dài thai nghén, ấp ủ, cho thấy tính tri thức dày dặn được chuyển hóa nhuần nhuyễn qua những ưu tư, trăn trở về bản ngã, về kiếp người, về cõi nhân sinh. Những kỷ niệm tưởng tượng đặc biệt trong cách xây dựng hình ảnh tưởng tượng hư thật, ngôn từ đột phá, mới lạ bởi sự dung hòa giữa truyền thống và hiện đại, hiện đại làm mới lạ truyền thống, làm truyền thống trở nên đặc sắc, giãn dần khoảng cách. Kể từ khi tập thơ đó được xuất bản, đã có nhiều kiến chỉ ra những thành tựu và đóng góp của Trương Đăng Dung trong địa hạt thi ca. Đặc biệt là cuốn Những kỉ niệm tưởng tượng tác phẩm và dư luận ra đời năm 2014, tập hợp gần bốn mươi bài tiểu luận, bài nghiên cứu, phê bình của các tác giả trong và ngoài nước về tập thơ được đăng tải trên các tạp chí trung ương và địa phương không chỉ khẳng định sức hấp dẫn của tập thơ đối với công chứng yêu thơ mà còn có ý nghĩa thời sự trong đời sống văn học.

 

Sau Những kỷ niệm tưởng tượng, nhà thơ Trương Đăng Dung vừa cho ra mắt tập thơ Em là nơi anh tị nạn (NXB Văn học, 2020). Tập sách gồm 24 bài thơ và một tiểu luận. Sách dày 102 trang, được trình bày đẹp, tao nhã. Bìa sau có lời nhận xét của Thùy Yên (nhà thơ nổi tiếng ở miền Nam trước 1975), PGS.TS. Đỗ Lai Thúy và NXB Europa. Đây là tập thơ thứ hai của Trương Đăng Dung, sau cuốn Những kỷ niệm tưởng tượng (2011). Giống như tập trước, Em là nơi anh tị nạn cũng đậm chất triết lý, suy tư về con người và thời cuộc, tràn đầy những cảm xúc sâu lắng về tình yêu đôi lứa và tình cảm gia đình. Em là nơi anh tị nạn là một hình ảnh thơ mang tính dụ ngôn đầy sức ám gợi. Em là một hiện hữu ngoài bản thể. Hiện hữu đó, có thể là tha nhân, là một nơi chốn, là tình yêu, là thơ ca, thậm chí là là một giấc mơ, là cái đẹp, là một cõi tâm linh nào đó, để thi nhân “tị nạn” hầu đi tìm sự “cứu rỗi”, sự “thứ tha”, đi tìm “gương mặt con người” trong một thế giới luôn bất toàn. Tuy nhiên, Em là nơi anh tị nạn không chỉ có thơ tự do mà có nhiều bài thơ văn xuôi với cách diễn đạt mới lạ theo tinh thần hậu hiện tại.

 

1.1.2. Những suy tư về thơ của Trương Đăng Dung

 

Khi bàn luận về sáng tạo nghệ thuật và cá tính của người nghệ sĩ, một quy luật tất yếu của sáng tạo văn học và nghệ thuật, luôn độc đáo, luôn tạo sự khác biệt và biết làm mới mình. Nhìn lại cả một chặng đường dài của văn học, ta nhận thấy một cuộc lột xác gay gắt từ cái ta của thơ cũ sang cái tôi nhỏ bé, mỏng manh của Thơ mới, rồi lại từ những âu sầu, bi ai của thơ lãng mạn sang âm hưởng hào hùng, bi tráng của một thời đại mà cả dân tộc đứng lên chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước. Mỗi một thời kì văn học nói chung và thơ ca nói riêng lại đặt ra yêu cầu tự làm mới mình để phù hợp với hoàn cảnh của thời đại và tạo nên những cá tính riêng độc đáo.

 

Bước ra khỏi cuộc chiến tranh trường kì, bên cạnh những dư âm hào hùng của cuộc chiến thắng, các nhà thơ cũng tự xoay mình, nhìn lại những đau thương, mất mát mà cả dân tộc đang phải gánh chịu. Đứng trong tâm thế của kẻ thắng trận nhưng vẫn còn đó là những hoang tàn, đổ nát của quê hương, là những đau thương của người mẹ “khóc vì những đứa con, lần lượt ra đi mãi mãi”, là những thiếu thốn, nghèo đói. Nếu như trước 1975, các nhà thơ vẫn còn e ngại, dè dặt mỗi khi viết về những nỗi buồn thì bước sang những năm đầu của thập kỉ 80, họ lại nói nhiều hơn về nỗi buồn nhân sinh, những cảm nhận của cái tôi trước sự xoay vần nghiệt ngã của thực tại. Cắt nghĩa về thực trạng này, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp trong bài viết Thơ Việt Nam sau 1975 - diện mạo và khuynh hướng phát triển đã đưa ra hai lí do lí giải: “thứ nhất, đó là nỗi buồn xuất phát từ thời thế: sự khủng hoảng về niềm tin, sự bất an trước thời cuộc; thứ hai, trong nền kinh tế thị trường, quan hệ người trở nên lỏng lẻo, con người vừa phải sống trong nhiều mối quan hệ hơn nhưng cũng cô đơn hơn” [27, tr.380].

 

Là nhà khoa học làm thơ, Trương Đăng Dung đã rất chặt chẽ khi tạo dựng cấu trúc văn bản trên dòng tư tưởng nhất quán của mình. Ông muốn mỗi tập thơ phải có thông điệp riêng được toát ra một cách nhất quán từ vẻ đẹp của những bài thơ đứng cạnh nhau. Những kỷ niệm tưởng tượng nhất quán từ tư tưởng đến kết cấu. Cảm thức về thời gian bao trùm tập thơ, đặc biệt nhà thơ cho thấy con người đã ý thức được bước đi của thời gian và sự hữu hạn của đời người, sự mong manh của kiếp người (đó là cuộc đời). Trương - Đăng - Dung thường tuyên ngôn tác phẩm là một quá trình. Trên quá trình đó, thơ ông luôn tự thay đổi. Hoặc là bài sau viết khác hơn bài trước. Hoặc là một bài nào đó khởi thảo từ thời sinh viên cứ sửa đi sửa lại cho đến khi in được thì thôi. Đó hẳn là lý do, Trương Đăng Dung làm thơ từ tuổi 20 mà đến quá tuổi “tri thiên mệnh” mới in tập đầu tiên. Như vậy, thơ Trương Đăng Dung là một quá trình. Và, cùng với quá trình thơ ấy là quá trình người. Bởi, Trương Đăng Dung và thơ ông là một. Cả người và thơ đều ám ảnh.

 

Trương Đăng Dung không chỉ làm thơ mà còn có những suy niệm về thơ mang cảm thức triết luận khá sâu sắc: Xin đừng hỏi thơ có thể làm được gì trong một thế giới mà đến nỗi đau cũng cũ, nơi con người đang tiếp tục bị lãng quên! Thơ chỉ có thể có ích cho con người khi nói về con người một cách trung thực, theo cách của thơ!” [7, tr.509]. Thơ Trương Đăng Dung là thơ của những nỗi niềm lặng lẽ, đau đáu trước những được mất của phận người. Cảm thức triết luận là một thực thể mang tính dự phóng trong hành trình sáng tạo nghệ thuật của Trương Đăng Dung. “Tôi đã không tiếp cận các nền văn hóa theo cách phân chia chính trị về các hệ thống thế giới. Tôi cũng đã không nhìn con người theo các nhãn mác giai cấp, tôn giáo và chủng tộc. Con người là con người trong sự mong manh của kiếp sống, trong sự bất hạnh tột cùng và niềm hạnh phúc tột đỉnh của nó. Tôi đã nhận ra sự khác biệt giữa tư duy khoa học và tư duy nghệ thuật. Tôi đã nhận ra thơ  là sự khám phá và giãi bày bản thể một cách tự nguyện. Lí luận phê bình diễn giải cái thế giới nghệ thuật của nhà thơ, còn nhà thơ thì khám phá và giãi bày cái thế giới bên trong của chính mình. Tôi cần đến thơ như một diễn ngôn có khả năng thể hiện được một cách phong phú hơn, đa diện hơn cái tôi luôn bất an trước thế giới” [7, tr.507]. Trương Đăng Dung tìm đến thơ như một cách để giải tỏa những ẩn ức, nỗi niềm của bản thân mà lý luận phê bình chưa thể mang lại. Ông đã tìm thấy trong thơ một sự giao thoa, thăng hoa bản ngã, luôn ý thức về những khả năng và giới hạn của thơ, cũng như những khả năng và giới hạn của đời sống con người. Ý thức về giới hạn là cơ sở để Trương Đăng Dung hi vọng về một sự vượt thoát giới hạn.

 

Trước Heidegger, người ta luôn đối lập Tồn tại và Thời gian. Tồn tại được coi như cái bất biến, thường hằng, phi thời gian. Còn thời gian là cái gì đó luôn di động, trôi chảy, “không ai có thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông” (Heraclitus). Cái nhìn lưỡng phân đối lập này bắt nguồn từ quan niệm về hai thế giới: cõi tự tại và cõi hiện tượng. Và thế giới tự tại/ẩn tượng được coi trọng, còn thế giới hiện tượng mặc nhiên bị khinh thị. Bởi, cái này biến dịch, thay đổi theo thời gian, còn cái kia nằm ở bên kia thời gian, nên nó mới là tồn tại đích thực. Đến Heidegger, Tồn tại và Thời gian không còn đối lập nhau nữa, vì thời gian không nằm ngoài tồn tại, thời gian là một chiều kích của tồn tại. Hơn nữa, chính tồn tại cũng thay đổi, cũng biến dịch như thời gian. Nắm bắt tư tưởng này của Heidegger, Trương Đăng Dung vừa chế ngự thời gian để chữa trị những tổn thương tâm lý, vừa suy tưởng về thời gian như một khái niệm triết học.

 

Với nhìn nhận thời gian trong mối quan hệ với tồn tại như vậy, thơ Trương Đăng Dung cũng là thơ về tồn tại. Trước hết là sự hoài nghi tồn tại, đặc biệt là tồn - tại - người. Đành rằng cuộc sống người là giả tạm, là tùy duyên. Hoài nghi tồn tại sẽ dẫn đến những suy nghĩ về cái cái chết, một gặp gỡ cuối cùng tạo ra sự “đoản mạch” của Tồn tại và Thời gian. Thơ Trương Đăng Dung, vì thế, bị ám ảnh bởi sự chết, đúng hơn một cái sống thắc thỏm chờ đợi cái chết đến gõ cửa. Điều này được thể hiện ở chữ kiếp người xuất hiện với tần suất cao trong tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng (Đã tan trong sương khói/ những kiếp ngườiViết lên mặt đất thành lời/ về kiếp người ngắn ngủiCó gì mới hơn sau mỗi kiếp người…). Những bận tâm, thắc mắc, câu hỏi của Trương Đăng Dung dường như ít được người khác chia sẻ, vì thế anh rơi vào cô đơn. Lại nhớ đến câu thơ Đặng Đình Hưng: “Cô đơn toàn phần mới sinh sáng tạo”. Trong ánh cô đơn của buổi hoàng hôn của các thần tượng, thơ Trương Đăng Dung có hình ảnh một người đi tìm nghĩa. Trên hành trình tìm nghĩa ấy, gần đây Trương Đăng Dung trở về với các nhân vật, sự kiện trong Kinh Thánh, như Gióp, Giô-Na, để tìm trong nguyên ngôn những dụ ngôn của mình. Khi Trương Đăng Dung viết thơ tự do thì mỹ học hiện đại, tuy chưa phải đã thống trị, nhưng đã được thiết lập vững chắc. Không ai còn công khai phản đối thơ tự do nữa. Thơ tự do, tức hình thức của nội dung mang tính quan niệm nghệ thuật, từ tư cách một thể loại, mang tính cách mạng, chỉ còn là một thể thơ, tức hình thức của hình thức. Bởi vậy, giờ đây làm thơ tự do không có gì mới nữa. Nên muốn mới không thể ỷ vào thể thơ được nữa, mà phải đi tìm những chiều kích khác, để nâng cao phẩm tính/ chất lượng/ chiều cao của thơ. Các nhà thơ hiện nay như Dương Kiều Minh, Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn… ít nhiều đã khước từ chiều ngang xã hội để đến với chiều cao tâm linh. Họ cố gắng tìm chất thơ ở huyền thoại, tín ngưỡng dân gian, lễ hội… còn Trương Đăng Dung thì đến với chiều triết học, triết học Heidegger, triết học ngôn ngữ. Thơ Trương Đăng Dung có một thứ triết đã từ tháp ngà trở về với đời sống, trở thành đời sống trong những biểu hiện đời thường. Theo Đỗ Lai Thúy, Trương Đăng Dung là một người làm lý luận văn học, mà lý luận văn học đúng nghĩa chứ không phải đường lối chính sách, thì bao giờ cũng là bà con của triết học, tức giàu tính tư biện. Ấy là chưa kể hiện nay lý thuyết văn học cũng trở thành triết học. Thời kỳ đầu thơ Trương Đăng Dung đâu phải đã có ngôn ngữ ngay. Tuy nhiên dần dần thơ ông đã có ngôn ngữ. Dẫu chưa phải là thơ ngôn ngữ, thơ vị chữ như thơ Trần Dần, Lê Đạt, nhưng ngôn ngữ thơ Trương Đăng Dung đã có cuộc sống tự nó, sự phát triển tự thân, có một sinh mệnh riêng. Có lẽ, chính thứ thời gian có tính kiến tạo này đã làm cho mọi sự trên đời đều mang tính quy ước, đều là sự thỏa thuận của ngôn ngữ, đúng hơn của trò chơi ngôn ngữ.

 

Trương Đăng Dung quan niệm làm thơ không phải là phản ánh mà là kiến tạo ra một thế giới khác trong tưởng tượng nhưng có cơ sở từ những ảo ảnh của thế giới hiện thực. Theo Nguyễn Đăng Điệp, 40 năm theo đuổi đam mê đã thể hiện sự kiên trì của ông trong con đường thơ ca. Sự cống hiến lặng lẽ của Trương Đăng Dung cho lĩnh vực thơ ca rất đáng trân trọng. Trương Đăng Dung quan niệm: “Thơ ca có thể và cần phải là một trong những hình thức biểu hiện của tư duy triết học”. Xuất phát từ quan niệm ấy, thơ ông chọn triết học hiện sinh là nền tảng lý luận và cũng là mục đích biểu hiện. Đồng thời, ông cũng cho rằng “thơ là sự khám phá và giãi bày bản thể một cách tự nguyện”. Ông tìm đến thơ “như một diễn ngôn có khả năng thể hiện một cách phong phú hơn, đa dạng hơn cái tôi luôn bất an trước thế giới”. Chủ nghĩa hiện sinh với những quan niệm của nó về con người, thực sự đã thức chạm những xúc cảm dồn nén của Trương Đăng Dung. Rất nhiều bài thơ mang hình thức tự bạch của ông được ra đời từ sự thôi thúc bên trong của cảm hứng mang sắc màu hiện sinh. Có lẽ, điều thú vị nhất trong thơ Trương Đăng Dung là người đọc không thể tìm thấy con người, địa danh và những ranh giới cụ thể. Thế giới thơ của ông đã trở thành câu chuyện, tiếng nói chung dễ đồng cảm của con người trên khắp hành tinh này. Sự chào đón của độc giả tại Budapest đã minh chứng cho giá trị đích thực của thơ ca là vượt qua mọi giới hạn, không gian và biên giới.

 

Những kỷ niệm tưởng tượng  và Em là nơi anh tị nạn của Trương Đăng Dung gửi gắm bao tâm sự. Mỗi tác phẩm chuyển tải mỗi nỗi niềm nhà thơ, là chân dung tinh thần của chính nhà thơ qua bao thăng trầm cuộc sống. Độc giả bắt gặp ở đây con người  thâm trầm lặng lẽ, với ý thức về sự ngắn ngủi của kiếp người nhưng nhiều khi bất lực trước thời cuộc; luôn suy tư, nhiều mặc cảm chất chứa vì khó có được người tri âm tri kỉ trong hiện tại. Các tác phẩm thể hiện nhiều tâm sự u uất và những nỗi niềm khó tỏ bày, lí giải. Phảng phất trong các bài thơ là một tấm lòng xót thương vô hạn trước những bi kịch cõi nhân sinh, một cái nhìn riêng phần nào vượt thoát ra khỏi giới hạn của thời đại, dù còn chất chứa không ít bế tắc. Trương Đăng Dung đã thổi vào thơ tâm hồn, cách cảm, cách nghĩ của con người về kiếp người. Thơ ông có nhiều đóng góp đặc sắc về ngôn ngữ, kết cấu, chiều sâu tư tưởng…Ông là một tấm gương về lối sống mẫu mực, giản dị, tận tâm và phong cách làm việc khoa học, kế hoạch, nghiêm túc. Với Trương Đăng Dung trong cuộc sống phải rất nghiêm túc, nghiêm túc với chính bản thân mình: lao động nghiêm túc, học tập nghiêm túc, sinh hoạt nghiêm túc... nhất là trong nghiên cứu khoa học ông lại càng phải nghiêm túc gấp trăm lần.

 

 Khi bàn luận về sáng tạo nghệ thuật và cá tính của người nghệ sĩ, một quy luật tất yếu của sáng tạo văn học và nghệ thuật, luôn độc đáo, luôn tạo sự khác biệt và biết làm mới mình. Nhìn lại cả một chặng đường dài của văn học, ta nhận thấy một cuộc lột xác gay gắt từ cái ta của thơ cũ sang cái tôi nhỏ bé, mỏng manh của Thơ mới, rồi lại từ những âu sầu, bi ai của thơ lãng mạn sang âm hưởng hào hùng, bi tráng của một thời đại mà cả dân tộc đứng lên chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước. Mỗi một thời kì văn học nói chung và thơ ca nói riêng lại đặt ra yêu cầu tự làm mới mình để phù hợp với hoàn cảnh của thời đại và tạo nên những cá tính riêng độc đáo.

 

 Bước ra khỏi cuộc chiến tranh trường kì, bên cạnh những dư âm hào hùng của cuộc chiến thắng, các nhà thơ cũng tự xoay mình, nhìn lại những đau thương, mất mát mà cả dân tộc đang phải gánh chịu. Đứng trong tâm thế của kẻ thắng trận nhưng vẫn còn đó là những hoang tàn, đổ nát của quê hương, là những đau thương của người mẹ “khóc vì những đứa con, lần lượt ra đi mãi mãi”, là những thiếu thốn, nghèo đói. Nếu như trước 1975, các nhà thơ vẫn còn e ngại, dè dặt mỗi khi viết về những nỗi buồn thì bước sang những năm đầu của thập kỉ 80, họ lại nói nhiều hơn về nỗi buồn nhân sinh, những cảm nhận của cái tôi trước sự xoay vần nghiệt ngã của thực tại. Cắt nghĩa về thực trạng này, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp trong bài viết Thơ Việt Nam sau 1975 - diện mạo và khuynh hướng phát triển đã đưa ra hai lí do lí giải: “thứ nhất, đó là nỗi buồn xuất phát từ thời thế: sự khủng hoảng về niềm tin, sự bất an trước thời cuộc; thứ hai, trong nền kinh tế thị trường, quan hệ người trở nên lỏng lẻo, con người vừa phải sống trong nhiều mối quan hệ hơn nhưng cũng cô đơn hơn” [27, tr.380].

 

 Là nhà khoa học làm thơ, Trương Đăng Dung đã rất chặt chẽ khi tạo dựng cấu trúc văn bản trên dòng tư tưởng nhất quán của mình. Ông muốn mỗi tập thơ phải có thông điệp riêng được toát ra một cách nhất quán từ vẻ đẹp của những bài thơ đứng cạnh nhau. Những kỷ niệm tưởng tượng nhất quán từ tư tưởng đến kết cấu. Cảm thức về thời gian bao trùm tập thơ, đặc biệt nhà thơ cho thấy con người đã ý thức được bước đi của thời gian và sự hữu hạn của đời người, sự mong manh của kiếp người (đó là cuộc đời). Trương - Đăng - Dung thường tuyên ngôn tác phẩm là một quá trình. Trên quá trình đó, thơ ông luôn tự thay đổi. Hoặc là bài sau viết khác hơn bài trước. Hoặc là một bài nào đó khởi thảo từ thời sinh viên cứ sửa đi sửa lại cho đến khi in được thì thôi. Đó hẳn là lý do, Trương Đăng Dung làm thơ từ tuổi 20 mà đến quá tuổi “tri thiên mệnh” mới in tập đầu tiên. Như vậy, thơ Trương Đăng Dung là một quá trình. Và, cùng với quá trình thơ ấy là quá trình người. Bởi, Trương Đăng Dung và thơ ông là một. Cả người và thơ đều ám ảnh.

 

 Trương Đăng Dung không chỉ làm thơ mà còn có những suy niệm về thơ mang cảm thức triết luận khá sâu sắc: Xin đừng hỏi thơ có thể làm được gì trong một thế giới mà đến nỗi đau cũng cũ, nơi con người đang tiếp tục bị lãng quên! Thơ chỉ có thể có ích cho con người khi nói về con người một cách trung thực, theo cách của thơ!” [7, tr.509]. Thơ Trương Đăng Dung là thơ của những nỗi niềm lặng lẽ, đau đáu trước những được mất của phận người. Cảm thức triết luận là một thực thể mang tính dự phóng trong hành trình sáng tạo nghệ thuật của Trương Đăng Dung. “Tôi đã không tiếp cận các nền văn hóa theo cách phân chia chính trị về các hệ thống thế giới. Tôi cũng đã không nhìn con người theo các nhãn mác giai cấp, tôn giáo và chủng tộc. Con người là con người trong sự mong manh của kiếp sống, trong sự bất hạnh tột cùng và niềm hạnh phúc tột đỉnh của nó. Tôi đã nhận ra sự khác biệt giữa tư duy khoa học và tư duy nghệ thuật. Tôi đã nhận ra thơ  là sự khám phá và giãi bày bản thể một cách tự nguyện. Lí luận phê bình diễn giải cái thế giới nghệ thuật của nhà thơ, còn nhà thơ thì khám phá và giãi bày cái thế giới bên trong của chính mình. Tôi cần đến thơ như một diễn ngôn có khả năng thể hiện được một cách phong phú hơn, đa diện hơn cái tôi luôn bất an trước thế giới” [7, tr.507]. Trương Đăng Dung tìm đến thơ như một cách để giải tỏa những ẩn ức, nỗi niềm của bản thân mà lý luận phê bình chưa thể mang lại. Ông đã tìm thấy trong thơ một sự giao thoa, thăng hoa bản ngã, luôn ý thức về những khả năng và giới hạn của thơ, cũng như những khả năng và giới hạn của đời sống con người. Ý thức về giới hạn là cơ sở để Trương Đăng Dung hi vọng về một sự vượt thoát giới hạn.

 

 Trước Heidegger, người ta luôn đối lập Tồn tại và Thời gian. Tồn tại được coi như cái bất biến, thường hằng, phi thời gian. Còn thời gian là cái gì đó luôn di động, trôi chảy, “không ai có thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông” (Heraclitus). Cái nhìn lưỡng phân đối lập này bắt nguồn từ quan niệm về hai thế giới: cõi tự tại và cõi hiện tượng. Và thế giới tự tại/ẩn tượng được coi trọng, còn thế giới hiện tượng mặc nhiên bị khinh thị. Bởi, cái này biến dịch, thay đổi theo thời gian, còn cái kia nằm ở bên kia thời gian, nên nó mới là tồn tại đích thực. Đến Heidegger, Tồn tại và Thời gian không còn đối lập nhau nữa, vì thời gian không nằm ngoài tồn tại, thời gian là một chiều kích của tồn tại. Hơn nữa, chính tồn tại cũng thay đổi, cũng biến dịch như thời gian. Nắm bắt tư tưởng này của Heidegger, Trương Đăng Dung vừa chế ngự thời gian để chữa trị những tổn thương tâm lý, vừa suy tưởng về thời gian như một khái niệm triết học.

 

 Với nhìn nhận thời gian trong mối quan hệ với tồn tại như vậy, thơ Trương Đăng Dung cũng là thơ về tồn tại. Trước hết là sự hoài nghi tồn tại, đặc biệt là tồn - tại - người. Đành rằng cuộc sống người là giả tạm, là tùy duyên. Hoài nghi tồn tại sẽ dẫn đến những suy nghĩ về cái cái chết, một gặp gỡ cuối cùng tạo ra sự “đoản mạch” của Tồn tại và Thời gian. Thơ Trương Đăng Dung, vì thế, bị ám ảnh bởi sự chết, đúng hơn một cái sống thắc thỏm chờ đợi cái chết đến gõ cửa. Điều này được thể hiện ở chữ kiếp người xuất hiện với tần suất cao trong tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng (Đã tan trong sương khói/ những kiếp ngườiViết lên mặt đất thành lời/ về kiếp người ngắn ngủiCó gì mới hơn sau mỗi kiếp người…). Những bận tâm, thắc mắc, câu hỏi của Trương Đăng Dung dường như ít được người khác chia sẻ, vì thế anh rơi vào cô đơn. Lại nhớ đến câu thơ Đặng Đình Hưng: “Cô đơn toàn phần mới sinh sáng tạo”. Trong ánh cô đơn của buổi hoàng hôn của các thần tượng, thơ Trương Đăng Dung có hình ảnh một người đi tìm nghĩa. Trên hành trình tìm nghĩa ấy, gần đây Trương Đăng Dung trở về với các nhân vật, sự kiện trong Kinh Thánh, như Gióp, Giô-Na, để tìm trong nguyên ngôn những dụ ngôn của mình. Khi Trương Đăng Dung viết thơ tự do thì mỹ học hiện đại, tuy chưa phải đã thống trị, nhưng đã được thiết lập vững chắc. Không ai còn công khai phản đối thơ tự do nữa. Thơ tự do, tức hình thức của nội dung mang tính quan niệm nghệ thuật, từ tư cách một thể loại, mang tính cách mạng, chỉ còn là một thể thơ, tức hình thức của hình thức. Bởi vậy, giờ đây làm thơ tự do không có gì mới nữa. Nên muốn mới không thể ỷ vào thể thơ được nữa, mà phải đi tìm những chiều kích khác, để nâng cao phẩm tính/ chất lượng/ chiều cao của thơ. Các nhà thơ hiện nay như Dương Kiều Minh, Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn… ít nhiều đã khước từ chiều ngang xã hội để đến với chiều cao tâm linh. Họ cố gắng tìm chất thơ ở huyền thoại, tín ngưỡng dân gian, lễ hội… còn Trương Đăng Dung thì đến với chiều triết học, triết học Heidegger, triết học ngôn ngữ. Thơ Trương Đăng Dung có một thứ triết đã từ tháp ngà trở về với đời sống, trở thành đời sống trong những biểu hiện đời thường. Theo Đỗ Lai Thúy, Trương Đăng Dung là một người làm lý luận văn học, mà lý luận văn học đúng nghĩa chứ không phải đường lối chính sách, thì bao giờ cũng là bà con của triết học, tức giàu tính tư biện. Ấy là chưa kể hiện nay lý thuyết văn học cũng trở thành triết học. Thời kỳ đầu thơ Trương Đăng Dung đâu phải đã có ngôn ngữ ngay. Tuy nhiên dần dần thơ ông đã có ngôn ngữ. Dẫu chưa phải là thơ ngôn ngữ, thơ vị chữ như thơ Trần Dần, Lê Đạt, nhưng ngôn ngữ thơ Trương Đăng Dung đã có cuộc sống tự nó, sự phát triển tự thân, có một sinh mệnh riêng. Có lẽ, chính thứ thời gian có tính kiến tạo này đã làm cho mọi sự trên đời đều mang tính quy ước, đều là sự thỏa thuận của ngôn ngữ, đúng hơn của trò chơi ngôn ngữ.

 

 Trương Đăng Dung quan niệm làm thơ không phải là phản ánh mà là kiến tạo ra một thế giới khác trong tưởng tượng nhưng có cơ sở từ những ảo ảnh của thế giới hiện thực. Theo Nguyễn Đăng Điệp, 40 năm theo đuổi đam mê đã thể hiện sự kiên trì của ông trong con đường thơ ca. Sự cống hiến lặng lẽ của Trương Đăng Dung cho lĩnh vực thơ ca rất đáng trân trọng. Trương Đăng Dung quan niệm: “Thơ ca có thể và cần phải là một trong những hình thức biểu hiện của tư duy triết học”. Xuất phát từ quan niệm ấy, thơ ông chọn triết học hiện sinh là nền tảng lý luận và cũng là mục đích biểu hiện. Đồng thời, ông cũng cho rằng “thơ là sự khám phá và giãi bày bản thể một cách tự nguyện”. Ông tìm đến thơ “như một diễn ngôn có khả năng thể hiện một cách phong phú hơn, đa dạng hơn cái tôi luôn bất an trước thế giới”. Chủ nghĩa hiện sinh với những quan niệm của nó về con người, thực sự đã thức chạm những xúc cảm dồn nén của Trương Đăng Dung. Rất nhiều bài thơ mang hình thức tự bạch của ông được ra đời từ sự thôi thúc bên trong của cảm hứng mang sắc màu hiện sinh. Có lẽ, điều thú vị nhất trong thơ Trương Đăng Dung là người đọc không thể tìm thấy con người, địa danh và những ranh giới cụ thể. Thế giới thơ của ông đã trở thành câu chuyện, tiếng nói chung dễ đồng cảm của con người trên khắp hành tinh này. Sự chào đón của độc giả tại Budapest đã minh chứng cho giá trị đích thực của thơ ca là vượt qua mọi giới hạn, không gian và biên giới.

 

 Những kỷ niệm tưởng tượng Em là nơi anh tị nạn của Trương Đăng Dung gửi gắm bao tâm sự. Mỗi tác phẩm chuyển tải mỗi nỗi niềm nhà thơ, là chân dung tinh thần của chính nhà thơ qua bao thăng trầm cuộc sống. Độc giả bắt gặp ở đây con người  thâm trầm lặng lẽ, với ý thức về sự ngắn ngủi của kiếp người nhưng nhiều khi bất lực trước thời cuộc; luôn suy tư, nhiều mặc cảm chất chứa vì khó có được người tri âm tri kỉ trong hiện tại. Các tác phẩm thể hiện nhiều tâm sự u uất và những nỗi niềm khó tỏ bày, lí giải. Phảng phất trong các bài thơ là một tấm lòng xót thương vô hạn trước những bi kịch cõi nhân sinh, một cái nhìn riêng phần nào vượt thoát ra khỏi giới hạn của thời đại, dù còn chất chứa không ít bế tắc. Trương Đăng Dung đã thổi vào thơ tâm hồn, cách cảm, cách nghĩ của con người về kiếp người. Thơ ông có nhiều đóng góp đặc sắc về ngôn ngữ, kết cấu, chiều sâu tư tưởng… Ông là một tấm gương về lối sống mẫu mực, giản dị, tận tâm và phong cách làm việc khoa học, kế hoạch, nghiêm túc. Với Trương Đăng Dung trong cuộc sống phải rất nghiêm túc, nghiêm túc với chính bản thân mình: lao động nghiêm túc, học tập nghiêm túc, sinh hoạt nghiêm túc... nhất là trong nghiên cứu khoa học ông lại càng phải nghiêm túc gấp trăm lần.

 

1.2. Mai Văn Phấn - hành trình sáng tạo và quan điểm sáng tác

 

1.2.1. Hành trình sáng tạo thơ Mai Văn Phấn

 

Nhà thơ Mai Văn Phấn sinh năm 1955, tại một làng quê của tỉnh Ninh Bình, miền Bắc Việt Nam, ông tốt nghiệp đại học ngoại ngữ Hà Nội, sau đó đi du học Liên Xô (cũ). Mai Văn Phấn yêu thơ, ôm mộng và làm thơ từ khi còn là cậu bé mười sáu, mười bảy tuổi. Bài thơ đầu tay Hoa xoan ghi dấu lại những ngày tháng sống và chiến đấu gian khổ trong quân ngũ của Mai Văn Phấn. Cũng từ đây, nhà thơ bắt đầu có những trăn trở về con đường thơ của mình, ông cách tân, tìm đến một diện mạo khác cho thơ Việt đương đại. Là nhà thơ thuộc thế hệ hậu chiến, một trong những cây bút xuất sắc của dòng thơ cách tân sau 1975, những tác phẩm của ông đã góp phần không nhỏ trong cuộc cách tân thơ ca Việt Nam. Mai Văn Phấn đã tìm cho mình một giọng thơ riêng rất tinh tế với những cảm xúc sâu lắng và ngôn từ trau chuốt. Nhà thơ đã cho ra đời hàng loạt các tác phẩm ấn tượng: Giọt nắng (1992), Gọi xanh (1995), Cầu nguyện ban mai (1997), Nghi lễ nhận tên (1999), Người cùng thời (1999), Vách nước (2003), Hôm sau (2009), và đột nhiên gió thổi (2009), Bầu trời không mái che (2010), hoa giấu mặt (2012), Vừa sinh ra từ đó (2013), thả (2015), Không gian khác (phê bình & tiểu luận, 2016), Lặng yên cho nước chảy (2018)… Thơ Mai Văn Phấn hiện được dịch ra hơn ba mươi ngôn ngữ, quốc tế, xuất bản thành sách tại các quốc gia như Anh quốc, Hoa Kì, Thái Lan, Thụy Điển... Thành công trong sáng tác thơ ông đã được ghi nhận bằng hàng loạt các giải thưởng uy tín như: Giải thưởng Cuộc thi thơ tuần báo Người Hà Nội năm 1994, Giải thưởng Cuộc thi thơ tuần báo Văn nghệ năm 1995, chuỗi giải thưởng Văn học Nguyễn Bỉnh Khiêm (Hải Phòng) trong các năm 1991, 1993, 1994, 1995, Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam dành cho tập thơ Bầu trời không mái che năm 2010 và mới nhất là Giải thưởng văn học Cikada của Thụy Điển trao năm 2017. Giải thưởng của Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Hoàng gia Cộng hòa Serbia 2019, Giải thưởng của Hiệp hội Dịch giả Văn học Cộng hòa Montenegro 2020. Hai lần đoạt Giải thưởng văn học Cây bút vàng Liên bang Nga, 2019 và 2020 (cho trường ca thơ văn xuôi "Thời tái chế").

 

Mai Văn Phấn là một trong những nhà thơ tích cực, chủ động tìm tòi, trau dồi, tự làm mới thơ mình qua nhiều diện mạo, trường phái, phong cách khác nhau. Mỗi tập thơ của ông được coi là một trải nghiệm nghệ thuật khác biệt, độc đáo, không lặp lại như chính những gì thi sĩ chia sẻ: “Tập thơ đầu tay Giọt nắng - 1992 tôi viết theo bản năng, nhằm giải tỏa tâm trạng và ám ảnh về đời sống lúc đó. Năm ấy tôi 37 tuổi, thời điểm tôi trở lại sau gần 20 năm đoạn tuyệt với thơ ca. Hai tập thơ tiếp theo Gọi xanh, Cầu nguyện ban mai kết hợp truyền thống với tâm thức hiện đại. Tập thơ Nghi lễ nhận tên và trường ca Người cùng thời là cách tôi dò dẫm, vượt thoát khỏi hệ mĩ cảm cũ. Đến Vách nước là kết hợp có chọn lọc tổng hòa những khuynh hướng hiện đại (Siêu thực, Tượng trưng, Biểu hiện…). Năm 2009, tôi in hai tập với hai phong cách và khuynh hướng khác nhau. Tập Hôm sau là một hướng triển khai phong cách hậu- hiện đại kiểu Việt Nam. Và “và đột nhiên gió thổi” thuộc cổ - điển - mới” [38, tr.449]. Ông là một trong số ít nhà thơ có hành trình thơ liên tục đổi mới, chiêm nghiệm, thể nghiệm trong đời sống thơ Việt Nam đương đại. Sự tự đổi mới bản thân trong thơ Mai Văn Phấn thể hiện qua cả nội dung và nghệ thuật thơ. Thơ Mai Văn Phấn đã thể hiện được hầu hết những suy tư tình cảm phong phú, đa dạng trong đời sống của xã hội con người đương đại từ nỗi âu lo, hoài nghi, bi quan, khổ đau, hạnh phúc, tin tưởng, khát vọng, với các vấn đề tâm linh, tôn giáo, tình yêu, sự tha hoá, môi trường, nông thôn, đô thị, hậu chiến, tha hương, trở về,… đến những cảm quan về mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên. Về quan điểm cái đẹp, thơ Mai Văn Phấn đã khám phá cái đẹp trong nhiều không gian và các mối tương quan: cái cao cả, cái bi hài, cái khác biệt, sự tương đồng, trong thâm tâm con người, trong sự biểu hiện của tự nhiên, trong chiều sâu tư duy lịch sử, hiện tại, tương lai... Dư luận đánh giá nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn mang đặc trưng của văn học tiền hiện đại, hậu hiện đại và cả cổ điển tự nhiên. Về tư duy nghệ thuật, thơ Mai Văn Phấn có nội lực mạnh mẽ, khá rõ nét trong việc xác định đường lối cách tân, cảm quan thẩm mỹ, dám tiên phong và dấn thân.

 

Sáng tạo của Mai Văn Phấn là một hành trình không ngừng nghỉ qua các giai đoạn: từ thời kì khởi đầu đến năm 1995, từ 1995 đến 2000 và 2000 đến nay. Đầu năm 2018, tập thơ Lặng yên cho nước chảy được ra đời gồm có năm phần: Trong sương, Thay mùa, Đất mở, Cái miệng bất tử và Buông tay cho trời rạng. Trong sương là những bài thơ 2 câu, 3 câu; Thay mùa là những bài thơ theo lối truyền thống; Đất mở là thơ tự do về đất đai mùa màng; Cái miệng bất tử  là thơ cách tân với những vấn đề thế sự; Buông tay cho trời rạng là thơ văn xuôi và trường thi. Dễ dàng nhận ra đây là tập thơ gộp tất cả những cách tân nghệ thuật và những quan niệm ông đã viết từ khi khởi đầu đến nay. Tất cả các thể thơ trong Lặng yên cho nước chảy đều đã được nhà thơ viết trong tất cả các tác phẩm của mình. Đây là cuộc trở về và nhìn lại với hành trình thơ Mai Văn Phấn nhưng mang một diện mạo mới đó là tâm thức của con người thời đại với cái nhìn mới. Từ năm 2020 đến nay, một vùng đất hoàn toàn mới lạ được mở ra trong sự cách tân sáng tạo đầy tự tin với những hình ảnh, cấu tứ, liên tưởng, kết cấu cũng như cách dùng từ, khác hẳn thơ ông trước đây và khác biệt, thậm chí dị biệt. Thơ Mai Văn Phấn giai đoạn này là sự tuyên cáo về cái chết của các nhà thơ đang tự ngâm vịnh, gặm nhấm sự còi cọc của mình. Điều đặc biệt trong thơ Mai Văn Phấn là đẩy đến tột cùng, thậm chí là cực đoan và tạo ra sự trái nghịch trong cách nhìn và cách cảm thụ nghệ thuật. Tính phóng đại quá kích của trí tưởng tượng với những hình ảnh và kết cấu hoàn toàn mới lạ đã tạo ra một lối cảm nhận hoàn toàn mới mẻ. Và dưới hình thức mới này, thơ Mai Văn Phấn đã chuyển tải được toàn bộ những gì đang diễn ra trong đời sống này. Mỗi bài thơ của ông tác động đến người đọc tựa những giấc mơ sự phiêu du trong cõi tưởng tượng.

 

Sự liên tưởng phóng khoáng của tưởng tượng tạo nên sức quyến rũ và ngoạn mục của hình ảnh, ngôn từ, biên giới của những không gian, thời gian thơ được mở rộng gần như tối đa. Thơ Mai Văn Phấn là cuộc tổng diễn tập với những bài thơ phóng ra những ý tưởng, hình ảnh khoáng hoạt, cường tráng và mạnh mẽ. Sự mạnh mẽ của nội lực các câu thơ đã xé rách, lướt qua những tấm mạng vô hình của những thói quen cũ. Ba chặng đường sáng tác của Mai Văn Phấn cho thấy rõ sự trưởng thành trong sáng tạo nghệ thuật của ông. Khởi phát từ nền tảng truyền thống, chưa tạo được dấu ấn đến bứt phá mạnh mẽ và gặt hái được nhiều thành công, qua thời gian, Mai Văn Phấn thể hiện độ chín trong sáng tạo, nỗ lực cách tân để tạo dựng một phong cách riêng trong thơ Việt Nam đương đại.

 

1.2.2. Quan điểm sáng tác của Mai Văn Phấn

 

Thơ Mai Văn Phấn từ buổi đầu dù còn gần gũi với thơ ca truyền thống nhưng ông đã có ý thức giã từ giọng điệu cũ, nhịp điệu cũ để xây dựng những hình ảnh khoáng đạt, lạ lẫm. Cảm xúc thơ trôi chảy tự nhiên, trong trẻo nhưng không đơn tuyến, dễ dãi mà luôn đòi hỏi người đọc phải tư duy, tự tái tạo lại thế giới thơ cho riêng mình. Đọc thơ ông, ta cảm nhận được những hoài nghi, lo âu và sợ hãi: “Chân tay ta vừa rút khỏi những huyễn hoặc giấc mơ… Cả hai bàn tay lệ thuộc vào nỗi ú ớ toát mồ hôi của cái chết lâm sàng…” (Cộng hưởng II - Trường ca Người cùng thời). Nhưng cũng từ chính những hoài nghi đó mà nhà thơ đã tự phản nghiệm, tự phản bội mình để ráo riết tìm ra một lối đi mới cho thơ.

 

Nếu từ những năm 80, Bằng Việt đã tỏ ra hoài nghi: “Thơ có còn tri kỉ nữa hay chăng? Đời đột biến mà thơ đi quá chậm/ Đời hết sức thẳng thừng. Thơ vòng vèo luẩn quẩn/ Đời trả giá hết mình. Thơ khi nhớ khi quên” (Lại nghĩ về thơ).Và thơ trong qua trình vận động của mình đã phải tự đổi mới để rồi câu hỏi trên đã thành lời khẳng định. Tất nhiên, sự đổi mới phải bắt đầu từ quan niệm, từ ý thức nghệ thuật của người cầm bút. Văn học thời kì hiện đại càng đòi hỏi các văn nghệ sĩ của chúng ta phải luôn ý thức về điều này. Và, nhà thơ Mai Văn Phấn, con người của những suy tư, tìm tòi sáng tạo đã luôn tự làm mới mình, luôn có những cuộc “vong thân” đầy táo bạo để mang đến sự “vượt thoát” thành công. Là người luôn muốn thoát khỏi những lối mòn xưa cũ, với Mai Văn Phấn thơ không đơn giản là “tải đạo, nói chí”, cũng không dừng lại ở việc phản ánh những vấn đề then chốt của thời đại, mà “thơ hay trong khoảng im lặng giữa các chữ, là mang đến cho ta niềm ngạc nhiên về thế giới, sự run rẩy trong tâm thức”. Với quan niệm này của thi sĩ đã cho ta thấy một cách nhìn mới về nhận thức thơ hay. Nhà thơ ý thức luôn tự làm mới mình của thi sĩ, cái mà nhà thơ Mai Văn Phấn gọi đó là những cuộc “vong thân”. Tuy nhiên, “vong thân” không nhất thiết là phải rũ bỏ, quay lưng lại với cái cũ và tìm đến những cái mới hoàn toàn. Mà ngược lại, sức hấp dẫn của nó đối với độc giả chính là trên những miền đất cằn cỗi ấy người nghệ sĩ sẽ làm cho nó màu mỡ hơn, tươi mát và giàu sức sống hơn. Từ đó, mở ra trước mắt người đọc những chân trời mới gần gũi, quen thuộc như những gì ta vẫn luôn cảm, luôn nghĩ. Nguyễn Quang Thiều từng nhận xét: "Thơ ca, đối với Mai Văn Phấn, là cách thức huyền diệu nhất để đặt đời sống lên con đường vĩnh cửu của nó, (...) là sự xác lập anh với thiên nhiên, với xã hội, với những giấc mơ huyền diệu và đỉnh cao của nó là xác lập con người trần tục của nhà thơ và con người sáng tạo của anh ta” [48, tr.15]. Với Mai Văn Phấn thơ ca là cái đẹp, nơi con người trú ẩn, thơ ca mang trong mình quyền năng lớn lao “Thơ ca ngoài mục đích tải đạo, tuyên truyền, mô phỏng, diễn tả... nó còn tìm cách đặt tên lại sự vật, định hình lại thế giới” [42, tr.454]. Đề cao việc cách tân, Mai Văn Phấn cho rằng: “Thơ ca càng ảo bao nhiêu càng đem lại sự chân thật bấy nhiêu..., hiện thực trong thơ được hiện hữu trong một “mặt phẳng cong”...Nhà thơ khi viết không nên bận tâm viết cho ai mà chỉ nghe trái tim mình run rẩy với cảm xúc chân thành theo một quan niệm riêng” [42, tr.400]. Không chỉ vậy, “trên hành trình đơn độc đi tìm cái đẹp”, nhà thơ còn nhận ra tác động của văn chương với người nghệ sĩ, giúp “quay lại hoàn thiện nhân cách, quan niệm thẩm mỹ và định hướng cho chính nhà văn ấy”. Ý thức được điều này, thi sỹ khẳng định: “Thơ ca là cầu nối, là bàn tay chân thành, giọng nói ấm áp để chúng ta tìm đến nhau, cảm thông, thấu hiểu nhau hơn. Nhờ có thơ ca, chúng ta được chiêm ngưỡng vẻ đẹp linh diệu, bí ẩn... cũng như thấy được sức mạnh tinh thần hiển linh và tiềm ẩn của dân tộc ấy. Chúng ta tựa vào thơ ca để ngày thêm hoàn thiện, thay đổi, lớn lên và bình đẳng giữa các dân tộc trên trái đất” [42].

 

Đổi mới là đòi hỏi của thời đại và là nhu cầu vận động tự thân của thi ca. Đổi mới thi pháp chính là “một cuộc cách mạng giữa nội dung và hình thức” [42, tr.456]. Nội dung và hình thức phải tạo được mối liên kết chặt chẽ. Hiện thực phản ánh vẫn là mối quan hệ giữa thiên nhiên vũ trụ và con người, về mối quan hệ giữa người với người, về nỗi buồn, sự cô đơn, những bộn bề lo toan thường nhật... Vậy, đổi mới hình thức nghệ thuật là bước đổi mới đầu tiên, dễ nhận thấy. Trong quan niệm của Mai Văn Phấn, đổi mới thơ tức là “nội dung ấy phải được dung chứa trong hình thức mới của thi ca”, nghĩa là hình thức mới sẽ mang đến cho người đọc những cảm nhận tươi trong về bao nội dung không còn mới, “hình thức được chuyển hóa thành nội dung, đó mới là đổi mới thực sự. Nội dung mới trong thơ tôi là những quan tâm mang tính thời đại và thời sự, như lý tưởng sống của thế hệ trẻ, vấn đề ý thức hệ, quan niệm về tự do, công bằng, dân chủ...” [42, tr.456]. Vì thế, Mai Văn Phấn khẳng định: “Các khuynh hướng sáng tác đều rất cần và làm phong phú thêm cho nền thi ca của chúng ta. Hiện chúng ta vẫn còn hồ nghi vì còn quá ít tài năng cho những “thể nghiệm” được thuyết phục” [42, tr.439 ]. Đề cao việc đổi mới và cách tân thi pháp thơ, thơ ca có thể  chống lại sự thoái hóa, trơ mòn thẩm mỹ của người đọc, tạo những không gian thơ đa dạng. Và chỉ những ai biết “từ chối ve vuốt những sở thích của đám đông” thì người đó mới có thể tạo ra được hiện thực đời sống tự nhiên, chân thực, phong phú và ấn tượng: “Nhà thơ khi viết không nên bận tâm viết cho ai mà chỉ nghe trái tim mình run rẩy với cảm xúc chân thành theo một quan niệm riêng” [42, tr.400]. Người làm nghệ thuật luôn mang trong mình khát vọng sáng tạo nhưng mỗi nghệ sỹ lại có những quan niệm sáng tạo riêng. Với Mai Văn Phấn, sáng tạo là quá trình sản sinh những nhân tố mới, không mô phỏng hay phát triển những giá trị đã định hình mà tạo sự khác hẳn, biệt lập (đôi khi là đối lập) với cái đã định giá. Quá trình sáng tạo nghệ thuật là một cuộc “vong thân”, là quá trình phủ định bản ngã: “Với mỗi người làm thơ, điều quan trọng là biết lạnh lùng với chính bản thân mình, dũng cảm nhìn lại một cách trung thực và chính xác, biết mình là quầy hàng khô hay anh chữa chìa khóa trong một cái chợ” [42, tr.399]. Mỗi nhà thơ phải biết tự phủ định mình, tức là phải coi cái mà mình vừa viết ra là cái đã cũ thì mới mong đạt đến thành công đỉnh cao trong nghệ thuật. Xã hội ngày càng thay đổi, phát triển kéo theo quan niệm, thị hiếu thẩm mỹ của con người cũng thay đổi, điều đó đòi hỏi nhà thơ luôn có ý thức tìm tòi và đổi mới: “Trách nhiệm của mỗi nhà thơ phải khám phá cho được không gian nghệ thuật của chính mình, nếu thực sự muốn tồn tại trong không gian mới của thời đại” [42, tr.375] và “Thật kinh hãi khi phải ngắm nhìn một nghệ sỹ cứ đứng mãi một chỗ mà biểu diễn quá nhiều lần một tiết mục tới gần như vô cảm, nói cách khác là thương hại những ai thâm canh triền miên trên mảnh đất đã cằn cỗi” [42, tr.399].

 

Xuất phát từ những quan niệm nói trên, Mai Văn Phấn quyết liệt đặt ra vấn đề đổi mới thi pháp thơ: “Đổi mới thi pháp trước hết là từ chối ve vuốt những sở thích của người đọc, nhằm tạo những sóng từ khác, những mã số khác trong không gian thơ vừa được khám phá. Lý tưởng thi ca của sự cách tân nhằm gọi đúng bản chất của sự vật trong nhịp điệu đời sống hiện đại” [42, tr.378]. Nhà thơ nếu chỉ để tâm ve vuốt sở thích của đám đông thì sẽ làm nghèo đi sự phong phú của khu vườn thi ca sinh động. Mọi người cầm bút đều mong muốn được nhiều bạn đọc chia sẻ, nhưng đây không phải là cứu cánh của những thi sỹ chân chính. Mai Văn Phấn cho rằng: “Đổi mới thi pháp trước hết nhằm chống lại sự thoái hóa, trơ mòn thẩm mỹ của người đọc, tạo những không gian thơ đa dạng, thiết lập hệ quy chiếu mới trong cách tiếp cận tác phẩm. Sáng tạo là quá trình sản sinh những nhân tố mới, không mô phỏng hay phát triển những giá trị đã định hình, mà tạo sự khác hẳn, biệt lập (đôi khi đối lập) với cái đã được định giá” [42, tr.423], và phù hợp “lối tư duy phổ quát, mạch lạc, tốc độ... họ luôn khao khát những giá trị mới lạ phù hợp với đời sống hiện đại của độc giả” [42, tr.423].

 

Tuy nhiên, với Mai Văn Phấn, sáng tạo, cách tân không đồng nghĩa với việc cắt đứt hẳn, từ chối, phủ nhận, đi ngược với thơ ca truyền thống. Cách tân là tiếp thu cái truyền thống đồng thời làm mới để tạo nên nét hiện đại cho  truyền thống. Mai Văn Phấn là người đọc nhiều và rất am hiểu về các xu hướng, trường phái thơ phương Tây hiện đại, nhưng ông quan niệm học hỏi và sáng tạo  chứ không phải bắt chước máy móc. Sáng tạo luôn đòi hỏi tài năng và bản lĩnh. Chính vì thế, trong một bài thơ của mình, ông viết: Anh là con cá miệng dàn dụa trăng/ Rời bỏ bầy đàn quẫy vào biển động (Ngậm em trong miệng). Là người hành nghề sáng tạo, nhà thơ phải biết dũng cảm rời bỏ bầy đàn và chính mình xây dựng cho mình một không gian thơ riêng và quẩy hết năng lượng trong khoảng không gian ấy.

 

Để xây dựng được trường không gian thơ ấy, nhà thơ luôn ý thức rằng muốn đổi mới thi ca phải làm mới chính mình. Mai Văn Phấn từng phát biểu: “Với mỗi người làm thơ, điều quan trọng là biết lạnh lùng với chính bản thân mình, dũng cảm nhìn lại một cách chân thực và chính xác, biết mình là quầy hàng khô hay anh chữa khóa trong một cái chợ” [42, tr.398]. Nhưng muốn làm thơ, nhất là thứ thơ mang trong mình hơi thở hiện đại, mới mẻ, Mai Văn Phấn cho rằng người làm thơ cần phải có bản lĩnh, sự quyết đoán mạnh mẽ: “bản lĩnh của nhà thơ trước hết là biết chấp nhận sự im lặng tạm thời từ phía người đọc” [42, tr.424]. Ông cũng giải thích rằng việc chấp nhận sự im lặng ấy không phải là cơn mưa thổi tắt nhiệt huyết mà là “ngọn lửa siêu nhiệt, giúp nhà thơ tạo ra những tác phẩm có phẩm chất vàng mười, đủ sức vượt qua mọi thử thách khắc nghiệt của thời gian” [42, tr.424]. Khi đã nuôi đủ bản lĩnh, mỗi thi sĩ sẽ tự có ý thức tạo khuôn mặt luôn mới lạ trong hồn thơ, một cái tôi bản lĩnh đầy cá tính: “Thơ tôi là ngôi nhà của riêng tôi, ai muốn vào xin hãy gõ cửa và tuân theo những nghi thức nhất định” [42, tr.447 - 448]. Điều này đồng nghĩa với việc nhà thơ muốn làm mới mình thì phải “dám chấp nhận đơn độc trên con đường mới, mở ra một không gian thơ khác, tạo tiếng nói khác” [38, tr.382]. Mai Văn Phấn đã đi và trên hành trình của mình, thực sự người đọc luôn cảm thấy cảm giác cô đơn bất tận, quay quắt đôi lúc có cả hoài nghi, hoang mang gửi vào những suy tưởng về cuộc đời, về giá trị sống, về tương lai bàng bạc trên những dòng thơ. Tuy nhiên, đằng sau khoảng khắc “gieo mình xuống phù sa/ Bàng hoàng nghe tách vỏ”, ông vẫn tĩnh tâm “cúi nhặt từng chiếc lá rơi” và “chờ mùa xuân nảy mầm”. Sau mỗi đứa con tinh thần xuất hiện, ông lại phát hiện được thêm điều bí ẩn trong cách sáng tạo: “Tôi được bài thơ dạy lại mình cách viết” [38, tr.401].

 

Mai Văn Phấn cũng cho rằng, nhà thơ phải là người có trình độ, quá trình tu dưỡng, rèn luyện, học hỏi ấy, đến một lúc nào đó, rất tự nhiên, nó sẽ “đột khởi dâng lên thành cảm xúc thi ca”. Đồng thời, Mai Văn Phấn luôn để cao phẩm giá của người nghệ sĩ. Với ông, “phẩm cách của nhà thơ quyết định cốt cách thi ca”. Đây là cơ sở để một khi nhà thơ đã vững tin trong nhân cách chính mình thì sẽ không ngại lao vào bất cứ vấn đề gì, kể cả những vấn đề “vụn vặt”. Chính vì thế, điều kiện cần và đủ để trở thành một thi sĩ đúng nghĩa là luôn hướng đến sự hoàn thiện nhân cách.

 

 Nam Cao đã từng quan niệm: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có” (Đời thừa). Như đã nói ở trên, đối với Mai Văn Phấn, sự đổi mới và sáng tạo không phải là sự bứt rào, đi ra khỏi những nền cũ và những gì được gọi là truyền thống, mà đối với ông sự đổi mới, sáng tạo đó chính là đưa thơ đến với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa âm hưởng truyền thống và màu sắc hiện đại. Khi ấy, thơ đến với độc giả bằng bộ cánh mới, đa sắc, lộng lẫy nhưng không lạ lẫm mà gần gũi, quen thuộc như chính những nốt nhạc thường xuyên vẫn ngân nga ở quê hương mình và trong tâm hồn mình. Nhà thơ Việt phải có “sự ra đi và sẽ trở về”. Ra đi “để thám hiểm, để đặt chân lên những vùng đất mới”, còn “trở về không có nghĩa là quay lại ngôi nhà cũ (hiện thực và lãng mạng) mà mang một diện mạo khác, tâm thế khác trên con đường khác” [38, tr.385]. Hình ảnh thơ Việt đương đại trải ra trên bề mặt thế giới mang tính toàn cầu, mới mẻ, giàu tính nhân văn, đẹp đẽ sống trong tâm hồn Việt. Vì vậy, trong quá trình suy ngẫm, Mai Văn Phấn đã rút ra được chìa khóa đưa người thơ vào với thế giới thơ. Người viết khi đã khai phá được bức tường thành bên ngoài thì phải đảm bảo sự tràn đầy của cảm xúc, cảm xúc dâng trào dòng thơ cũng được tuôn chảy ra từ đó.

 

Mai Văn Phấn đã ví “việc sáng tạo thi ca gần giống trạng thái bàng hoàng của một đứa trẻ lần đầu được nhìn thấy những hiện tượng kì lạ của thiên nhiên và khám phá những bí ẩn, phức tạp của con người” [38, tr.454]. Rõ ràng mỗi một nhà thơ là có một quan niệm, một cách nhìn nhận khác nhau, có bao nhiêu nhà thơ là có bấy nhiêu con đường đến với thi ca. Nhà thơ, theo Mai Văn Phấn "phải là nhà văn hoá. Kiến thức văn hoá ấy lắng sâu vào nhà thơ một cách tự nhiên, và tới một hoàn cảnh “hữu duyên” nào đó, nó đột khởi dâng lên thành cảm xúc thi ca. Lúc ấy tứ bài thơ vụt đến bất ngờ, tưởng như “của nhặt được", nhưng thực ra nó đã đượctích luỹ vô tình ở đâu đó từ lâu".

 

Từ quan niệm về thơ và người làm thơ, Mai Văn Phấn đưa ra mối quan hệ giữa thơ ca với người tiếp nhận. Với ông, người nghệ sĩ khi viết xong một bài thơ là đã hoàn thành sứ mệnh của mình, lúc đó tác giả coi như “đã chết”, còn tác phẩm lại được sáng tạo một lần nữa bởi bạn đọc. Người tiếp nhận chính là người đồng sáng tạo với nhà thơ, là người luôn sống cùng với tác phẩm. Với Mai Văn Phấn, “thơ ca gần như tôn giáo, nhưng không cao vợi và phải thờ phụng theo những nghi lễ. Thơ ca cũng là tâm linh, nhưng nhà thơ có thể làm biến đổi cả đời sống tinh thần con người và mở ra những không gian riêng biệt khi gặp được “duyên” cảm xúc” [38, tr.435].

 

Là một nghệ sĩ chân chính, Mai Văn Phấn luôn định hướng và xác định cho mình những con đường đúng đắn để đến với nghệ thuật đích thực. Là một thi sĩ có sự ảnh hưởng của nhiều ánh sáng sáng tạo ở những chiều kích khác nhau, Mai Văn Phấn luôn chủ động để tìm cho mình một ý hướng tiến bộ vừa tiếp thu truyền thống, đồng thời trầm tích thêm truyền thống vừa mang hơi thở hiện đại.

 

Tóm lại, Mai Văn Phấn là người luôn có ý thức khơi những “miền dậy sóng”, để từ đó, “trong hành trình sáng tạo nghệ thuật của mình, Mai Văn Phấn đã nỗ lực khám phá ngôn ngữ như một phương cách thiết yếu để thấu nhập vào thế giới tự nhiên và từ đó, tạo dựng khí quyển thơ riêng của mình, một bầu khí quyển kết nối cá thể người và thế giới, linh hồn người và linh hồn tạo vật trong sự bình đẳng và quấn bện của tình yêu thuần giản. Do đó, đọc thơ Mai Văn Phấn từ góc nhìn này cũng khơi mở hi vọng về một con đường sáng tạo thơ ca, trong đó, việc trở về với cội rễ đồng thời là một cách nạp năng lượng cho thi ca. Ở góc độ này, Mai Văn Phấn, ngay khi được xếp vào thế hệ những nhà thơ đổi mới với nỗ lực cách tân thi ca đã khẳng định một cách nghĩ riêng về giá trị và sáng tạo” [13, tr.292].Và rồi, qua bao thời đại với những thăng trầm thì những quan niệm đúng đắn và những trải nghiệm tuyệt vời trên ngòi bút của mình, Mai Văn Phấn sẽ luôn khẳng định được giá trị và vị thế của mình.

 

1.3. Khái lược về vấn đề cảm thức thời gian trong thơ hiện đại Việt Nam

 

1.3.1. Thời gian qua các góc nhìn

 

Các nhà Nho đắn đo trước sự trôi chảy của thời gian nhưng chủ yếu quan tâm đến sự hưng vong hay thành bại của các triều đại, thời gian đời người trong mắt họ là thời gian để thực hiện cái tâm, cái chí của bậc quân tử, kẻ trượng phu. Đạo gia lại khuyên con người quay trở về với bản nguyên, tìm giải thoát giữa thiên nhiên, vũ trụ bao la trong cảm giác “vô thời gian” ung dung, tự tại. Phật giáo xem thời gian là bánh xe luân hồi không dứt trong đó đời người chỉ là một khoảnh khắc vô cùng ngắn ngủi. Chỉ có vượt qua được cái nhìn nhị nguyên phân biệt: quá khứ - hiện tại, già – trẻ, dài – ngắn... con người mới được giải thoát. Cái cố chấp với cương thường của nhà Nho, cái thiên hướng “vô vi”, muốn giữ thiên tính tự nhiên của Đạo và tinh thần từ bi hỉ xả, thương khắp cả chúng sinh đã trộn lẫn thật kì lạ trong một con người theo một công thức mà ta không thể lí giải.

 

Một số từ điển định nghĩa rằng, “thời gian” là một hình thức tồn tại cơ bản của vật chất diễn biến một chiều theo ba trạng thái là quá khứ, hiện tại và tương lai. Với các nhà Vật lý, thời gian là thứ mà có thể đo được chính xác bằng một chiếc đồng hồ. Các nhà Toán học lại quan niệm thời gian một chiều được xem là liên tục, nhưng có thể chia thành các “thời khắc” giống như từng tấm ảnh của một cuộn phim. Newton khẳng định “Thời gian là độc nhất, tuyệt đối và có giá trị phổ quát khắp mọi nơi.” Còn Einstein lại cho rằng: “Thời gian trôi đi chỉ là ảo ảnh mọi khác biệt giữa quá khứ, hiện tại; tương lai chỉ là những ảo ảnh dai dẳng.”

 

Ở phương Đông, triết lý nhà Phật quan niệm thời gian không tồn tại tách biệt hiện tượng và người quan sát. Thời gian chỉ là một điều kiện chủ quan của nhận thức trực cảm của chúng ta, nó không tồn tại ở ngoài chủ thể. Ý nghĩa này về thời gian, đặt trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, đã được thể hiện rõ nét hơn cả.

 

Trong sáng tác thơ văn, thời gian là phạm trù quan trọng để nhà văn – người sáng tạo thể hiện chiều sâu tâm trạng, bày tỏ cảm xúc, mở ra những chiều kích còn ẩn khuất bên trong nội tâm của mình. Đối với phê bình văn học, thời gian cũng có ý nghĩa vô cùng quan trọng để người phê bình giải mã được những ẩn ý sâu kín của chủ thể sáng tạo ra nó. Như vậy, thời gian chính là chiếc cầu bắc nhịp để đối tượng tiếp nhận hiểu sâu, hiểu đúng tầm hơn một tác phẩm văn học. Thời gian không bao giờ có bản sao thứ hai trong cuộc đời. Vì thời gian chính là mạng sống của ta nên nó rất quý báu, là quà tặng mà ta phải biết trân quý và sử dụng một cách tốt đẹp.  Theo đó, thời gian có thể trở thành người bạn giúp ta gặt hái thành công, hạnh phúc nhưng ngược lại cũng có thể trở thành thứ “vũ khí” đầy nguy hiểm nhấn chìm tương lai. Đó đều là sự ý thức của con người về một khái niệm mà người ta gọi là thời gian – một sự ý thức có từ rất sớm và không ngừng được bổ sung, hoàn thiện. Từ xa xưa, con người đã nhận thức thời gian (cùng với không gian) chính là hình thức tồn tại của thế giới vật chất, không một vật thể nào có thể tồn tại ngoài thời gian. Thời gian tâm lý cũng trôi từ quá khứ tới tương lai như thời gian nhiệt động, vì các quá trình tâm lý có cơ sở vật chất là các quá trình điện hóa trong bộ óc, mà các phản ứng sinh học cũng tuân theo các qui luật nhiệt động học. Nói cách khác, hai mũi tên thời gian nhiệt động và tâm lý trùng nhau. Chính vì “gương vỡ không lành” mà có sự bất đối xứng giữa quá khứ và tương lai theo trục thời gian. Mũi tên thời gian hình tượng hóa sự bất đối xứng của thế giới theo thời gian, chứ không phải sự bất đối xứng của dòng thời gian. Mũi tên thời gian chỉ hướng về tương lai. Nhưng điều đó không có nghĩa nó bay về tương lai; giống như kim la bàn luôn chỉ phương Bắc, nhưng không chạy về phương Bắc. Cả hai mũi tên đều hình tượng hóa sự bất đối xứng, chứ không phải vận động hay sự biến dịch. Như vậy mũi tên thời gian chỉ ra sự bất đối xứng trong thời gian, chứ không phải sự bất đối xứng của dòng thời gian. Và các khái niệm “quá khứ” và “tương lai” trong thời gian cũng giống như khái niệm “phía trên” và “phía dưới” trong không gian. Tương quan giữa chúng tùy thuộc vào hệ qui chiếu, vào bản chất thế giới vật chất xung quanh. Nói cách khác, sự bất đối xứng theo thời gian là một thuộc tính của các trạng thái vũ trụ, chứ không phải là thuộc tính của bản thân thời gian. Và trong vũ trụ, chỉ người quan sát có ý thức mới ghi nhận được “dòng thời gian” (khi ta ngủ, tức ở trạng thái dưới ý thức, ý niệm dòng thời gian hoàn toàn biến mất). Đồng hồ cũng không đo dòng thời gian, mà chỉ đo khoảng cách thời gian giữa các sự kiện. Vì thế có thể dòng thời gian là đặc điểm chủ quan trong tâm trí con người, chứ không phải là thuộc tính khách quan của vũ trụ.

 

Thời gian sinh học

 

Thời gian sinh học quan trọng nhất là nhịp ngày đêm, do nhịp sáng tối và thăng giáng địa từ qui định. Khi ánh sáng tới võng mạc, nó qua nhân trên chéo thị giác rồi tới nhân cận thất để dừng sự chế tiết melatonin của tuyến tùng, một tuyến nội tiết thần kinh giữa vai trò điều nhịp của cơ thể. Khi không có thông tin về chu trình sáng tối, tuyến tùng đo đạc các thăng giáng địa từ, cũng có chu kì 24 giờ, để điều nhịp. Chỉ trong lồng Faraday kín (ngăn được cả tín hiệu sáng tối và tín hiệu địa từ), các nhịp sinh học (nhịp tim, nhịp tiết nội tiết tố, nhịp ngưỡng đau...) mới rối loạn, với chu kì 25, chứ không phải 24 giờ như thường lệ. Hội chứng trễ do các chuyến bay (jet-lag), tức mất sự điều hòa cơ thể sau một chuyến bay xuyên lục địa có thể ngăn ngừa bằng melatonin là vì vậy. Cơ thể sinh vật cũng nhạy cảm với nhịp mặt trăng (28 ngày), nhịp mùa và nhịp năm. Cơ chế của chúng còn chưa được hiểu rõ. Đó là cách thức để các sinh hệ hành xử đồng điệu với môi trường nhằm tiết kiệm năng lượng và tăng cường khả năng sinh tồn.

 

Thời gian tâm lý

 

Thời gian tâm lý được xác định nhờ các cấu trúc não như hồi hải mã hay thùy thái dương. Tổn thương tại đó dẫn tới các rối loạn trí nhớ như không truy xuất được ký ức quá khứ hay không thể tạo ký ức mới. Tuy nhiên việc giải đoán thời gian còn phụ thuộc vào cảm xúc và các hoạt động tinh thần cao cấp khác. Giai thoại về bếp lò nóng và cô gái đẹp của Einstein là minh họa cho điều này. Và đó cũng là căn nguyên của quan niệm xem dòng thời gian chỉ là ảo giác, tức chỉ là một đặc tính chủ quan của trí óc, chứ không phải là thuộc tính khách quan của vũ trụ. Có thể thấy thời gian tâm lý là kiểu thời gian có tác động lớn nhất đến quá trình sáng tác thơ ca.

 

Thời gian vật lý

 

Trước đây, Thuyết tương đối của Einstein đã loại bỏ khái niệm thời gian là một hằng số vũ trụ. Các khái niệm quá khứ, hiện tại, tương lai không phải là tuyệt đối. Nhưng thuyết này chỉ nhằm vào các cấu trúc quy mô lớn của vũ trụ, chứ không áp dụng cho lĩnh vực vật lý lượng tử, một lĩnh vực của những đối tượng rất nhỏ. Nhiều nhà vật lý tin rằng Phương trình Wheeler-Dewitt đúng hơn là miêu tả Vũ trụ không có thời gian. Còn một định luật vật lý kỳ lạ nữa thì cho rằng thời gian luôn luôn chỉ chiều tương lai. Mọi định luật vật lý khác đều có thể được áp dụng, một khi thời gian chạy về phía sau. Nhưng vào thời điểm hiện nay, thời gian vẫn là một quá trình một chiều; nó không bao giờ quay trở lại, như thể không có các luật nào cản trở nó. Thời gian là hợp phần của Vũ trụ. Các đồng hồ của chúng ta không đo một cái gì độc lập với Vũ trụ.

 

Thời gian tôn giáo

 

Khi Thiên Chúa sáng tạo ra thế giới, ông bắt đầu với một câu chuyện về một khởi đầu, một trung khúc, và một cái kết. Như Sách Khải Huyền đã ghi, trong khi tiên đoán về những thời đại cuối cùng, Jesus chính là “Alpha và Omega, khởi đầu và kết thúc, đầu tiên và cuối cùng” của sử thi. Nhưng luôn có những cách tư duy khác về thời gian. Rất nhiều trường phái tư tưởng tin rằng khởi đầu và kết thúc luôn là một bởi vì về bản chất thời gian là tuần hoàn. Đây là một cách tư duy có vẻ đúng đắn về mặt trực quan về tính vĩnh cửu. Khi chúng ta hình dung thời gian như một đường thẳng, cuối cùng ta lại thấy lạc lối: chuyện gì xảy ra trước khi thời gian bắt đầu? Làm thế nào một đường thẳng kéo dài tới vô tận? Một đường tròn cho phép chúng ta hình dung xuôi ngược vĩnh viễn, không có điểm nào xuất hiện và đi ngược lại với khởi đầu và kết thúc. Khổng Tử cho việc thời gian tuần hoàn có vẻ như là một sự mặc định của con người. Người Maya, Inca và Hopi đều nhìn thời gian theo cách này. Rất nhiều truyền thống phi - Tây - phương chứa các yếu tố về tư duy về thời gian tuần hoàn, có lẽ rõ ràng nhất trong triết học cổ điển Ấn Độ.

 

Thời gian triết học

 

Các mùa trong năm vận động không ngừng, một bộ phận trong chu kỳ tồn tại lớn hơn bởi triết học Đông Á đã khẳng định điều đó. Triết gia Đạo Lão thế kỷ thứ 4 TCN Trang Tử đã giải thích với mọi người về việc không khóc thương vợ mình khi vợ qua đời. Ông cũng thể hiện sự khốn khổ hơn bất cứ ai nhưng ông đã giải thích rằng: “Chuyện cũng giống như vòng tròn bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông vậy.” Tri thức và sự thật là vĩnh cửu có sức mạnh tiềm tàng trong suy nghĩ của người Hoa. Như Mạnh Tử, đã khẳng định rằng “Bậc đại nhân đơn giản là mưu cầu tìm lại những chuẩn tắc bất biến, và, nếu tìm đúng, thì thiên hạ được đánh thức trước đức hạnh”. “Khái niệm của Hồi giáo về thời gian về căn bản dựa trên quá trình trẻ hóa tuần hoàn của lịch sử nhân loại qua sự xuất hiện của các lời tiên tri khác nhau,” Seyyed Hossein Nasr, giáo sư danh dự Hồi giáo học của Đại học George Washington đã khẳng định như vậy. Điều đó chứng tỏ một thứ lai tạo giữa thời gian tuần hoàn và tuyến tính vận động trong các dải tư duy Hồi giáo. Tuy nhiên, mỗi chu kỳ đều đưa nhân loại tiến lên, với mỗi lần mặc khải dựng lên từ cái cũ – tiếng gọi của Qu’ran tới Muhammad trở thành lời chứng hoàn thiện, tối hậu của Chúa Trời – cho tới khi cuối cùng chuỗi những chu kỳ này kết thúc với sự xuất hiện của Mahdi, người trị vì trong suốt 40 năm trước ngày phán xét cuối cùng.

 

Giữa thời gian tuyến tính và tuần hoàn không có sự phân định rạch ròi. Giả thiết đơn giản là có khái niệm thời gian tuần hoàn trong những truyền thống triết học truyền miệng. Song không chỉ đơn giản là vậy. Nhà nhân học quá cố David Maybury-Lewis đã đặt ra giả thuyết về kiểu thời gian vừa không tuyến tính vừa không tuần hoàn trong văn hóa Úc bản địa,  tương đồng với không - thời gian của vật lý hiện đại. “Thời - gian - mơ - tưởng” của “quá khứ, hiện tại, tương tai tất thảy đều hiện hữu ở địa điểm này” gắn kết mật thiết. Và liệu thời gian tách biệt hay gắn kết chặt chẽ với địa điểm ? Điều đó thể hiện trong sự nhận thức về cái chết. Ở phương Tây ngày nay, cái chết là sự biến mất của một thân thể là địa điểm, còn vị trí thì không quan trọng. Trái lại, Muecke nói: “Rất nhiều câu chuyện bản địa về cái chết của một cá nhân đều không mấy liên quan đến sự chết của thân thể như là đến sự trả về năng lượng cho vị trí của nguồn cội mà với đó nó tái xác định.” “Người ta sống ở một địa điểm hơn là một thời gian” là điều mà Muecke khẳng định trong cuốn sách Ancient and Modern: Time, Culture and Indigenous Philosophy (Cổ đại và Hiện đại: Thời gian, Văn hóa và Triết học Bản địa). Cách tư duy như vậy là đặc biệt kỳ lạ với phương tây hiện đại, nơi sự theo đuổi tính khách quan đã hạ thấp một cách có hệ thống vai trò của một vị trí rõ ràng, cụ thể. Thời gian được nhìn nhận trong văn hóa của con người là thời gian thực tế cụ thể, một thời khắc trong thời gian: mọi thứ đều nằm trong mối liên kết với những thứ khác, nhìn nhận những khái niệm sống thay vì những khái niệm trừu tượng trong các lý thuyết siêu hình, là bộ phận của một cách hiểu rộng hơn về thế giới.

 

Ở phương tây, sự vượt trội của thời gian tuyến tính được thánh hóa trong thời Khai sáng. Thời gian được nhận thức với những cách thức khác nhau định hình cách ta nghĩ về cả vị trí đương thời của ta trong lịch sử và mối liên hệ của chúng ta với vị trí vật lý mà ta đang sống, thay đổi cách suy nghĩ mang lại sư khác biệt về một góc nhìn mới về thế giới. Phải thừa nhận những hoài niệm xoay quanh vị thần “thời gian” là nguồn cảm hứng sáng tác cho người văn nghệ sĩ phôi thai những tác phẩm nghệ thuật để đời. Đồng thời việc mổ xẻ, khám phá về thời gian cũng tiêu tốn không ít tâm sức của các nhà khoa học từ cổ chí kim. Thời gian là một trong những tài sản quý giá mà tạo hóa đã ban tặng cho mọi loài. Thời gian một đi không thể quay lại, do đó chúng ta cần hiểu rõ giá trị thời gian để sử dụng cho phù hợp. Lý thuyết về thời gian là như vậy, nhưng trong sáng tác, nhất là ở lĩnh vực thơ ca, thời gian có những biểu hiện khác, phụ thuộc lớn vào đặc điểm, tâm lý, cảm xúc của nhà thơ.

 

1.3.2. Vấn đề cảm thức thời gian trong thơ hiện đại Việt Nam

 

Đ cập đến khái niệm cảm thức thời gian tức là nói đến kiểu thời gian tâm lí thường tồn tại trong tác phẩm nghệ thuật. Theo Từ điển tiếng Việt, cảm thức là sự nhận thức bằng cảm quan, nhận thức bằng cảm giác. Cảm thức thời gian là sự cảm nhận, nhận thức riêng của mỗi cá nhân về sự trôi chảy của thời gian, nhịp độ, biểu hiện của nó... Cảm nhận ấy có thể trùng khít, nhưng thường khác với thời gian tuyến tính.

 

Cảm thức là cách con người nhận thức, đánh giá, xem xét một vấn đề nào đấy trong cuộc sống bằng con mắt chủ quan, bằng cảm nhận của chính của họ chứ không phải của một ai khác. Bởi thế, thời gian khách quan khi đi vào tác phẩm nghệ thuật dường như đã không còn là chính nó. Người ta có thể thấy thời gian nhanh như thoi đưa, hoặc chậm đến nỗi một ngày như nghìn thu. Hoặc thời gian không còn là một khái niệm trừu tượng mà có khi tồn tại ở dạng cụ thể như hương vị, như màu sắc, như vật thể hiện hữu. Thời gian được cảm nhận không phải bằng các đại lượng vật lý thông thường như giây, phút, giờ, tháng, năm... mà bằng chính cảm xúc mang rất rõ yếu tố chủ quan của con người. Tâm lí trong cảnh li biệt có thể làm cho con người ta cảm thấy thời gian trôi đi sao thật lâu. Thời gian đời người, đối với mỗi cá nhân mà nói, cũng khác nhau hoàn toàn. Có người thấy đời người dài dằng dặc mà con người phải tồn tại để gánh chịu sự đày ải; Có người thấy cuộc đời sao ngắn ngủi như một cái chớp mắt, ngắn ngủi như giấc mộng, thở ra chưa kịp hít vào đã hết một đời ... Con người thông qua cách cảm nhận về thời gian để trình bày quan niệm, sự hiểu biết, đánh giá của mình về cuộc đời, về con người, về cái đã qua, cái hiện tại, cái sắp tới... Thời gian là một đại lượng tồn tại khách quan. Thế nhưng, đối với mỗi cá nhân, nó lại mang một màu sắc, một dấu ấn riêng độc đáo. Bởi thế, thông qua cách con người nhìn nhận, đánh giá về thời gian, ta có thể phần nào đọc được tâm hồn, tính cách của họ. Thời gian không phải là một yếu tố duy nhất hé mở thế giới tâm hồn con người. Bên cạnh đó còn có cảm thức về không gian, về con người, về các hiện tượng tự nhiên... Thế nhưng có một điều rất dễ nhận ra là không một ai lại có thể đứng ngoài bước đi của thời gian, không một ai lại không một đôi lúc thấy cuộc đời hoặc ngắn ngủi hoặc đằng đẵng. Có nghĩa là cảm thức về thời gian là một hiện tượng mang tính phổ quát. Thế nên xem xét và đánh giá cảm thức thời gian của một lớp người nào đấy trong xã hội, ta có thể đọc ra phần nào chân dung của thời đại ấy. Họ đã dùng yếu tố thời gian như một phương tiện để lí giải con người, cuộc đời. Thời gian không còn là một đại lượng trôi đi theo chiều tuyến tính giản đơn nữa. Quá khứ có thể sống mãi với một cá nhân nào đấy nếu trong quá khứ chứa đựng một biến cố có tác động sâu sắc đến đời sống tinh thần của họ. Hay tương lai có thể đem đến cho người ta sự chán nản, vô vọng nếu nó mờ mịt mất phương hướng hoặc nôn nóng, chờ đợi, hi vọng nếu nó đầy hứa hẹn. Thực tại cũng có lúc thật vô nghĩa hay sẽ trở nên bất tử... Thời gian trong cảm thức của con người như một cơ thể sống với các trạng thái cảm xúc phong phú, phức tạp được mở rộng các đường biên để sống hết các chiều kích của nó, để đánh dấu những thời khắc đặc biệt trong cuộc sống của mỗi cá nhân hay của cả cộng đồng. Như vậy, con người có thể cảm nhận, đánh giá về mọi vấn đề của  cuộc sống, trong đó có thời gian. Con người thông qua đó để giãi bày thế giới tâm hồn của mình với những nghĩ suy, những trăn trở...

 

Văn chương nói riêng và thơ ca nói chung, suy cho cùng đều xuất phát từ tiếng lòng, cảm xúc, tình cảm của con người. Qua lăng kính tâm hồn, bất cứ khái niệm, thực thể, hiện tượng nào đều không bị bó buộc, vạn vật đều có thể biến tính, biến hình và được cảm thức theo những cách khác nhau. Thời gian cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Thời gian qua ngòi bút nhà văn hoàn toàn có thể phá bỏ quy luật vận động vốn dĩ của nó, đảo lộn trình tự hoặc bỏ qua một hoặc hai ba chiều vận động vốn có của nó. Đó là cách một nhà văn làm ngưng đọng một khoảnh khắc, kéo dài và nới rộng nó ra; cũng như nén lại, co vào một khoảng thời gian một trăm năm đến một thế kỉ. Với thơ ca – nơi người nghệ sĩ gửi gắm vào đó tất cả tình cảm, cảm xúc của mình với khát vọng tạo dựng một thế giới chủ quan đầy hình ảnh, thì cảm thức về thời gian gắn liền với cảm thụ của nhà thơ trước cuộc đời cũng như ý nghĩa chung về cuộc sống nhân sinh. Niềm rung động của nhà thơ với đời càng dạt dào, nỗi lòng với cõi đời càng thiết tha bao nhiêu, thì những cảm thức trước mỗi khoảnh khắc lại càng trở nên tinh tế, mãnh liệt và linh diệu bấy nhiêu.

 

Cảm thức thời gian thường in đậm dấu ấn lên các tác phẩm nghệ thuật. Và dường như chính sức mạnh biểu hiện đa dạng, phong phú của ngôn ngữ đã giúp văn học lưu lại dấu ấn về cảm thức thời gian một cách sâu sắc, sinh động hơn hẳn các loại hình nghệ thuật khác. Nó không chỉ là một mảnh vỡ về thời gian được lưu lại bằng hình khối, màu sắc hay âm thanh mà với một dung lượng ngôn từ ít ỏi, nó có thể bao gồm những biến cố lớn lao của cả một đời người hay cả một thời đại. Quan trọng hơn cả là nhìn những thời khắc được người đời cảm nhận có thể giúp ta thấu hiểu họ, đọc được con người bên trong với những biến thái tinh vi của tâm hồn để chiêm nghiệm lại chính con người và cuộc sống của mình, để tìm niềm vui và ý nghĩa cuộc sống ngay trong nỗi buồn, trong những mất mát vì bài học tâm hồn là bài học luôn mới mẻ, ngay cả khi ta nhận được nó từ những người cách ta hàng ngàn năm. Đi vào tác phẩm nghệ thuật, cảm thức thời gian của người nghệ sĩ sẽ được cụ thể hóa, hình tượng hóa, đem đến cho ta thời gian nghệ thuật – “là thời gian mà ta có thể thể nghiệm được trong tác phẩm nghệ thuật với tính liên tục và độ dài của nó, với nhịp độ nhanh hay chậm” [46, tr.77]. Thời gian trong cảm thức của nhà văn mang những đặc trưng riêng, khác với thời gian thực tế.

 

Thời gian trong cảm thức của nhà thơ luôn mang tính tâm lí. Thời gian với các đặc trưng: tính liên tục, độ dài, hướng, nhịp nhưng các đặc trưng này có thể co giãn theo dòng suy nghĩ và dụng ý của nhà thơ.  Trong cảm thức nhà thơ có quá khứ - hiện tại - tương lai nhưng nó không còn tuân theo đúng chiều vận động mà có thể thay đổi trật tự bằng đảo ngược, đan xen, có khi xuất hiện cùng một lúc. Thời gian tâm lí được nhà thơ cảm nhận bằng những tín hiệu riêng, sâu xa trong tâm thức người nghệ sĩ, thể hiện con mắt quan sát tinh tường cùng tâm hồn nhạy cảm. Xuân Diệu cũng thấy thời gian có mùi – mùi vị của chia phôi: “Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi, thậm chí có hình hài, dáng vóc “như một cặp môi gần”, hay một quả chín, một thiếu nữ trong trắng, mơn mởn để nhà thơ phải thốt lên “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi” (Vội vàng). Các nhà thơ xưa thấy mùa thu về qua lá vàng rơi, lá ngô đồng rụng hay hoa cúc. Hữu Thỉnh cảm nhận hơi thu qua hương ổi phả vào hơi gió, qua màn sương giăng mắc trước ngõ: “Bỗng nhận ra hương ổi / Phả vào trong gió sen / Sương chùng chình qua ngõ/ Hình như thu đã về” (Sang thu). Do được cảm nhận một cách đặc biệt như vậy, thời gian trong tác phẩm nghệ thuật đôi khi trở nên hữu hình, có màu sắc, mùi vị, hương thơm, ánh sáng. Đoàn Phú Tứ miêu tả hương thời gian, màu thời gian: “Hương  thời gian thanh thanh / Màu thời gian tím ngát” (Màu thời gian).

 

Không chỉ mang tính tâm lí, thời gian trong cảm thức người nghệ sĩ còn mang tính quan niệm và có nội hàm triết lí. Các tác phẩm văn học phương Tây, không có ý niệm về thời gian bởi ngay bản thân từ ngữ dùng để tả, kể đã thuộc về một thì nào đó, điều này chứng tỏ mối quan tâm đặc biệt của họ đến thời gian hơn là không gian. Thời gian là phương tiện để nhà văn phản ánh đời sống, thể hiện cảm xúc, tư tưởng. Thông qua các kiểu thời gian, ta có thể thấy được đặc điểm thời đại hay một giai đoạn trong lịch sử hoặc một loại hình, một xu hướng văn học: dân gian – trung đại – hiện đại; lãng mạn – hiện thực; Nho – Phật – Đạo… Thời gian trong truyện cổ tích thường mang tính phiếm chỉ “Ngày xửa ngày xưa, đã lâu lắm rồi”, “Thuở ấy”… bởi về bản chất, cổ tích là những câu chuyện “bịa”. Người ta kể chuyện để thể hiện khao khát về lẽ công bằng hay thỏa mãn nhu cầu giải trí, để cho trí tưởng tượng mặc sức bay bổng. Diễn biến câu chuyện mới là điều quan trọng, không cần biết nó có thực hay không, xảy ra vào lúc nào và nếu có người tin nó là thật, họa chăng chỉ có trẻ em. Ngược lại, thời gian trong truyền thuyết lại thường rất cụ thể, xác định bởi dân gian tin vào tính hiện thực của những sự kiện, biến cố, nhân vật lịch sử mà tới nay còn ít nhiều để lại dấu vết. Trong văn học trung đại, thời gian thường là thời gian tuần hoàn, bốn mùa đắp đổi theo kiểu: “Sen tàn cúc lại nở hoa/ Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”. Điều này xuất phát từ cảm quan của con người về thế giới: con người nhìn thế giới trong tính toàn vẹn, thống nhất của nó. Bởi vậy, dù bị ám ảnh bởi tính chất ngắn ngủi của cuộc đời, họ không có ý thức tách mình ra như một thực thể độc lập mà thường hòa mình trong không gian thời gian vô thủy vô chung. Cách chiêm nghiệm ấy hoàn toàn khác với con người hiện đại: càng về sau này, thời gian trong các tác phẩm càng có xu hướng bị phá vỡ, chỉ còn là những mảnh, mẩu được lắp ghép một cách rời rạc trong cố gắng “phi thời gian hóa”. Cách thể hiện ấy cho thấy cái nhìn thế giới như một thực tế hỗn độn. Không thể tìm ra mối quan hệ nhân quả, không còn tính vẹn nguyên. Cảm thức thời gian, do đó cũng là một trong những yếu tố góp phần thể hiện phong cách. Qua cảm thức thời gian, ta còn thấy được nếp cảm, nếp nghĩ của một con người đại diện cho một cho một khoảng thời gian lịch sử. Nghiên cứu  vấn đề cảm thức thời gian trong thơ Trương Đăng Dung, Mai Văn Phấn cho thấy rõ hơn vai trò của hai nhà thơ trong hành trình hiện đại hóa thơ Việt Nam.

 

 

 

 

Chương 2

 

ĐIỂM GẶP GỠ VỀ CẢM THỨC THỜI GIAN TRONG

 THƠ TRƯƠNG ĐĂNG DUNG VÀ MAI VĂN PHẤN

 

 

Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn đều là những người yêu quê hương, gắn bó với lịch sử dân tộc trong những năm tháng đau thương và đều có điều kiện được tiếp xúc với văn hóa châu Âu từ rất sớm. Thiên phú cộng với sự am hiểu về các hình thái văn học và khát khao dấn thân thôi thúc hai nhà thơ sáng tạo, cống hiến không mệt mỏi trong hành trình đưa thơ Việt đến với bạn đọc thế giới. Sự hiện diện của thời gian  trong thơ của hai tác giả rất rõ nét qua gương mặt thời gian, sức mạnh của thời gian, thời gian và kiếp người.

 

2.1. Gương mặt thời gian

 

2.1.1. Thời gian - nỗi ám ảnh thi sĩ

 

Mỗi con người không thể tồn tại ngoài quy luật của không - thời gian, do đó, thời gian trong thơ chính là một cách để cảm thụ thế giới và con người. Trong thơ ca, tuy có nhịp độ, có quá khứ, hiện tại tương lai nhưng là một phạm trù nghệ thuật “đầy ước lệ, chủ quan và thể hiện một cách hiểu về thế giới con người khi tìm hiểu thời gian, không gian nghệ thuật của hình tượng văn học chính là tìm hiểu cách cảm nhận cuộc sống một cách nghệ thuật và tỉ mỉ trong đó” [24]. Thể loại này bộc lộ trực tiếp cảm xúc của con người, tự nhận thức, cảm nhận thấy mình qua những ấn tượng, ý nghĩ, cảm xúc chủ quan đối với thế giới khách quan nhưng lại hàm chứa cái “Tôi” cảm xúc. Nó động đến cái chung tồn tại của mọi người, trở thành tiếng lòng thầm kín của mọi người. Vì thế, nó biểu hiện những sắc thái tinh tế của tình cảm, con người. “Nếu trong loại tự sự, cái chính là sự phát triển của sự kiện, là số phận của nhân vật thì trong loại trữ tình mối quan tâm nhất là sự năng động của tình cảm" [12]. Do vậy, thơ ca cũng đòi hỏi phải theo sát thời gian, chi tiết cụ thể thâu tóm được những cảm xúc chân thực nhất vì các nhà thơ - những thi sĩ muốn viết nên tác phẩm phải có cảm xúc, tình cảm… Tất cả bắt nguồn trong cảm nhận của nhà thơ bằng tâm lý. Hiện thực cuộc sống đòi hỏi phải cầm bút chưa đủ, thi nhân phải có sự rung cảm giao hoà. Điều này phụ thuộc vào tâm lý tác giả cảm nhận thời gian như thế nào. Tìm hiểu đặc điểm của yếu tố thời gian trong thơ ca là công việc không đơn giản. Đứng về phía kết cấu, người ta xếp thơ vào loại phạm trù thẩm mỹ không gian - thời gian hỗn hợp. Và thời gian chính là yếu tố làm chỗ dựa để thơ ca tồn tại, làm phạm trù thể hiện trước mắt người đọc. Thời gian trong thơ chính là sự phản ánh một cách rõ ràng tâm trạng của nhà thơ và nó cũng là yếu tố tạo nên phong cách riêng của tác giả đem lại những thành công cho tác phẩm văn học. Những bài thơ của Lưu Quang Vũ đã tái hiện một lớp thời gian ám ảnh của những nỗi buồn của những dự cảm và những hoài niệm cũng như khao khát.

 

Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn đều  có sự xáo động tâm tư trước bước đi của thời gian. Các tín hiệu thời gian được nhà thơ nhận ra ở những biểu hiện tinh tế nhất. Trương Đăng Dung cảm nhận mùa thu vừa mới, vừa cũ, vừa quen vừa lạ, vừa gần gũi mà hóa xa xăm, chưa kịp thưởng thức nhận ra đã khác:

 

“Anh không thấy thời gian trôi

chỉ thấy mùa thu vừa lạ vừa quen

những gương mặt những nụ cười mới gặp

chưa kịp thân đã thấy khác đi rồi”

(Anh không thấy thời gian trôi – Trương Đăng Dung)

 

Mùa thu đến bao trùm lên mọi cảnh vật, không khó để nhận ra mùa thu qua cảm nhận cá nhân về sự chuyển giao mùa, nhưng để thẩm thấu âm thanh tiếng thu “vừa lạ vừa quen” chắc chắn không chỉ bằng thị giác, bằng trái tim mà có lẽ còn bằng cả nỗi niềm sâu thẳm. Nhưng trong cảm nhận đã có câu trả lời cho bản thân về sức mạnh của thời gian, in dấu trên những gương mặt, những nụ cười. Thu đến, xuân qua, thi sĩ còn bận lòng với “chân trời”.

 

“Em ngồi bên anh nhìn dòng sông

chảy từ phía chân trời

đầy nắng, mưa và gió.

 

Không một cành khô, lá khô

sông thanh thản kéo trời

trôi theo mình lặng lẽ”

(Trên đồi Vọng Cảnh -Trương Đăng Dung)

 

Dòng sông đêm ngày cuộn chảy như dòng thời gian đang trôi đi. Nhìn dòng sông, Trương Đăng Dung hình dung thời gian như đang trôi đi đến điểm tận cùng của nó.  Nhà thơ tiếc nuối thổn thức, băn khoăn day dứt tự vấn:

 

“Đang mùa xuân hay đã sang hè

mà hoa tím rụng đầy mặt nước

chảy về đâu, sông ơi

Sao chỉ thấy một con thuyền thấp thoáng?”

(Trên đồi Vọng Cảnh - Trương Đăng Dung)

 

Nhìn thời gian trôi, thi sĩ bất lực, hoài nghi, không nhận ra thời gian thực tại. “chảy về đâu, sông ơi” là nỗi khắc khoải không có lời giải đáp cũng như đang tự hỏi bản thân rằng thời gian nào là thời gian cuối. Ta hình dung ra một con người đang đếm nhịp thời gian. Đây là nhịp thời gian lạnh lẽo, vô tình, thản nhiên đều bước hay chính là nhịp đời từng phút từng giây dịch chuyển? Giống như Trương Đăng Dung, Mai Văn Phấn cũng nhìn thấy bước đi thời gian trên từng sự vật:

 

“Chỉ mong những đốm vàng

Trên đó lan nhanh

Nhưng hơi ẩm đang phà hơi

Vào khoảng xanh diệp lục

Mình không manh động

Vào mùa xuân”

(Bài thơ số 35, Tĩnh lặng - Mai Văn Phấn)

 

Nhà thơ vẽ ra trước mắt người đọc một loạt các hình ảnh cụ thể, sinh động. Bước chân thời gian đi đến đâu là in hằn dấu vết đến đó trên cảnh vật qua hình hài, dáng vẻ, màu sắc. Nó không mơ hồ, huyền ảo mà được dễ nhìn thấy qua những đốm vàng đang lan nhanh, và hơi ấm, và màu xanh diệp lục. Tất cả đều đang di chuyển, biến đổi vào thời khắc vào xuân. Chủ thể muốn lưu giữ khoảnh khắc này để cảm nhận, thời gian như ngưng lại, vào khoảnh khắc Vào mùa xuân. Còn mùa thu trong cảm nhận của Mai Văn Phấn là:

 

“Hóa thân giọt nước mùa hè

Một đêm trở gió bay về với thu

Dẫu chưa trọn kiếp sương mù

Xin tan loãng kẻo trăng lu cuối trời

Bao lần xanh biếc rong chơi

Mấy lần úa rụng tiếng người vọng theo

Thôi em! Đừng vặn! Đừng khêu!

Đáy thu thắp sáng trên nhiều ngọn cây.

Anh vừa đọng xuống thu gày

Đã đông thành đá phủ đầy rêu xanh.”

(Khúc cảm mùa thu - Mai Văn Phấn)

 

“Giọt nước”, “gió bay”, “sương mù”, “trăng lu”  là những nhân chứng có khả năng phản chiếu, cụ thể hóa sự hiện diện của bước chân thời gian. Nhà thơ giống như một con người tỉ mẩn không ngừng đo đếm, chi chút từng phút từng giây. Không gì lọt ra khỏi con mắt quan sát của ông, không một tích tắc nào đi qua mà không để lại dấu vết. Khúc cảm mùa thu thời gian đã bị theo dõi, ghi lại mọi động tĩnh.  

 

Trong thơ Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn, thời gian là một nhân vật, một nỗi ám ảnh lớn. Thời gian xuất hiện mọi lúc, mọi nơi với mọi không gian, mọi chiều kích của nó.

 

2.1.2. Bước đi của thời gian

 

Thời gian với tính quá trình, không ngừng nghỉ được nhận diện qua các dấu hiệu mà tác giả phản ánh trong tác phẩm. Đặc biệt, trong tâm thức của hai thi sĩ, thời gian trôi đi không thể níu giữ được. Dẫu đã nhận thức được sức mạnh của nó, cả hai nghệ sĩ vẫn không khỏi có lúc hoảng sợ, lo toan trước tốc độ chiếm lĩnh và hành trình của thời gian.

 

Lặng người trước bước chân nhanh chóng của thời gian, Trương Đăng Dung hoài nghi về dấu ấn của con người:

 

Anh không thấy thời gian trôi

chỉ thấy những đám mây di chuyển

và những chiếc lá vàng không muốn lìa cây

gió rung, lá rơi còn vẫy vẫy.

 

Anh không thấy thời gian trôi

chỉ thấy những lá thư ngày một bạc màu

những cơn mưa rơi vào đêm vắng

dấu chân ta - năm tháng có còn đâu.

(Anh không thấy thời gian trôi - Trương Đăng Dung)

 

Thời gian tồn tại vừa cụ thể vừa cũng rất mơ hồ hư ảo. Và nỗi ám ảnh này thơ cổ kim Đông Tây đề cập đã nhiều "Một tiếng kêu dài lạnh thái hư!", hay "Ngẫm trời đất vô cùng/ Mà rưng rưng dòng lệ…". Muốn in dấu ấn của mình lên áng mây thời gian trong thế giới mong manh hư ảo là một giấc mộng lớn của phận người thi sĩ. Nó như một sứ mệnh, một định mệnh sắp đặt sẵn cho những con người mang tâm hồn nghệ sĩ. Thi sĩ Trương Đăng Dung mang trong mình sâu lắng sự ám ảnh đó. Thơ ông bày tỏ và nâng niu. Một giọng thơ tinh tế, đầy băn khoăn, tha thiết niềm yêu sống:

 

“Kìa hoàng hôn rạng rỡ mặt trời

 kìa đồng cỏ phập phồng ngực lửa

em đã đến thổi màu vào ngọn lửa

 ba mươi năm hay ba triệu năm rồi.

 

 Em đã sống những ngày không đợi

 anh đã đi không một chút bình yên

chân trời dấu những điều không đến

ba mươi năm hay ba triệu năm rồi.”

(Ba mươi năm hay ba triệu năm rồi - Trương Đăng Dung)

 

Ý thức về tốc độ không gì kìm giữ được của thời gian thường đi liền với sự tự ý thức về tình cảnh bản thân về sự hoài nghi về thời gian đang sống hiện tại. Trong khi thời gian không chờ đợi, không thể níu giữ, con người đối diện với sự thật về quỹ thời gian ngày càng ít đi. Ta thấy trong thơ Trương Đăng Dung những khoảng thời gian cụ thể,  vừa thực vừa ảo, hoài nghi khó xác định: “Có một thời/ có một thời/ ta đã sống thật sao?” (Có một thời - Trương Đăng Dung)

 

Và khoảng thời gian dài của quá khứ in đậm trong tâm thức của Trương Đăng Dung không lúc nào nguôi ngoai hay chìm vào quên lãng.

 

Anh không biết dòng sông trôi về đâu
bốn mươi sáu ngàn năm nữa.
Có thể em vẫn nhớ một ô cửa của con tàu
nơi anh đứng,
và bàn tay thấp thoáng vẫy trong đêm.
Có thể em vẫn nhớ những vầng trăng thức trắng
lá rơi thảng thốt trước thềm.
Có thể em vẫn nhớ một bóng hình, giọng nói
đã tan trong sương khói
những kiếp người”

(Có thể - Trương Đăng Dung)

 

Dù là “hai mươi ba ngàn năm về trước”, “hay bốn mươi sáu ngàn năm nữa”…, dù là quá khứ hay tương lai những khoảng thời gian ấy cũng đã qua đi thật chóng vánh. Bởi kiếp người như sương khói, quả thật rất ngắn ngủi. Nhà thơ nhắc đến thời gian như nhắc đến một khoảnh khắc, một thứ gì quý giá, rất trân trọng, càng khát khao níu giữ thì càng không thể nắm bắt được. “Một cấu trúc câu thơ phủ định nữa lại xuất hiện, ở đoạn trên là anh không biết đến bao giờ, không biết những ngày thơ bé, không nhớ thời gian nước chảy, bây giờ lại không biết dòng sông trôi về đâu. Tất cả cái sự không biết, không biết, không nhớ, không biết...trong thơ ấy lại cho thấy tác giả biết quá nhiều, nhớ quá nhiều. Không biết và biết cũng chỉ là có thể. Điều quan trọng là anh đã có nó, anh có em để sống, để trải nghiệm, để làm một kiếp người. Biết mà nói không biết ấy có phải là tư duy của con người vừa cổ điển vừa rất hiện đại thể hiện trong bài thơ này ? Và cũng chỉ có một cấu trúc câu thơ độc đáo như thế mới diễn tả hết được những suy nghĩ, những triết lý sâu sắc của tác giả trong bài thơ. Lại bốn sáu ngàn năm nữa, một thời gian vừa có thể vừa không có thể ùa về  mênh mông, thảng thốt, bàng bạc trong những kiếp người quanh ta. Vầng trăng thức trắng hay đó là anh, là anh trong những đêm thao thức, trăn trở về dòng sông, con thuyền, bóng hình, giọng nói và... kiếp người” [7, tr.242].

 

Với Mai Văn Phấn, thời gian của cả đời người dằng dặc rồi một ngày sẽ về với cát bụi:

 

“Ừ, thì ra cát bụi

Là một đời thân xác đớn đau

Gió vẫn ru xanh mướt ở trên đầu

Trời rót xuống từng cơn mưa đằm thắm.

 

Cái ác đã ngủ yên trong nhụy đắng

Cho đất lành thơm mát đến rưng rưng

Hồn tôi lung linh hạt nắng

Rơi xuống đồng xanh không cùng.

 

Và rạng đông! Từng giọt rạng đông!

Tôi lại nhập hồn về với xác

Chẳng phải tôi, cũng không là người khác

Để hồn nhiên cất tiếng khóc lọt lòng.”

(Hồn nhiên - Mai Văn Phấn)

 

Nhà thơ miêu tả hành trình của mặt trời từ lúc bắt đầu xuất hiện tới khi tắt ánh hào quang. Khi mới nhô lên với luồng ánh sáng rực rỡ bao bọc, anh ta thật uy nghi, hăm hở bước vào chuyến đi. Tất cả mọi vật xung quanh dường như cũng bị cuốn hút, dõi theo ánh sáng ấy. Nhưng rất nhanh sau đó, mọi thứ thay đổi. Mặt trời mệt mỏi, tàn tạ dần và đi đến cuối cuộc hành trình. Đây cũng chính là vòng đời của một con người. Chỉ có điều, mặt trời mỗi sáng đều mọc để rồi lặn khi chiều xuống, còn con người chỉ có một cơ hội lên đường. Thời gian của họ mới ngắn ngủi làm sao, không kịp mà nghĩ ngợi, xoay xở. Thật tình cờ là Trương Đăng Dung từ một góc nhìn khác cũng có lúc có liên tưởng tương tự:

 

“Có những mùa hè không nắng

và mùa thu không trăng

thời gian đi trên những lối mòn không thể thấy

 

Em đừng ngoảnh lại

cứ để những chuyến tày chạy ngược chiều kí ức

không bao giờ vào ga

những gương mặt người lướt qua

như con số đếm giây trên đồng hồ điện tử.

 

Thành phố phía chân trời

một căn phòng một chiếc giường hai chiếc gối

một đôi mắt buồn

mười ngón tay thức dậy trước bình minh.”

(Thành phố phía chân trời - Trương Đăng Dung)

 

“Mùa hè” và “mùa thu” đều là những thời gian trong chốc lát có thể biến dời và rồi lặp lại theo một vòng tuần hoàn. Thế nhưng, trong cảm quan của thi nhân, phương trình đó lại hiện diện “thời gian đi trên những lối mòn không thể thấy”.

 

Thời gian vô tình trôi qua, có lúc Mai Văn Phấn kêu lên thảng thốt:

 

“Hoàng hôn như một cửa chùa

 Hư không trên ngón tay vừa đi qua

 Ta ngồi nhập định cùng hoa

Thành chuông ai thỉnh ngân nga cỏ mềm

Cầm tay gió dắt vào đêm

Mà hồn xanh lỡ để quên cuối trời

Dấu chân xin cát chớ vùi

Cho ta về lại luôn hồi kiếp sau.”

(Qua hoàng hôn - Mai Văn Phấn)

 

Tác giả đưa ra một loạt các câu hỏi nhưng thực chất là các câu phủ định, là một thực tại hiển nhiên, trong khi để níu giữ nó, người ta cần cả một phép màu.

 

“Trọn một kiếp người

Hoa uống cạn nước mắt với mồ hôi

Chim có về, bới tóc tôi mà làm tổ”

(Lời người trồng hoa - Mai Văn Phấn)

 

Khi con người vừa kịp nhận ra thời gian đó thì nó đã đi mất hút. Giống như cánh chim bay không biết mỏi, hay như gió thổi mây trôi, thời gian không đợi một người nào, cũng không bao giờ bị ngáng trở. Mạnh mẽ hơn, Mai Văn Phấn còn thể hiện khát khao níu giữ thời gian, níu giữ sự sống “Cho xanh tươi lại từng cơn úa vàng”:

 

“Thôi đừng dỗ cỏ lên trời

Khi tan mộng mị biết ngồi với ai

Dấu chân đừng hóa chông gai

Nép vào bóng xế, dũa mài hoàng hôn

Ta về đổ bóng xuống vườn

Cho xanh tươi lại từng cơn úa vàng

Ghé môi vào miệng thời gian

Cho hơi thở mọc vô vàn cỏ non”

(Tản mạn về cỏ - Mai Văn Phấn)

 

Như có một lực đẩy vô hình, thời gian trong thơ Trương Đăng Dung  và thơ Mai Văn Phấn lúc nào cũng gấp gáp, vội vã. Người xưa có câu “Ngày vui ngắn chẳng tày gang”. Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn đều quý trọng từng giây phút sống, đều có một tâm hồn hết sức nhạy cảm nên mới có sự gặp gỡ này. Cái nhìn của họ, có thể nói đậm màu sắc hiện đại. Bởi con người trong văn học cổ thường chỉ thấy ở thời gian sự tuần hoàn, họ lấy thiên nhiên, vũ trụ làm tâm điểm. Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn dường như đứng từ góc độ con người trần thế: thời gian không còn mang tính khách quan mà trở thành thời - gian - của - mình cho nên mới vội vàng làm vậy.

 

Có một điều đáng chú ý là thông thường ở các xã hội thuần nông, sự nối tiếp đều đặn của các mùa vụ thường dẫn đến thái độ vô tư trước sự trôi chảy của thời gian, dẫn đến một nhịp sống khoan thai, đều đều, chậm rãi. Chỉ khi các đô thị bắt đầu phát triển, con người mới thực sự có nhu cầu đo đếm thời gian một cách chi li. Đô thị trở thành nhân tố mang thái độ mới đối với thế giới và do đó cũng mang thái độ mới đối với vấn đề thời gian ở đô thị đã hình thành một môi trường xã hội có thái độ đối với thời gian hoàn toàn khác thái độ của những đẳng cấp nông dân phong kiến. Đối với thương nhân, thời gian là tiền, nhà kinh doanh cần sự xác định giờ giấc trong xưởng của mình. Thời gian có một giá trị lớn, nó biến thành một nhân tố cốt yếu của sự sản xuất. Như vậy, sự tương đồng trong cách cảm nhận về bước đi thời gian ở Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn còn có thể được lí giải một phần từ những gặp gỡ nhất định về hoàn cảnh xã hội.

 

2.2. Sức mạnh thời gian

 

Không dừng lại ở việc mô tả hành trình của thời gian, cả hai nghệ sĩ đều đã cụ thể hóa hình ảnh thời gian bằng sức tàn phá khủng khiếp của nó. Như trên đã nói, thời gian không còn là một tồn tại khách quan bao chứa mọi vận động, cũng không hẳn chỉ là khái niệm nhằm ghi lại những ấn tượng “kế tiếp nhau một cách nhịp nhàng chia thành những khoảng cách đều đặn, có chừng, lặp đi lặp lại” [23, tr.122] mà đã thực sự trở thành một thế lực có sức mạnh, không đếm xỉa gì đến con người.

 

2.2.1. Thời gian vô tình

 

Thời gian tàn phá cỏ cây muôn vật và cả con người bằng sự chảy trôi vô tình của nó, bằng sự đổi thay. Với Trương Đăng Dung thời gian mang vẻ vô tình lãnh đạm: “Sợ bóng tối sẽ tràn vào/ khi em mở tung cửa sổ/ cơ thể chúng ta thôi rạng rỡ./ Sợ thời gian rình trong từng sợi tóc/ khi môi ta rời nhau/ hơi ấm đã thuộc về quá khứ/ Sợ căn phòng trở nên trống rỗng/ khi em xếp lại chăn màn/ kí ức không còn nơi ẩn náu.” (Vật chứng - Trương Đăng Dung)

 

Tất cả đều sẽ chìm vào quên lãng, không gì trụ nổi với thời gian. Mai Văn Phấn cũng cùng chung tâm sự này: “Sau giấc ngủ dài mới hay cả quá khứ đã bị đánh cắp./ Thật kì lạ là qua một khoảng trống, không ai trong số họ nhớ nổi nơi đây đã xảy ra điều gì.” (Di chứng - Mai Văn Phấn)

 

Không chỉ có giá trị vật chất bị tiêu tan mà những giá trị tinh thần rồi đây cũng bị đe dọa. Trương Đăng Dung ý thức rất rõ khoảng cách thời gian như một “bức tường” ngăn cản những con người, những tấm lòng đến với nhau:

 

“Có những bức tường ta xây

và ta phá

có những bức tường ta không xây

và không nhìn thấy.

 

Anh và em đi trên mặt đất này

giữa những bức tường ta xây và phá

nhưng tất cả đều bị bao quanh

bởi những bức tường không nhìn thấy”

(Những bức tường - Trương Đăng Dung)

 

Trương Đăng Dung dành sự lo lắng khôn nguôi cho quá khứ “kí ức không còn nơi ẩn náu”. Mai Văn Phấn lo lắng khôn nguôi cho số phận của cái đẹp, cái đẹp vốn mong manh, yếu ớt thì lấy đâu ra sức mạnh để chống chọi trong khi ngay đến những thứ cứng rắn nhất cũng không thoát khỏi bàn tay của thời gian:

 

“Chuyện áo cơm leo lét dầu đèn...

Thời bom đạn bình minh như bát vỡ

Tôi ôm chiếc bát của bóng đêm ăn dở

Thành lực điền đối diện với hoàng hôn”

(Hát giữa hai mùa - Mai Văn Phấn)

 

Trước những vũ khí sắc bén của thời gian, cái đẹp là nạn nhân đáng chú ý nhất, dễ bị tổn thương nhất. Mai Văn Phấn mới chỉ dự cảm, còn Trương Đăng Dung miêu tả cụ thể một trường hợp mình đã trải qua: ấn tượng không phai mờ của ông về hình ảnh những người mẹ, những người đàn bà.

 

“Những người đàn bà đi trong bình minh

chiếc làn xách tay

mấy quả trứng, mớ rau

và một ít bóng đêm sót lại

 

Con phố dài

cánh cửa sổ nhà này mở ra

cánh cửa sổ nhà kia khép lại.”

(Những người đàn bà - Trương Đăng Dung)

 

Thế mới thấy Trương Đăng Dung nặng lòng đối với những người mẹ, người vợ, người đàn bà, xuất phát từ sự chứng kiến số phận của chính người mẹ, người xung quanh trong chính quê hương của mình, cuộc sống vất vả mưu sinh, sự nghiệt ngã của thời gian oằn mình trên đôi vai, gương mặt khắc khổ của họ. Dù vậy, giống như Mai Văn Phấn, ta thấy ở đây trước hết là một trái tim giàu rung cảm của một thi sĩ, không thể ngoảnh mặt làm ngơ, vô sự khi cái đẹp rơi vào vòng trầm luân.

 

Tàn bạo nhất, đáng sợ nhất vẫn là sự tấn công của thời gian vào con người. Thời gian sẽ lấy đi tuổi trẻ, tình yêu, sức sống mà con người không có cách gì níu giữ:

 

“Những giọt mưa hôm qua rơi xuống lá khô

những giọt mưa hôm nay rơi xuống mặt hồ

ngày vẫn thế và mặt trời vẫn thế

 

người đàn bà đẩy chiếc xe lăn

lần thứ mười ba đưa chống vào bệnh viện

đêm dài hơn ngày

ngày dài hơn con đường đã đi

nỗi buồn của chị

cũ hơn tháng ngày.”

(Ghi chép hè 2009 - Trương Đăng Dung)

 

Thời gian trôi đồng nghĩa với bất trắc, làm con người hoảng sợ: “Anh đã thấy những người dị dạng/ dang tay đòi hái mặt trời/ những bóng ma thọt chân, lang thang/ đòi trở về quê cũ/ và những đội quân không mũ/ tay súng, tay đao, chân bước thụt lùi/ những nhà thơ chống gậy đứng cười/ trước những con trâu mông dính đầy mạng nhện...” (Chân trời - Trương Đăng Dung)

 

Không giống như dòng sông có điểm nguồn và đích đến, dòng thời gian vô thủy vô chung mãi trôi vô tận. Có lẽ đời người như sông, bị gió thời gian cuốn xuôi dòng, sớm muộn gì cũng đi tới điểm kết thúc. Không dừng lại ở việc miêu tả cái già, cái tàn tạ, cả hai nhà thơ đều đẩy đến tận cùng sức tàn phá của thời gian – cái chết.

 

Vũ trụ có thể vĩnh viễn, mùa xuân rồi cũng tuần hoàn nhưng tuổi xuân của con người chỉ có một lần, đã qua là qua mãi. Cho nên Xuân Diệu đã nồng nhiệt phủ định:

 

“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại !”

 

Thước đo thời gian của thi sĩ là tuổi trẻ. Tuổi trẻ một đi không trở lại “chẳng hai lần thắm lại” thì làm chi có sự tuần hoàn ! Trong cái mênh mông của đất trời, cái vô tận của thời gian, sự có mặt của con người thật là ngắn ngủi, hữu hạn. Nghĩ về tính hạn chế của kiếp người, Xuân Diệu đã đem đến một nỗi ngậm ngùi thật mới mẻ. Ta cảm nghe rất rõ tiếng thở dài bất lực của thi nhân. Ta nghe rõ cả cái bâng khuâng, nuối tiếc của nhà thơ phả vào đất trời. Dường như trước mắt người đọc là cả một trời tiếc nuối. Tâm trạng ấy của Xuân Diệu ta cũng bắt gặp trong bài thơ Giục giã:

 

“Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn

Vừa xịch gối chăn mộng vàng tan biến

Dung nhan xê động sắc đẹp tan tành

Vàng son đang lộng lẫy buổi chiều xanh

Vừa ngoảnh lại cả lầu chiều đã vỡ”

 

Cái chết xuất hiện nhiều lần trong thơ Mai Văn Phấn ám ảnh như một điểm cáo chung, chấm dứt tất cả. Có khi nhà thơ gọi tên một cách trực tiếp, cũng có khi dùng cách diễn đạt khác:

 

“Tử khí kéo ngọn bấc tới đỉnh trời

Con quạ rực sáng.

......

Con quạ mơ

Mọi cái chết đều được sắp đặt

Sau tiếng quạ kêu

Ai đã tự nguyện nằm xuống”

(Biến tấu con quạ - Mai Văn Phấn)

 

Khi có chuyện đau buồn, người ta thường an ủi nhau: thời gian sẽ làm lành mọi vết thương, bởi thời gian là liều thuốc quên lãng, nó sẽ làm mờ nhạt rồi phôi phai tất cả. Nhà thơ đặt ra giả thiết: những gì là chân lí hiển nhiên của ngày hôm nay sẽ trở thành mối nghi ngờ xác đáng của ngày mai. Vì vẻ đẹp - cho dẫu của một con người - vốn mong manh, chóng tàn, chẳng thể bảo toàn vẹn nguyên hình dạng. Khi anh chết đi, bị chôn dưới mộ sâu, lòng đất giấu kín thân thể vốn có lẽ từng là khuôn mẫu của thời đại, thanh nhã xưa nay chưa từng có. Cả trời cũng không thể lên tiếng, không có gì chứng minh được một vẻ đẹp đến thế đã từng tồn tại trên trái đất này, bởi không có gì làm bằng chứng. Cho nên, nhà thơ luôn nghĩ về cái chết với một niềm lo sợ khôn nguôi:

 

“Bóng đen nép vào cổ vật

Còn run sợ lúc gọi tên

Nước mắt nhòe mờ niên đại”

(Nhịp điệu vẽ lối đi - Mai Văn Phấn)

 

Cũng giống như Mai Văn Phấn, Trương Đăng Dung nhắc nhiều đến hình ảnh con quạ. Ông nhắc tới hình tượng này, nhưng không phải để cảnh báo mà để suy tư, chiêm nghiệm. Trương Đăng Dung buồn rầu khi nhìn thấy hình ảnh con quạ trong hiện tại dự báo cái chết:

 

“Anh không còn gì ngoài bàn tay em

vuốt lên tóc anh trước cả ánh mặt trời

thời gian rơi

qua từng kẻ ngón tay em vất vả

không giữ được đâu em

anh nghe ngày một gần hơn tiếng lũ quạ.”

(Anh không còn gì ngoài em - Trương Đăng Dung)

 

Với Trương Đăng Dung, điều đáng sợ hơn cả cái chết về thể xác là cái chết tâm hồn, là khi người ta sống không mộng tưởng, không mơ ước, hay chết rồi mà chẳng làm gì được cho đời. Cái chết đáng sợ còn bởi nó là một cái gì bất trắc, không thể đoán biết, cái chết hiện hữu ngay khi đang sống:

 

“Có một thời

có một thời

ta đã sống thật sao”

(Có một thời - Trương Đăng Dung)

            

Con người càng tha thiết với đời sống thì càng lo sợ cái chết. Nhưng bản thân cái chết, đến lượt nó, cũng sẽ trở thành nạn nhân của thời gian, bởi tiếp theo nó là sự quên lãng của người đời, có nghĩa là quay về với hư vô, cát bụi, như chưa từng tồn tại.

 

Không giống như các văn nhân lãng mạn đôi khi thi vị hóa cái chết, xem cái chết “nhẹ tựa lông hồng”, cả Mai Văn Phấn và Trương Đăng Dung đều thấy nó như một hệ quả tất yếu khi thời gian đặt bước chân qua. Cái chết hoàn toàn chủ động tìm đến con người, còn họ luôn bị động, yếu ớt chống trả. Chết là kết thúc mọi ước mơ, hoài bão, bị chôn vùi trong lãng quên, là nguội tắt mọi niềm hi vọng nếu không thể tìm ra giải pháp cho một sự bắt đầu mới. Hầu như các nhà thơ đều đã “bỏ quên” thời gian tuổi trẻ. Thơ của hai tác giả này đều ít nói đến thời gian và tuổi trẻ. Trong thơ Mai Văn Phấn, đó là sự rời xa vĩnh viễn của cái đẹp khỏi thế gian còn với Trương Đăng Dung, đó là sự mất mát các giá trị tinh thần. Tuy nhiên, nói vậy không có nghĩa họ ủy mị, sướt mướt hay tuyệt vọng. Các nhà thơ chỉ bằng một tinh thần hiện thực nhìn thẳng vào thực tế, để rồi mỗi người một tâm trạng, một cách ứng xử nhằm tìm ra sự thanh thản cho tâm hồn.

 

Như một viên tướng lão luyện, thời gian chỉ huy cả một đội quân tinh nhuệ ngày, mùa, tháng, năm… cùng các vũ khí nhiều uy lực luôn sẵn sàng phát huy tác dụng. Đứng sau nó là cả TỰ NHIÊN đầy thách thức mà con người chưa bao giờ thôi khát khao chinh phục để rồi chưa một lần đắc thắng.

 

2.2.2. Thời gian phôi pha

 

Theo vòng quay vô tận của thời gian, những biến thiên vô chừng sẽ diễn ra. Giống như một bàn tay vô hình vận hành cỗ máy, thời gian len lỏi vào từng đường gân thớ thịt của con người, thay thế các tế bào đang tràn trề sinh lực bằng những cái tương tự nhưng cũ kĩ rệu rã. Trong thơ Trương Đăng Dung và thơ Mai Văn Phấn, ta đều thấy nỗi ám ảnh tuổi già – một nỗi đau dai dẳng.

 

Trương Đăng Dung nhắc đến hình ảnh tóc bạc – hình ảnh thể hiện rõ nhất dấu ấn sương tuyết thời gian in hình trên mỗi cá nhân. Tóc bạc là dấu ấn của tuổi tác. “Cũng như móng tay hay các chi của con người, tóc được xem là vẫn giữ quan hệ mật thiết với thân thể sau khi đã tách rời nó. Tóc tượng trưng cho phẩm chất của một sinh linh, thể hiện tập trung sức mạnh tinh thần của những phẩm chất ấy. Chúng đã hợp nhất làm nên một cơ thể vì giữa chúng vốn có sự thông cảm” [14, tr.93]. Với nhiều dân tộc tóc có ý nghĩa rất lớn trong đời sống tâm linh thể hiện ở các lễ nghi, cách để hay cắt tóc. Người phương Đông cũng nói “Cái răng cái tóc là gốc con người”, khi kết hôn thì người ta dùng thành ngữ “kết tóc xe tơ”. Trương Đăng Dung  sử dụng hình ảnh mái tóc như một phương tiện chuyển tải tâm sự của mình trước thời gian trôi chảy. Tóc bạc không chỉ là dấu hiệu bên ngoài, sự biến đổi sinh lý mà còn mang yếu tố tâm lý. Trương Đăng Dung rất ý thức về điều này:

 

“Anh không thấy thời gian trôi

Chỉ thấy lòng ngày một tha thiết với trời xanh,

Sợi tóc rụng bàn tay nào giữ được

Mỗi ban mai khắc khoải việc chưa thành”

(Anh không thấy thời gian trôi - Trương Đăng Dung)

 

Nhà thơ “soi gương” như một hình thức tự chiêm ngắm, mỗi lần “soi” là một lần nhận ra biểu hiện không mong muốn ở mình:

 

“Anh nhìn vào mắt em

thấy hình anh ở đó

Nếu mắt em khép lại

ảnh hình kia chỉ còn lại trong em

anh không còn thấy anh trong hiện tại

chỉ thấy em với những hình những ảnh

của mùa hè đang qua

mấy gốc vườn và mấy khóm hoa

 

chiếc ghế bỏ quên cơn mưa mùa hạ

tóc bà bạc xóa

thấp thoáng bên khung cửa

nắng nhòa.”

(Ảo ảnh - Trương Đăng Dung)

 

Ta hiểu được, tháng năm không chỉ đưa tới mái tóc bạc bên ngoài mà còn là sự “bạc”, sự già nua, mệt mỏi bên trong. Lúc đầu nhà thơ còn ngỡ ngàng, thảng thốt, đến khi chấp nhận nó như một thực tế, tóc bạc thành rào cản đối với con người, trở thành một giới hạn ngăn cách: đã không còn trẻ trung cũng có nghĩa thời gian còn lại rất ngắn, chẳng đủ để làm gì. Thời gian như không ngừng dồn đuổi, con người bị cuốn vào vô vàn mối lo:

 

“Anh không còn gì ngoài em

sau tuổi năm mươi ngả bóng.

 

Anh chuẩn bị sống từ lúc sinh ra

nay hai màu tóc đan nhau

ai biết được

còn bao nhiêu năm tháng nữa trên đầu?”

(Anh không còn gì ngoài em - Trương Đăng Dung)

 

Đã bước sang bờ bên này thì không thể quay trở lại, thế nhưng nhà thơ vẫn nhiều lần ngoái trông. Nhà thơ muốn sống lại ký ức thời trai trẻ, nhiệt huyết, chất tài hoa lãng tử cháy không nguôi trong một cơ thể đứng hướng “màn đêm”.

 

“Anh đã đứng trong màn đêm

khắc khoải chờ em đến

cùng đi về phía chân trời.

 

Anh đã thức nhiều đêm chờ đợi

khao khát một thứ gì nồng cháy như mặt trời

ngọt ngào như quả chín.”

(Chân trời - Trương Đăng Dung)

 

Hình ảnh sông trong thơ Trương Đăng Dung thường gắn với nỗi lo sợ, hoảng hốt, muốn tránh xa. Phải chăng ông thấy ở dòng nước đang cuồn cuộn trôi kia bước chân vô tình của thời gian đang vận động nhưng lại gặp ở núi cái trầm tĩnh uy nghi, vững bền bình lặng. Tóc bạc lúc này đồng nghĩa với thất vọng, bất lực, thậm chí hoảng sợ:

 

“Không một cành khô, lá khô

sông thanh thản kéo trời

trôi theo mình lặng lẽ.

Không mang theo những gì để trở thành bất tử

sông  chảy vô tư bên những lăng mộ im lìm

những đền đài quạnh quẽ.”

(Trên đồi Vọng Cảnh - Trương Đăng Dung)

 

Cũng như thơ Trương Đăng Dung, tóc không chỉ thể hiện sự biến đổi bên ngoài mà còn là dấu hiệu của tuổi tác trong thơ Mai Văn Phấn

 

“Nỗi u mê xõa tóc

Tiếng trẻ con bám vào răng lược

Chân tay chúng chạm nhau đánh lửa

Từ miệng đất đai hơi ấm tỏa lên”

(Đợi mùa - Mai Văn Phấn)

 

Có thể hình dung gương mặt người trẻ tuổi khi thời gian đi qua sẽ giống như một cánh đồng khô nứt nẻ, mọc đầy cỏ dại tả tơi, không còn giá trị để khai thác. Những rãnh sâu bị đào bới - vốn chẳng còn cơ hội được lấp đầy ngăn cách anh với những ngày trẻ trung sôi nổi đầy nhiệt huyết. Gương mặt ấy “vốn là…. phần sống động nhất, nhạy cảm nhất (trung khu của các giác quan) mà dù muốn dù không, ta để cho người khác nhìn thấy, đó là cái “tôi” sâu kín đã bóc trần ra một phần, nói lên rất nhiều so với phần còn lại của thân thể” [14, tr.572]. Hình ảnh ấy cứ trở đi trở lại, khiến nhà thơ luôn phải nhắc nhở, sợ hãi:

 

“Sáng đâm chồi từng vệt

Tối đâm chồi từng vệt

 

Non tơ ngọn tóc

Hút cằn khổ đau

Đèn vụt lóe cắt không gian thành thửa

Ánh sáng chạy thông bổn phận”

(Đối thoại với thời gian - Mai Văn Phấn)

 

Khi những nếp nhăn xuất hiện cũng là lúc con người có sự thay đổi địa vị khủng khiếp: từ buổi sáng trong lành thành đêm tối tăm, từ vị vua quyền uy giàu có thành kẻ trắng tay, từ mùa xuân sức sống sang mùa đông già cỗi. Bởi gương mặt kia đã bị rút hết máu, chẳng còn nhiệt huyết sống, sinh lực. Thời gian tạo nên sự  già nua.

 

“Trọn một kiếp người

Hoa uống cạn nước mắt với mồ hôi.

Chim có về bới tóc tôi mà làm tổ”

(Lời người trồng hoa - Mai Văn Phấn)

 

Với tuổi trẻ, thời gian là một thách thức, nhưng với tuổi già, nó trở thành kẻ thù – một kẻ thù đáng sợ. Bởi tuổi trẻ, cho dù nhiều khi đồng nghĩa với bồng bột, non nớt nhưng tất cả mới chỉ bắt đầu, cánh cửa vừa mở ra và cuộc hành trình vẫn hứa hẹn đầy bất ngờ. Ngược lại, tuổi già có thể đi đôi với từng trải, minh triết nhưng đó là khi người ta phải nghĩ tới sự khép lại. Họ, như vận động viên đến đoạn nước rút đã nhìn thấy đích, chỉ có điều nó không phải cái đích vinh quang, hay đúng hơn, như người tử tù trên con đường đến nơi thi hành án. Quỹ thời gian còn lại quá ngắn, họ bị đẩy về phía trước trong niềm tiếc nuối sống vô bờ.

 

2.3. Thời gian và kiếp người

 

2.3.1. Thời gian hiện tại

 

Quan sát những quy luật tự nhiên, con người tất yếu có nhu cầu tự nhận thức: mình là gì, là ai trong thế giới vô cùng. Trước bước đi nhanh chóng của thời gian cùng sức tàn phá ghê gớm của nó, cả Mai Văn PhấnTrương Đăng Dung đều có những giây phút nhận ra: thời gian và cuộc đời con người trên trần thế thật ngắn ngủi vô chừng.

 

Trương Đăng Dung gọi cuộc đời là “kiếp người ngắn ngủi”, kiếp người đã ngắn ngủi lại còn “lặng lẽ”. Nói như Mai Thị Liên Giang về thơ Trương Đăng Dung “Đó là sự lặng lẽ của một tâm hồn, của một con người nặng lòng với ký ức, nặng lòng với những duyên nợ nhân gian. Lặng lẽ để chuẩn bị cho những đợt sóng ngầm dữ dội của dòng sông không biết trôi về đâu. Lặng lẽ và kiếp người” [9, tr.242].

 

Thời gian của kiếp người ngắn ngủi lặng lẽ bao trùm tất cả, bởi quá khứ quá lớn lao tỏa bóng, thống trị: “trôi theo mình lặng lẽ” (Trên đồi Vọng Cảnh), “những dấu hỏi chạy trên đường/ lặng lẽ (Thành phố phía chân trời), “từng khóm lá xanh đang lặng lẽ nép trong vườn” (Viết cho con), “em tỏa sáng giữa đời anh lặng lẽ” (Có thể). Sau tất cả thời gian thật trôi nổi, bất trắc, không có gì là ổn định, bền vững. Nhà thơ nhiều lúc hình dung mình như con tàu đã khuất:

 

“Tàu đã khuất, con đường xa vô vọng

thi sĩ vẫn đi

mong kịp trình lên Thượng Đế

những lầm than kiếp người

rồi như một tráng sĩ

kiêu hãnh thẳng tiến về Định mệnh.”

(Tô Thùy Yên - Trương Đăng Dung)

 

Diễn tả thời gian đời người, Trương Đăng Dung sử dụng từ “kiếp người”. Từ “kiếp người” được lặp lại ở  rất nhiều bài thơ là sự suy tư, đúc kết của nhà thơ về kiếp sống. Nhưng Trương Đăng Dung chỉ nói đến kiếp này mà không hề nhắc đến, không thấy hứa hẹn về kiếp sau. Nhà thơ chỉ mượn các khái niệm để bộc lộ tâm tư mình còn thực chất, ông không có cái tâm an nhiên của người đạt đạo. Về bản chất, cảm xúc ấy có lẽ xuất phát từ lòng yêu đời, yêu cuộc sống tha thiết. Càng yêu cuộc đời, Trương Đăng Dung càng thấy khoảng thời gian sống của người ta sao mà chóng vánh. Cho nên, nói đời như mộng, như chớp mắt không phải để bừng tỉnh rồi quay lưng mà chính là sự thể hiện một khao khát sống dài hơn.

 

Giống như Trương Đăng Dung, Mai Văn Phấn cũng không ngừng suy tư về cuộc đời. Ráo riết hơn, thực tế hơn, ông nhận thấy con người sống giống như kẻ đi vay nặng lãi hay như một hạt giống của tự nhiên, sống đời cây cỏ, sinh ra, trưởng thành và sẽ vĩnh viễn bị chôn vùi nếu không ra hoa kết quả:

 

“Mùa hoa gom cả ánh ngày

Cho xanh hồn lá nhẹ bay về trời

Thấy mình là gió thoảng thôi

Còn trăm năm giấu nụ cười trong hoa.

(Hoa Ngọc Trâm - Mai Văn Phấn)

 

Con người được Mai Văn Phấn miêu tả giống như hoa hồng giữa mùa xuân. Nhưng tự nhiên tạo ra anh là để nhân giống thêm lên, để có sự thu hoạch: khi anh chín rụng, sẽ có những chồi non mang dòng máu của anh tiếp tục nảy nở, tô điểm cho thế gian này. Nếu anh lãng phí, không tận dụng được tinh hoa của thời thanh xuân ngắn ngủi để tự nhân bản, anh không những có lỗi với bản thân mà còn phụ tấm lòng của người mẹ đã sinh ra anh – tự nhiên. Ý tưởng này được nhà thơ nuôi dưỡng và phát triển trong rất nhiều bài thơ khác. Lại có khi, Mai Văn Phấn hình dung thời gian trên thế gian giống như kẻ vay nặng lãi, số nợ tăng lên từng khoảnh khắc, ngày càng chồng chất và đến lượt mình, anh phải sử dụng nguồn vốn ấy sao cho hiệu quả nhất đề không tự hại mình. Thời gian đời người do đó lúc nào cũng gấp gáp:

 

“Đêm đầu mùa

Anh cuống quýt hôn em qua kẽ lá

Khi sương tan cành biêng biếc xanh.

 

Cô đơn tràn bãi trưa hanh

Mùa đi rung cây lá đổ

Phải dằn dữ và cũng mềm như gió

Gió từ biển xanh mang sắc của trời.

Bình minh lên chiếu sáng nửa đời

Còn nửa kia chìm vào bóng tối

Bao lối cỏ cứ xanh vội vội

Thấm lên bàn chân ai qua.”

(Màu xanh - Mai Văn Phấn)

 

Theo Mai Văn Phấn, vẻ đẹp con người, thời gian sống về bản chất không thuộc về họ, chúng chỉ là những của cải do vay mượn mà có. Lóa mắt hay lầm tưởng về những thứ ấy, con người sẽ bị chôn vùi và vĩnh viễn là kẻ trắng tay. Nhưng nếu khôn ngoan, họ phải biết tính toán, sử dụng và nhất là làm nhân lên số tài sản này. Vừa là kẻ đi vay vừa là người đầu tư, con người mải miết trong vòng quay của mình cho tới khi kết thúc. Luôn luôn, Mai Văn Phấn nhắc nhở con người không quên điều ấy:

 

“Anh nghiêng vào chiếc lá

Lá bỗng đôm đốm vàng

Có giọt sương lạnh giá

Rơi xuống hồn anh đang

 

Lẫm chẫm vào xốn xang

Cho lòng mềm tơ lụa

Xin em hong lên gió

Xem sợi nào ngân nga.

 

Gieo mình xuống phù sa

Bàng hoàng nghe tách vỏ

Ủ chân thật vào giữa

Chờ mùa xuân nảy mầm.”

(Chân thật - Mai Văn Phấn)

 

Thái độ ấy phản ánh mối quan tâm lớn của Mai Văn Phấn đối với cuộc đời. Người đọc luôn thấy có sự đối lập giữa cái vô cùng với cái hữu hạn, cái nhỏ nhoi yếu ớt với sức mạnh vô biên, cái nhất thời với cái bất tử qua cảm nhận thời gian của hai thi sĩ, mà tâm điểm của sự đối lập ấy chính là cuộc sống con người - thời gian vô cùng tận.

 

2.3.2. Khoảnh khắc thời gian

 

Trương Đăng Dung trong lời phát biểu tại Lễ trao giải thưởng của hội Nhà văn Hà Nội 2011 đã thừa nhận rằngCác nhà phê bình đã chỉ ra rất đúng về bản chất của cảm thức cô đơn, thời gian và cái chết trong tập thơ Những kỉ niệm tưởng tượng. Quả thực, tôi đã trao cho motip khoảnh khắc một ý nghĩa quan trọng để từ đó thể hiện cảm thức thời gian trong tương quan với sự cô đơn và cái hữu hạn của kiếp người. Một khoảnh khắc có thể lóe lên điều gì đó trong đời sống hiện đại, nó ẩn giấu ý nghĩa và hạnh phúc của cả cuộc đời để rồi sẽ mất đi vĩnh viễn. Và khoảnh khắc cũng chỉ là một trong những hình thức của sự cô đơn, bởi vì ở thời hiện tại tâm hồn không chỉ cô đơn trong không gian mà cô đơn cả trong thời gian” [9, tr.508]. Sự cảm thụ thời gian trong thơ chính là mối rung động của nhà thơ trước cuộc đời và ý nghĩa chung của đời sống nhân sinh. Nhà thơ càng nặng cõi đời thì sự quan tâm trước mọi thời khắc càng trở nên mãnh liệt.

 

Thời gian đời người ngắn ngủi, cho nên với cả hai nhà thơ, thời gian hiện tại chỉ là một khoảnh khắc. Nếu thời gian cuộc đời mang tính chất suy tư chiêm nghiệm thì thời gian hiện tại gần với hiện thực hơn, mang nhiều yếu tố trực quan, tức thời. Chính vì tức thời nên đôi khi nó mang tính ranh giới. Khi nhà thơ nói “bây giờ”, ta hiểu rằng cái “bây giờ” ấy khác với cái trước đây, và sẽ khác cái sau này. Trương Đăng Dung “tự bạch” “tôi không mang đến điều gì mới lạ, giữa quá khứ và tương lai tôi chỉ là đứa trẻ biết già”. Chớp bắt những khoảnh khắc thánh thiện của đời sống thường nhật  Mai Văn Phấn không lãng phí ngôn từ hình ảnh, những ẩn dụ của ông thường sâu sắc và chính xác.

 

“Chúng mình hôn nhau trong hành lang hẹp

trên cỏ xanh, trong những góc tối

trên tháp chuông, bên gốc cây cổ thụ...

 

Bốn bề nước tràn ướt chân

lúc ấy gió thổi rất mạnh

con sâu đo em đu lên người anh

thì thầm gặm hết những xanh non

 

Con ong vẫn nhởn nhơ bay

thác đổ đều đều, mưa rơi rất chậm

nhưng tất cả ngọn cây đều bạt về một phía.”

(Gió thổi - Mai Văn Phấn)

 

Cho nên bản thân khái niệm “hiện tại” cũng lại mang tính tương đối. Có thể hình dung đó là những thời khắc mà hai nhà thơ trải qua. Họ đều là những con người âu lo, luôn trân trọng từng giây phút sống. Cả Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn đều đặt ra vấn đề: những điều có ý nghĩa ở giây phút này sẽ trở nên vô nghĩa ngay lúc sau.

 

Với Trương Đăng Dung “Cô đơn, khát vọng, và khoảnh khắc trong thơ hiện đại” góp mặt trong tập thơ Em là nơi anh tị nạn là một xác chứng, khi ông cho rằng: “Thi sĩ hiện đại nắm bắt khoảnh khắc như nắm bắt mùi hương thoảng qua. Trong các nền văn học xưa, ý nghĩa của cái khoảnh khắc này còn xa lạ, vì các nền văn học tôn giáo chỉ biết đến những giá trị ổn định. Trong thơ hiện đại, khoảnh khắc là một trong những hình thức xuất hiện của nỗi cô đơn, giống như khát vọng vậy. Bởi vì, người hiện đại không chỉ cô đơn trong không gian mà còn cô đơn cả trong thời gian” [10, tr.81, 82]:

 

“Sợ bóng tối sẽ tràn vào

khi em mở tung cửa sổ

cơ thể chúng ta thôi rạng rỡ.

 

Sợ thời gian rình trong từng sợi tóc

khi môi ta rời nhau

hơi ấm đã thuộc về quá khứ.”

(Vật chứng - Trương Đăng Dung)

 

Còn Mai Văn Phấn chỉ muốn “bảo lưu” tất cả những khoảnh khắc, dáng nét đời thường ấy trong vẻ đẹp giản đơn, trong trẻo và tự nhiên nhất. Nhận thấy khá rõ trong thơ Mai Văn Phấn chân dung cái tôi chủ thể đằng sau bức tranh đời sống ấy. Đấy là cái tôi chủ yếu biểu hiện qua các hành động nhận biết thể chất trực tiếp. Chẳng hạn, bằng tay: kê chậu đỗ quyên, nhặt được/ chiếc tất trẻ con,cầm ngọn nến/ soi về phía biển, ngắt ngọn cỏ khô, bẻ củi khô…; bằng chân: Tôi kiễng chân, dấn bước/ lặn sâu vào ánh sáng, tôi vừa đi vừa đếm/ bước chân… ; bằng miệng:miệng còn ngậm cà phê; cắn từng miếng, cắn dọc/rồi cắn ngang, uống một nửa/ chờ gió…; bằng tai: Nghe tiếng sóng, nghe gió/ miết từng đợt…; bằng mắt: Mải nhìn mưa phùn, mải nhìn cành ổi/ tụ quả, nhìn lên đồi/ cây táo bắt đầu ra nụ… Giác quan thể chất bén nhạy cho phép cái tôi nhà thơ có thể thụ cảm đời sống một cách hết sức nhanh chóng, mãnh liệt và tinh tế. Điều ấy giải thích vì sao đời sống luôn được tái hiện tươi tắn và giàu cảm giác đến thế trong thơ Mai Văn Phấn. Mặt khác, cũng bởi đấy còn là cái tôi hết sức nhạy cảm với Cái đẹp, nhất là Cái đẹp của hiện tại, trong cuộc sống đời thường, quanh mỗi chúng ta. Đặc biệt, cái tôi ấy luôn có ý thức tìm kiếm và hướng đến những khoảnh khắc mà ở đó con người tồn tại trong sự cảm thông, hòa hợp sâu sắc với thiên nhiên, với mọi biểu hiện trần tục mà tinh khôi nhất và ở đó, cái hiện tại, cái nhất thời cũng đồng thời đánh thức xúc cảm hướng về cái Vô cùng, cái Vĩnh cửu.

 

“Câu ca làm khổ người ta

Em bây giờ hát bài ca khác rồi

Lại đây gió của ta ơi

Thổi làm chi mãi những lời thở than

 

Để ta bới nỗi đêm tàn

Tìm trong đất tiếng ngày sang thầm thì”

(Tiếng gọi từ những cánh đồng - Mai Văn Phấn)

 

Số phận con người luôn là niềm băn khoăn trăn trở xuyên suốt các sáng tác của Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn. Không chỉ đặt con người trước cơn gió thời đại hay trong các mối quan hệ xã hội, cả hai nhà thơ đều thấy ở họ sự mong manh chẳng khác gì một chấm nhỏ trên dòng xoáy lốc thời gian. Gióng lên hồi chuông cảnh báo, hai thi sĩ nhắc nhở ta dừng một phút để tự nhìn lại, tự xác định vị trí của mình trong đời sống.

 

Ý thức về thời gian cũng được nhà triết học Heraclite nói một cách hình ảnh: “Không ai có thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông”. G. Loris – một nhà tiểu thuyết kị sĩ thời trung cổ trong cuốn Tiểu thuyết về hoa hồng, bằng một sự nhạy cảm đặc biệt đã viết: “... nó vận động ngày và đêm, không ngừng không nghỉ, nó chạy nhưng ta không thấy nó chạy, tưởng như là nó không vận động tí nào cả, nhưng thực ra nó không ngừng giây lát nào cả. Và nó chạy liên miên đến nỗi không thể nào hiểu được thế nào là giây lát hiện tại, hỏi các vị học giả tu sĩ họ cũng chịu thôi; bởi vì chưa kịp nghĩ về giây lát thì đã mất ba lần thời gian rồi. Thời gian luôn chạy, không thể nào ngừng, không quay trở lại được cũng giống như nước nhỏ từng giọt, từng giọt sẽ nhỏ mãi. Thời gian, chẳng có thể trụ lại được nó, sắt cũng vậy, sự vật nào cứng rắn nhất cũng chịu thôi, bởi vì nó ăn mòn, xói mòn tất cả, thời gian làm cho mọi sự vật biến đổi, nuôi lớn tất cả làm cho mọi sự vật hao mòn và diệt vong. Thời gian làm cho cha ông ta, làm cho các vị vua, các hoàng đế già đi, thời gian cũng sẽ làm cho tất cả chúng ta sẽ già nếu như tử thần không sớm đến lôi chúng ta đi” [18, tr.141]. Các vấn đề vừa được nhắc đến trên đây thực ra là những vấn đề muôn thuở trong đời sống con người. Không chỉ có Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn, từ xa xưa, đứng trước vũ trụ mênh mông, thấy thời gian chảy trôi vô cùng, Trần Tử Ngang từng cảm khái:

 

“Tiền bất kiến cổ nhân

Hậu bất kiến lai giả

Niệm thiên địa chi du du

Độc thương nhiên nhi lệ hạ

(Ai người trước đã qua)

                                                                    

Đến Thơ Mới, nỗi ám ảnh thời gian thể hiện rõ qua thơ Xuân Diệu:

 

“Già sẽ đến giơ tay xua ánh sáng

Đuổi bướm chim làm sợ cả hoa hương

Và dần dà càng rõ rệt bộ xương

Mà bạn hữu sẽ đặt nằm dưới đất”

(Thanh niên)

 

Cũng như Xuân Quỳnh:

 

“Em đâu dám nghĩ là vĩnh viễn

Hôm nay yêu mai có thể xa rồi’

Niềm đau đớn tưởng như vô tận

Bỗng có ngày thay thế một niềm vui”

(Nói cùng anh)

 

Thời gian vẫn là nỗi ám ảnh, là niềm lo âu khắc khoải, bởi con người dù sống ở thời đại nào cũng đều khao khát thấu hiểu mối quan hệ giữa bản thân với thế giới, rồi khi hiểu ra, họ đều nhận thấy sự nhỏ bé của mình trong trời đất vô cùng. Ở Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn, thời gian đã thực sự hiện hữu thành một chủ đề lớn. Ý thức về thời gian thể hiện một con người cá nhân đang cựa quậy, không còn bằng lòng, tìm cách thích ứng với những quy chuẩn có sẵn mà đang oằn mình trong dự cảm đổi thay, tự tách mình ra khỏi thế giới để mà chiêm nghiệm, suy ngẫm, ngắm nghía. Sự gặp gỡ của họ có thể xem như sự gặp gỡ của hai trái tim lớn, không chấp nhận dừng lại ở thời đại mình mà đã cất lên tiếng kêu than cho con người mọi thời đại.

 

 

 

 

Chương 3

 

DẤU ẤN RIÊNG TRONG THƠ TRƯƠNG ĐĂNG DUNG VÀ

MAI VĂN PHẤN VỀ CẢM THỨC THỜI GIAN

 

 

Những con sóng dù nhỏ to, thuộc đại dương nào vẫn khôn nguôi khao khát vỗ bờ, thơ Mai Văn Phấn và thơ Trương Đăng Dung đều khắc khoải trong nỗi ám ảnh trước thời gian chảy trôi, sức tàn phá của nó, trước nỗi buồn thân phận người mong manh nhỏ bé. Nhưng dù trộn lẫn cả vầng trăng u huyền phương Đông và vầng mặt trời rực rỡ phương Tây, trong cách cảm nhận thời gian, hai nhà thơ vẫn có sự khác biệt. Sự khác biệt ấy thể hiện ở hai hình thái thời gian, ở dấu ấn xử sự với thời gian và hai phương thức thể hiện thời gian.

 

3.1. Hình thái thời gian

 

Về bản chất, thời gian trong thơ Trương Đăng Dung và thơ Mai Văn Phấn có sự phân biệt rõ thời gian thực tế với cảm thức thời gian của con người. Thời gian thực tế mang hai đặc tính: sự chảy trôi nhanh chóng không ngừng và tính tuần hoàn theo một vòng quay, chu kì. Trương Đăng Dung miêu tả bốn mùa đắp đổi, ngày tháng tiếp nối để cho thấy quy luật không thể nào hoán cải. Trương Đăng Dung sống luôn mang theo quá khứ,  tựa vào quá khứ, với những kỷ niệm lúc thật lúc ảo.

“Bao năm rồi anh tìm em

trong những bình minh không có mặt trời

trong những lâu đài chỉ có cánh dơi

trong những giấc mơ không đầu không cuối.”

(Ảo ảnh)

 

Mai Văn Phấn cũng nhìn thấy vòng quay ấy đang diễn ra từng ngày, thậm chí từng giây từng phút nhưng luôn tựa vào “ngữ nghĩa của đất mở”:

 

 “Căng ngang trời cánh chim

cho ngữ nghĩa trị vì mặt đất

nơi mặt gió gặp đỉnh đồi cúi gục

hang tối phà bí ẩn với sương mai

ao chuôm tìm hướng lên trời

dòng sông vừa chảy

vừa sinh nở”

(Đất mở)

 

Điều này phản ánh sự nhận thức của mỗi tác giả về chu trình tự nhiên diễn ra xung quanh. Nhưng trên cái nền chung ấy, mỗi nhà thơ lại chọn cho mình một đặc điểm để khắc sâu, tô đậm. Giống như cùng quan sát bầu trời, có họa sĩ chỉ thấy những đám mây ngũ sắc của một ngày đẹp đẽ, có người lại chỉ quan tâm đến những cánh chim lạc đàn bay cô đơn, Mai Văn Phấn và Trương Đăng đã dựng lên những khuôn mặt khác nhau của thời gian, đó đồng thời là tấm gương phản chiếu đặc điểm thời đại cũng như cá tính mỗi thi nhân.

 

3.1.1. Thời gian tưởng tượng trong thơ Trương Đăng Dung

 

Thời gian là dấu hiệu của tàn phai và rơi rụng. Thời gian là sự tuôn chảy “một đi không trở lại”. Chính ý thức về thời gian một chiều chứ không phải tuần hoàn, thời gian định hướng chứ không phải định tính, đã tạo nên cái nhìn nghệ thuật trong toàn bộ sáng tác của ông. Thời gian với những bước chuyển động tàn nhẫn, đối lập với thời gian của một kiếp người.

 

Thời gian vô hồi vô tận nhưng cuộc đời con người lại hữu hạn, vô cùng ngắn ngủi. Thời gian trong thơ Trương Đăng Dung nhìn chung mang bộ mặt thuần nhất, không phức tạp, mâu thuẫn. Đó là gương mặt buồn, ở cuối cuộc hành trình của nó. Nhìn vòng quay vô tận của thời gian, Trương Đăng Dung ít lưu tâm đến điểm khởi đầu mà thường chỉ chú mục vào phần kết thúc. Trong bắt đầu đã thấy trước viễn cảnh của sự kết thúc. Thơ ông do đó không miêu tả sự vật ở thời khắc huy hoàng rực rỡ hay hứa hẹn phát triển mà đặc biệt nhạy cảm luôn nhìn hoài về quá khứ, day dứt, đau đáu hoài niệm. Thời khắc huy hoàng nhất là thời khắc đã qua trong quá khứ, với những biến cố trong lịch sử, trong tư tưởng. Ông từng bộc bạch:

 

“Tôi có tác phẩm đầu tiên là tiếng khóc chào đời sau chín tháng ngồi im tập xếp hình dấu hỏi/ Tôi không mang đến điều gì mới lạ, giữa quá khứ và tương lai tôi chỉ là đứa trẻ biết già” (Tự bạch)

 

Trương Đăng Dung như đang kể về cuộc đời mình với giọng điệu triết lý, ông luôn băn khoăn tìm câu trả lời cho hành trình cuộc đời khổ đau của con người. Nhưng ngẫm cho kỹ nếu nhà thơ không đặc biệt quan tâm đến thời khắc ấy, nếu điểm kết thúc một ngày không tác động đến mọi giác quan thì ông khó lòng đón nhận để đưa nó vào thơ được. Cũng như vậy, Trương Đăng Dung chỉ thấy mùa  đang tàn:

 

“Có những mùa hè không nắng

và mùa thu không trăng

thời gian đi trên những lối mòn không thể thấy”

(Thành phố phía chân trời)

 

Mùa trong thơ ông cũng thường được miêu tả ở giai đoạn cuối, khi đã qua thời điểm sung mãn, trong kết thúc sẽ thấy sinh sôi:

 

“Em ở lại

một lần nữa cùng anh giữa mùa trăng sắp lụi

ta cùng nghe tiếng muôn loài hấp hối

tiếng côn trùng trong cát bụi sinh sôi.”

(Ảo ảnh)

 

Thời điểm kết thúc của một mùa, sự chuyển giao giữa các mùa của năm cũng luôn khiến ông lưu tâm:

 

“Nếu mắt em khép lại

ảnh hình kia chỉ còn lại trong em

anh không còn thấy anh trong hiện tại

chỉ thấy em với những hình những ảnh

của mùa hè đang qua

một góc vườn và mấy khóm hoa”

(Ảo ảnh)

 

Không ngăn được việc tựa vào chiếc đòn thời gian án ngự ở trước mặt mà ước ao:

“Anh muốn em là quá khứ để anh sống bình yên trong hiện tại; anh muốn em là hiện tại để anh hy vọng vào tương lai; anh muốn em là tương lai để ký ức anh tự do bừng sáng”

(Tin nhắn cho em)

 

Trương Đăng Dung làm thơ khi tuổi đã xế chiều, lúc đã đủ độ cảm thức về cuộc đời để đối diện với lẽ mất – còn, với giới hạn của sự tồn tại. Thế nhưng, trong thơ ông lại luôn nhắc đến “những ngày cuối”, phút cuối cuộc đời. Nói đến cuối ngày, Trương Đăng Dung không hứa hẹn một buổi mai bình minh rực rỡ. Nhắc đến cuối mùa, ông cũng không hi vọng sự khởi đầu của mùa sau. Miêu tả cuối năm, ông chẳng để dòng thơ mình vắt sang năm mới. Và nhắc đến cuối đời, thi nhân tưởng tượng đến kiếp sau. Thời gian trong thơ Trương Đăng Dung đi về phía tàn phai. Thơ ông hay miêu tả mùa thu, buổi chiều, vốn là những thời gian gợi buồn, gợi sự tàn phai mất mát.

 

Trương Đăng Dung rất hay nhắc đến mùa thu. Mùa thu trong thơ Trương Đăng Dung là hình ảnh “mùa thu vừa lạ vừa quen” (Anh không thấy thời gian trôi), “mùa thu xao xuyến” (ba mươi năm hay ba triệu năm rồi), “mùa thu không trăng” (Thành phố phía chân trời), “mùa thu của ký ức” (hai chuyến tàu), “mùa thu ngày một ngắn hơn” (một lần nữa (tặng vợ)…)… Mùa thu không chỉ báo hiệu hoàng hôn trong một năm mà còn gắn liền với nỗi buồn về sự phai úa của đời người, một cuộc đời mông lung, vô định như cỏ bồng, như gió thu chẳng biết đâu là chốn dừng chân. Tơi tả trong mùa thu, xuất hiện ở những nơi từng ghi dấu bao chiến công oanh liệt của những con người lẫy lừng một thưở, chúng tạo ấn tượng về sự đối lập giữa hiện tại và quá khứ, giữa cái còn với cái mất, về một thời đã qua không bao giờ quay trở lại, tính tất yếu của cuộc hành trình thời gian đi đến lụi tàn. Điều đặc biệt trong các bài thơ mùa thu của Trương Đăng Dung là một mùa thu của ký ức, mùa thu đi liền với cảm xúc. Là mùa thu với những đặc tính của nó định hướng cảm xúc của Trương Đăng Dung hay chính nhà thơ là người đã gắn cảm xúc của mình lên mùa thu, bắt nó mang tâm trạng của mình:

 

Anh không thấy thời gian trôi

chỉ thấy mùa thu vừa lạ vừa quen

những gương mặt những nụ cười mới gặp

chưa kịp thân đã thấy khác đi rồi.

(Anh không thấy thời gian trôi)

 

 “Còn đây gương mặt của con người

Nhàu nát mưu sinh và hy vọng

Thăm thẳm trời cao đất rộng

Ba mươi năm hay ba triệu năm rồi

Xao xuyến những mùa thu gió thổi...”

(Ba mươi năm hay ba triệu năm rồi)

 

Thời gian trong quan niệm của nhà thơ được tư duy ở nhiều khía cạnh khác thời gian vật lí. Nếu trước đây thời gian tuyến tính từng chiếm giữ vị trí độc tôn trong thơ ca kháng chiến, thơ ca cách mạng “đường thiên lí càng đi càng rộng”, “những ngày tôi sống ở đây là đẹp nhất”, ...thì nay trong thơ hậu hiện đại nói chung hay thơ Trương Đăng Dung nói riêng thời gian ấy đã bị phá vỡ đứt nối và đảo lộn, nó gắn bó với cuộc sống hiện đại, mang hơi hướng của con người hiện đại hôm nay. Thời gian không còn là dòng chảy một chiều hướng về phía trước, mà nó còn là mối lo âu, trăn trở, do đó có sự đảo ngược, xáo trộn. Thời gian nghệ thuật có thể quay về quá khứ, có thể bay vượt tới tương lai xa xôi, và có thể kéo dài trong chốc lát thành vô tận.

 

Thời gian tưởng tượng, đứt nối, đảo lộn gắn bó song hành cùng không gian đa chiều, biến ảo làm nên diện mạo mới cho văn học. Kiểu thời gian ấy đã tạo nên hiệu ứng về một xã hội mới trong thơ nhưng không nằm ngoài mục đích phản ánh con người trong mối quan hệ với hiện thực đời sống. Trong những trang thơ của Trương Đăng Dung, thời gian hiện lên không chỉ trong một thời điểm nhất định mà nó có sự đan xen hòa quyện giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Điều đó cũng rất dễ hiểu bởi nhà thơ luôn nghĩ con người ta sống không thể tách rời quá khứ “Dĩ vãng quanh ta rưng rưng sương khói”. Với dân tộc cũng vậy “Lịch sử cùng cuộn chảy với bao mạch ngầm tha thiết ngàn sau”... Cho nên, muốn có khả năng đi tới không thể không trang bị cho mình khả năng nhìn lại. Trương Đăng Dung thể hiện rất rõ cảm thức của mình về hoài niệm quá khứ:

 

“Tôi không thể quên một ngày tháng Năm năm 1054

tôi với anh đã nhìn thấy mặt trời

ngày ta sinh là ngày đầu tiên ta nằm bệnh viện

các bác sĩ hân hoan khi có trẻ ra đời

họ lấy nhau của mẹ ta làm đồ nhắm rượu”

(Những kỷ niệm tưởng tượng)

 

Thời gian 1054 chính là thời gian tưởng tượng, đứng ở thời điểm hiện tại nhưng nhà thơ luôn hoài niệm về một thời quá khứ vàng son đã qua. Thời khắc đó đã qua từ rất lâu nhưng nó vẫn hằn sâu “đóng đinh vào kí ức”. Với Trương Đăng Dung, thời gian hoài niệm về quá khứ luôn là khoảnh khắc tâm tưởng có sức cuốn hút tác giả mạnh mẽ. Những hồi ức ấy được bắt đầu từ thời điểm hiện tại, xuất hiện khi tác giả chiêm nghiệm, suy ngẫm hay bắt gặp một sự vật, hiện tượng nào đó trước mắt, hoặc thậm chí nó có mặt trong cảm xúc suy nghĩ miên man, vô định:

 

“Hôm nay con học đi

ông hàng xóm chống gậy ra vườn lê từng bước nặng nề

hôm nay con học nói

bà hàng xóm thều thào với chồng về một miền quê thời tuổi trẻ.

 

Mai ngày con lớn lên

bố không biết những điều con sẽ nghĩ

bố không biết những con voi còn chết cóng phía trời xa

bố không biết những đàn chim còn bay về xứ nóng?...

bố chỉ mong trái tim con đừng bao giờ lạc lõng

trước mọi vui buồn bất hạnh của thời con”

(Viết cho con)

 

Thời gian “kiếp người” cũng là tuyến thời gian được Trương Đăng Dung đưa vào trong thơ với tần suất khá lớn. Kiếp người chỉ trôi qua trong chớp mắt hoặc dài lê thê, thân thể trải qua mọi khổ đau trần đời để rồi tác giả mong đợi “rồi sẽ qua nhanh kiếp người ngắn ngủi” (Ảo ảnh).

 

Kiếp người là lặng lẽ, khổ đau, ai oán, “có gì mới hơn sau mỗi kiếp người?” là băn khoăn, day dứt mà tác giả dành cả cuộc đời chiêm nghiệm:

 

“Có gì mới hơn sau mỗi kiếp người?

con hỏi bố,

thấy một người già lặng lẽ đứng nhìn con”

(Giấc mơ của con)

 

Thời gian tưởng tượng trong thơ Trương Đăng Dung có khi còn được mặc định bằng sự tưởng tượng. Sự tưởng tượng gắn với những sự vật, hiện tượng khác nhau mà đặc biệt hơn cả là sự tưởng tượng gắn với sự chiêm nghiệm quá khứ trong cái nhìn của hiện tại tới tương lai của sự kết thúc:

 

“Tôi chạy trên cánh đồng bỏ hoang

những người khiếm thị ôm súng đuổi theo

những người khiếm thính cầm loa đuổi theo.

 

Tôi chạy trên đại lộ không người

những chiếc xe lăn chất đầy chân giả đuổi theo

những chiếc xe nôi chứa đầy nước mắt đuổi theo.

tất cả áp sát tôi

tôi nói, họ không hiểu

họ nói, tôi không hiểu”

(Ác mộng)

 

Thời gian tưởng tượng không theo một trật tự nào mà đứt nối, đảo lộn đã tạo nên hiệu ứng về một xã hội mới, nhưng không nằm ngoài mục đích phản ánh con người trong mối quan hệ với hiện thực đời sống. Kiểu thời gian này đã làm nên đặc trưng riêng, khó lẫn lộn, đậm chất Trương Đăng Dung.

 

3.1.2. Vòng cung thời gian trong thơ Mai Văn Phấn

 

Khác với Trương Đăng Dung, Mai Văn Phấn nhìn sự vật, hiện tượng và con người ở điểm khởi đầu rực rỡ của nó. Ông thường quan sát và ghi lại thời khắc tươi sáng, đầy sức thu hút của vạn vật. Đến với thơ Mai Văn Phấn, ta sẽ bắt gặp những bình minh - khởi đầu một ngày đầy hy vọng:

 

“Bàn tay lần vén sương mù

Gọi nghe vọng vào tít tắp

Tim ta đốt lửa nguyên sơ

Cho tóc sáng thành ngọn đuốc.”

(Trường ca – Người cùng thời)

 

Người đọc hình dung ra một không gian tràn đầy màu sắc và ánh sáng, được bao phủ bởi ánh vàng kỳ diệu, có sức hấp dẫn, lan tỏa.  Nhưng bình minh ấy, mang theo cả dấu ấn của quá khứ:

“Ngỡ chiến tranh về theo sau lưng mình

 Phòng lạnh cơ quan thoảng mùi thuốc súng

 Nọc độc chạy trong công văn, dây điện thoại,

                                                            bò cả vào vi-tính...

Những dại khờ mắc bẫy dưới bình minh”

(Trường ca – Người cùng thời)

 

Miêu tả thiên nhiên, Mai Văn Phấn cũng làm bật lên vẻ đẹp của thiên nhiên mang trong đó hy vọng sống, làm chủ thời gian của con người. Những vần thơ của Mai Văn Phấn xôn xao trìu mến cuộc đời. Ông nhìn con người như một mầm non mang trong mình cả quá khứ, tương lai:

 

“Khoảnh khắc ấy anh thành hạt giống

Bật phôi rễ và trổ lá mầm

Để trái chín, rượu ngon được cất

Và trứng chim được ủ ấm qua đêm

Anh giữ mãi tưởng tượng này đến sáng.”

(Tỉnh dậy trong mưa)

 

Sự vật trẻ trung, mới mẻ ấy mang trong mình nhịp chảy của thời gian không phải chỉ có một chiều và càng không vĩnh viễn. Mai Văn Phấn thấy ở sự vật tính hai mặt của nó. Ngay trong khi bình minh, ông đã hình dung ra buổi hoàng hôn, ngay khi con người còn đang trong hiện tại, đã thấy cả tương lai đang đến: “Giấc mơ ấy vẫn còn dang dở/ Chợt rộ lên từng đợt lá non” (Tỉnh dậy trong mưa), “Từ hốc đen tra hạt/ Đọt mầm bật dậy/ Chim bay” (Tỉnh dậy trong mưa).

 

Nhà thơ luôn thấy hai quá trình song song: đứa con lớn lên nghĩa là người cha già đi, một sản phẩm mới ra đời nghĩa là có cái khác đang cũ mòn, tàn tạ song song với những khởi phát, sinh sôi: “Vô tình hạt rụng trên đường/ Trỗi dậy bạt ngàn cây lá.” (Tỉnh dậy trong mưa)

 

Tình yêu luôn rất trẻ, không phải theo nghĩa đen mà trong tâm hồn con người, cần sự chân thành, trung thực, nếu gian dối thì tình yêu sẽ biến mất, biển, đất sâu, cội rễ cũng biến mất:

 

“Em bảo dẫu bằng trái táo

Nếu gian dối biển sẽ dìm anh chết.”

(Tỉnh dậy trong mưa)

 

Tuy nhiên, điều kì diệu của tình yêu là ở khả năng tái sinh. Trong tình yêu, Mai văn Phấn cũng nhìn thấy tính hai mặt: sự nồng nhiệt thiết tha đi bên cái nhạt nhẽo chán nản, sự sôi nổi bồng bột đi cùng nguy cơ tắt nguội, ông luôn tìm thấy một nụ hoa, một ánh sáng trong chuỗi thời gian của quá khứ, của tương lai đang đến:

 

“Luồng sáng mỏng trên con đường lát đá kia là cánh cửa sâu hút mở ta vào kiếp trước.

Kiếp trước em và anh là đôi rắn nước trườn qua bụi cỏ xuống hồ, bơi sóng đôi mềm mại. Là thủy triều cuốn vào chân núi, qua ngàn năm mới để lại vết hằn. Là đôi khủng long lồng lộn trong sa mạc nóng. Đôi đại bàng rơi tự do giao phối trên không. Hai gốc cây bện chặt khi giông bão. Sấm sét đánh xẹp đỉnh núi để lại vết bỏng hoàng hôn …

Kìa cỗ xe mùa thu đang đến. Tiếng nghiến của bánh xích trên ngọn cây gió rít. Cuồn cuộn tầng lá rụng.

Anh thót ngực giữ một trái phá, giọt nước, một nụ hoa trên con đường lát đá có ánh sáng.”

(Buông tay cho trời rạng)

 

Hay: “Mỗi ngày anh được hồi sinh từ vòm lá, chập chững, biết lo toan, để sớm mai bắt đầu một đời sống khác. Biết bao lần anh hạc gày khắc khổ, rồi sum suê bên cây. Là đứa trẻ mải chơi bóng mát, mỗi vui buồn anh lại ngước lên.(Giấc mơ cây)

 

Nếu thời gian trong thơ Trương Đăng Dung mang bộ mặt ảm đạm, già cỗi thì ngược lại, gương mặt thời gian trong thơ Mai Văn Phấn rất trẻ trung, cường tráng. Thời gian không lặng lẽ, ủ dột mà rất rộn rã, mạnh mẽ thực hiện nhiệm vụ trên mỗi bước đường nó đi qua. Với Mai Văn Phấn, thời gian là kẻ cho vay nặng lãi, đôi khi rất hào phóng, thứ nó cho vay chính là xuân sắc, tuổi trẻ cùng nhựa sống căng tràn. Tất nhiên, như một “nhà đầu tư” đầy tính toán, nó luôn luôn tính đến khoản lãi suất mà các con nợ sẽ bồi hoàn khi hết thời hạn, đó là muôn vạn mầm sống, nòi giống tốt sinh sôi nảy nở. Bởi tính thương mại này, khi cho vay, thời gian rộng rãi, hào phóng bao nhiêu thì khi đòi nợ, nó khắc nghiệt, lạnh lẽo, vô tình bấy nhiêu, không cho ai một cơ hội để gỡ lại. Đặc biệt, với những ai đã tiêu phí toàn bộ vốn liếng được thời gian tạm thời cấp cho mà không tạo ra thêm được gì, số phận của họ thật thảm hại. Trong trí tưởng tượng của thi nhân thời gian còn là người đi gieo hạt và cũng đồng thời là ông chủ với lưỡi hái sắc trong tay, thu hoạch mùa màng. Những bông hoa tươi thắm, những cây trái xum xuê, những con người bằng xương bằng thịt mang trong mình dòng máu nóng… đều sống, sinh trưởng dưới cùng một bầu trời, bị chi phối bởi cùng những điều kiện như nhau. Để rồi đến một ngày, dẫu ra hoa kết quả hay đơn độc tàn héo, chúng đều bị đưa lên chiếc xe tang theo bóng thời gian. Quá trình ấy diễn ra một cách hết sức tự nhiên và không gì đẩy lùi được nó. Như một tên bạo chúa đầy quyền uy, thời gian trong thơ Mai Văn Phấn vừa đóng vai trò là người sáng tạo vĩ đại đồng thời cũng chính là kẻ hủy diệt tàn bạo, khát máu nhất. Thời gian, bằng công việc hết sức công phu, nhẫn nại đã tạo ra những đôi mắt đẹp, những sinh vật rực rỡ tô điểm cho thế gian, những công trình kiến trúc tưởng đứng vững đến muôn đời… Thế rồi cũng chính nó lại ra tay hủy hoại không thương tiếc kho báu của mình để thay thế chúng bằng cái khác. Thời gian thúc đẩy, tạo điều kiện cho bệnh thối mục trong hoa có dịp hoành hành, nhấn chìm mọi tòa tháp, đánh đổ bất cứ chiếc cổng nào dù vững chắc nhất, đào rãnh sâu, khắc vết nhăn trên vầng trán, khuôn mặt người… để rồi sẽ vây phủ tất cả bằng cái chết. Khi tô điểm cho cái này, nó đang bào mòn tàn phá cái kia. Khi nhìn một nụ hoa chớm nở xinh tươi là ta biết một (hay nhiều) nụ hoa khác đang tàn úa. Không chỉ có thời gian, mọi vật đều được Mai Văn Phấn nhìn nhận trong tính tương đối của nó, không chỉ có một mặt, bên trong chúng luôn có những khía cạnh đối lập đấu tranh với nhau, ông bày tỏ:

 

“Một ngày ánh sáng rút đi, mọi vật quanh ta chỉ là bóng tối. Cánh đồng tối ôm giống lúa tối. Thuỷ triều tối cuốn đàn cá tối. Giọng đơn ca tối trên nền nhạc tối. Lớp học tối nhầm lẫn giáo trình tối. Hồ sơ tối giấu kho tài liệu tối. Đại lộ tối đổ về quảng trường tối. Cuộc diễu binh tối phô trương vũ khí tối. Bàn tay tối buông con bồ câu tối... Vậy từ nay tôi tiết kiệm và tàng trữ ánh sáng, gom nhặt và đầu cơ ánh sáng, tích luỹ và khúc xạ ánh sáng, nâng niu và giành giật ánh sáng, tôn kính và giấu bớt ánh sáng, yêu thương và ăn cắp ánh sáng, thanh sạch và vươn trong ánh sáng...”

(Quang phổ)    

 

Mai Thị Liên Giang đã từng nhận xét “Cảm thức thời gian trong thơ Mai Văn Phấn có sự chuyển biến từ thời gian đơn tuyến, không gian hình học phẳng sang thời gian đa tuyến tính, không gian đa chiều qua các giai đoạn sáng tác” [27]. Quả thật đúng như vậy, Thơ Mai Văn Phấn có sự hòa hợp với mọi sự biến chuyển của thời gian, thích ứng và chủ động đón đợi, bình tĩnh, cảm nghiệm, trải nghiệm trong mọi cung bậc cảm xúc. Nhà thơ không sợ hãi trốn chạy khỏi thời gian, càng không day dứt, tiếc nuối. Thi sĩ thấy rõ mình đang hành xử đúng mực, đối thoại và chiếm lĩnh nó:

 

 “Níu thời gian cong. Bốn mùa đổ từng khoảnh khắc. Sóng nước dâng cao nơi vàng rực hoa quỳ. Lãng đãng con thuyền ngõ vắng. Tiếng gọi mơ hồ dâng ngọn tháp vút cao. Vài gương mặt trôi đi làm nhầm lẫn cảm quan, ý nghĩ, nhầm lẫn thứ tự trang sách, rối tung tàn tro và đám cỏ gai. Những điều vô tình bất ngờ hé lộ.

 

Bất ngờ dưới vòng cung thời gian, em và anh gồng mình chống đỡ, những mũi tên độc bị chặn lại trong vòm trời rách toạc. Tâm bão cách chúng ta chỉ một tầm nhìn. Áp tai vào vách lũ bình yên.

 

Từ một điểm bất kỳ tới chỗ con mèo chơi với miếng giẻ lau là đường chân trời. Mặt đất đang dần co lại. Vòm thời gian cong quá sẽ vỡ. Hơi thở thác nước dựng em chất ngất, mát khôn nguôi.

 

Chạm âm thanh em, môi anh vỡ trăm ngàn quả chuông khác nữa. Không gian mở ra những nếp gấp rộng thênh.

 

Con chim xoải cánh trong mưa, không ảo giác lao đầu xuống nước.

Nơi mũi tên rơi, mặt đất rung lên đẩy ta tới một đích khác.”

(Vòng cung thời gian)

 

Thấu cảm với vẻ đẹp của thời gian cũng như sự vô tình, độc lập của thời gian nên Mai Văn Phấn đã chơi với nó như những người bạn với nhiều cung bậc cảm xúc, nhiều biến ảo sắc thái thú vị qua mùa màng, năm tháng biến đổi. Thời gian trong thơ ông thường xuất hiện với đa dạng hình tướng, có hình thù cụ thể, có cảm xúc, lúc yêu thương vỗ về, lúc giận hờn vô cớ đột ngột ra đi, lúc trở về nũng nịu êm ái như trẻ thơ, lúc đỏng đảnh, đam mê, ham muốn  như thiếu nữ dậy thì đang yêu, lúc lãng mạn sướt mướt qua những khu vườn, khoảng không, vũ trụ bao la; lúc trở về với màu sắc sặc sỡ, thơm tho, đầy hấp dẫn, đầy thân thương của tuổi thơ qua hình ảnh quả hồng, quả na chín trên bàn thờ tổ tiên…Ấn tượng đầu tiên với người đọc là cảm thức về thời gian tuần hoàn theo mùa, đầy ắp trong thơ Mai Văn Phấn.

 

“Hóa thân giọt nước mùa hè

Một đêm trở gió bay về với thu

Dẫu chưa trọn kiếp sương mù

Xin tan loãng kẻo trăng lu cuối trời

Bao lần xanh biếc rong chơi

Mấy lần úa rụng tiếng người vọng theo

Thôi em! Ðừng vặn! Ðừng khêu!

Ðáy thu thắp sáng trên nhiều ngọn cây.

Anh vừa đọng xuống thu gày

Ðã đông thành đá phủ đầy rêu xanh.”

(Khúc cảm mùa thu)

 

Mai Văn Phấn tận hiến với tất cả các mùa, dừng chân hầu hết với các điểm thú vị, khoảnh khắc chớp nhoáng của tất cả mọi dạng kiểu thời gian. Tất cả mọi sắc thái biến chuyển có khi chậm chạp nặng nề, có khi đột ngột dữ dội, có khi âm thầm tha thiết, có khi đỏng đảnh kiêu kì, có khi ngây thơ hồn nhiên ríu rít như đứa trẻ, có khi lạnh lùng kinh hãi đều được ông đem vào trong thơ và tái hiện một cách chân thật nhất.

 

“Nỗi niềm đem thả trong cây

Qua sương giá đến rạng ngày trổ hoa.

 

Lỡ vin vào bóng mây qua

Lỡ nghe đắm đuối tiếng ma gọi đò.

 

Ðầu kim tựa có ai chờ

Khâu ta vào với ỡm ờ xửa xưa.

 

Hoa ngâu vừa lịm cuối chùa

Nhẩn nha tiếng mõ bỏ bùa tiếng chuông.”

(Gom nhặt cuối mùa)

 

Mai Thị Liên Giang đã có những nhận xét đúng về vấn đề vòng cung thời gian trong thơ Mai Văn Phấn “Ông đã chơi với thời gian, xóa nhòa ranh giới giữa các mùa, xóa nhòa ranh giới thời gian và con người bằng sự nhạy cảm lãng mạn, khắc khoải về sự thay đổi của cuộc sống trong xúc cảm thi sĩ. Có thể đây là thi giới nghệ thuật, còn phần riêng trong đời sống thực của nhà thơ có thể khác, nhưng Mai Văn Phấn đã diễn đạt được vòng quay về thời gian sống của con người bằng nghệ thuật ngôn từ. Ông lặn sâu vào thời gian, lúc thì đứng trong thời gian, khi thì đứng ngoài/ trên thời gian để quan sát, chiêm nghiệm, thưởng thức, chơi đùa theo các thế đi với nó như người chơi cờ, nhưng mặc nhiên không tính toán được thua. Trong trò chơi ấy con người được hiện hữu như một chủ thể chủ động, nỗ lực tác động lên trò chơi để được sống như là mình, như cách ông đã nghĩ về thời gian Ngày và Đêm là:

 

Nơi mình ngồi đánh cờ

Được thua

Đom đóm đang tụ lại”

(Ngày và Đêm) [17]

 

Khác với Trương Đăng Dung, Mai Văn Phấn có những quan niệm sống lạc quan. Mai Văn Phấn duy chỉ thơ ca, tạo dựng một sự nghiệp huy hoàng. Trong cái lụi tàn của thời gian có cái đang nảy nở, trong cái cũ có cái mới đang hồi sinh. Con người tự nhìn sâu vào đáy tâm hồn, vừa biết tự ngợi ca nhưng cũng biết chỉ ra cái xấu, cái hữu hạn, vừa tự hào ngẩng mặt, vừa cúi đầu trước giới hạn nhỏ nhoi, trong cái kết thúc chứa đựng mầm sống của sự bắt đầu.

 

3.2. Dấu ấn xử sự với thời gian

 

Ở trên chúng tôi đã chỉ ra, cả Mai Văn Phấn và Trương Đăng Dung đều có chung cảm nhận về dấu ấn thời gian in hằn trên sự vật, con người, sức tàn phá của nó, ý thức được sự phù du của kiếp người trong dòng chảy vô tận, đầy khắc nghiệt. Đứng trước thời gian ấy, mỗi người mang một tâm trạng, từ đó dẫn đến cách ứng xử khác nhau: Trương Đăng Dung buồn đau, tiếc nuối còn Mai Văn Phấn nỗ lực, không ngừng công phá thời gian.

 

3.2.1. Tiếc nuối thời gian trong thơ Trương Đăng Dung

 

Bên cạnh thời gian hiện tại, quá khứ là chiều thời gian được Trương Đăng Dung lưu tâm. Quá khứ không thể thay đổi, cũng có nghĩa đó là khoảng thời gian ngưng đọng trong tâm trí. Nhưng với Trương Đăng Dung, quá khứ luôn hiện diện ở cuộc sống thực, dù nhà thơ đang đứng ở cái ngày hôm nay.

 

“Những thiếu nữ đêm đêm vẫn đến

mắt nhìn vào phím đàn

nỗi bất an

đến từ tuổi thơ của họ

 

Những chàng trai đêm đêm vẫn đến

mắt nhìn vào bức tường

nỗi khắc khoải

đến từ ngày mai của họ...”

(Trong quán cà phê Piano)

 

Cảnh vật được nhìn ở hiện tại, nhưng trong tâm trí nhà thơ, nó vẫn nhuốm sắc màu quá khứ, pháp trường là pháp trường xưa với cánh cửa kính khép lại (Một lần nữa), chợ Bagdad nay nhưng vẫn là chợ Bagdad với bom nổ, thịt người (Ghi chép hè 2009), những dấu vết của quá khứ giờ vẫn còn ở New York, Paris, Moskva hay Tokyo mà càng muốn quên đi lại càng nhớ rõ “những bàn chân/ càng bước càng lún sâu vào đất“ (Giấc mơ của Kafka). Với Trương Đăng Dung, cuộc đời sẽ bất an, hoảng loạn nếu mất đi quá khứ, như không còn nơi nào để bấu víu vào:

 

 “Đêm nay trời đầy mây. Điều gì xảy ra nếu ký ức không cất giữ cuộc đời ta an toàn nhất?”

(Tin nhắn cho em)

 

Người xưa hướng về quá khứ để chiêm ngưỡng một vẻ đẹp vĩnh hằng, chuẩn mực mà họ không tìm thấy được trong cuộc đời thực, còn Trương Đăng Dung xem quá khứ như một cái gì đó khiến ông không đành lòng dứt ra, nên cứ mãi bị ám ảnh. Nhìn cảnh thấy hiện lên cảnh cũ, Trương Đăng Dung cũng không ngừng khơi lại việc cũ để mà suy tư, đối chiếu với hiện tại:

 

“Tôi muốn tìm tôi của những năm bảy mươi

mười tám tuổi

ngơ ngác bước đi trên những nẻo đường Budapest

không dám ngước nhìn trời xanh

sợ bất ngờ máy bay ném bom Mỹ xuất hiện.

 

Thành phố đã bao lần không bình yên

bên dòng sông Đanuyp

nham nhở những vết đạn trên tường

vật vờ những bóng người say rượu,

những quảng trường

đám đông hò hét về một ngày mai tưởng tượng

những giảng đường

các giáo sư không giám nói những điều mình nghĩ.”

(Những nẻo đường Budapest)

 

Dường như không tìm được người đồng cảm trong hiện tại, Trương Đăng Dung tới trò chuyện, suy nghĩ về những người xưa, những thi sĩ tài hoa nào Xuân  Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên… Nghĩ về con đường mà thi sĩ hướng đến, cảm xúc thường thấy ở ông là buồn thương, tiếc nuối, ngậm ngùi: “Hàn Mặc Tử bước vào quán nhỏ/ đám đông đang nói cười/ ông vội bước ra/ ngước mắt nhìn trời/ từng giọt trăng đỏ ối/ rơi rơi./ Chế Lan Viên khẽ nghiêng người/ từng mảng rêu xanh/ dơi bay/ những tháp Chàm/ lả tả./ Xuân Diệu thẫn thờ nhìn bãi đá/ gót hồng thiếu nữ cát vàng/ những con dã tràng ngẩn ngơ/ sóng đuổi theo nhau vào bờ/ rồi ở lại.” (Nơi thi sĩ đến)

 

Sự nhạy cảm đặc biệt của Trương Đăng Dung với quá khứ xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Khi con người buồn vì hiện tại và lại chẳng mong gì ở tương lai thì thường nghĩ nhiều đến quá khứ. Quá khứ chính là điểm tựa để con người có thể bước tiếp trong tương lai:

 

“Kỷ niệm cứu rỗi chúng ta, nó lưu giữ thứ ánh sáng làm cho gương mặt ta mãi mãi là gương mặt con người.” (Tin nhắn cho em)

 

Tuy nhiên, dù nghĩ về quá khứ hay nhìn về hiện tại, nhà thơ vẫn không tránh khỏi nỗi sợ hãi, buồn đau, ngậm ngùi. Buồn đau, ngậm ngùi, tiếc nuối dường như là tâm trạng thường trực của Trương Đăng Dung, nó có nguồn gốc từ khí chất của nhà thơ cộng thêm với sự trải nghiệm hiện thực trong quá khứ:

 

“Kí ức tìm thấy tôi của ngày xưa

trên những nẻo đường Budapest

những tháp chuông và những tượng đài

mùa đông tuyết phủ trắng

mùa hè trắng phân chim...

 

Thành phố vẫn chưa bình yên

sau nhiều biến cố,

tôi tìm thấy tôi trong lòng thành phố

nơi có những chiếc cầu

lặng lẽ nối hai bờ kí ức”

(Những nẻo đường Budapest)

 

Con người hữu tình mà cỏ cây vô ý. Cỏ vẫn xanh, mùa vẫn tiếp mùa, nỗi buồn của con người cũng tự nhiên và vĩnh hằng như màu cỏ xanh. Tâm trạng nhà thơ có khi ẩn kín trong màu cây cỏ “ký ức cũng tàn phai. Ký ức đổi thay khác màu cỏ tự thay trên các nấm mồ” (Tinh thần Kafka), có khi bùng phát  trong phút giây tưởng nhớ bạn thơ:

 

“Không có gì mới đâu, thi sĩ

mỗi ngày sống là một ngày thất vọng

từ Tây sang Đông

người sợ con người

Hai mươi bốn năm rồi thêm một lần khóc bạn

giữa châu Âu bất an

tôi ngữa mặt nhìn Trời.”

(Bên mộ một nhà thơ)

 

Nhà thơ cũng có khi tự đi tìm giải pháp vượt thoát khỏi tâm trạng bằng cách đi trình Thượng Đế khi “những con đường không biết dẫn về đâu”! Thi sĩ chỉ như một chấm nhỏ cuối chân trời trong hành trình tự nguyện, trong đau khổ, hoài nghi:

                        

“Tàu đã khuất, con đường xa vô vọng

thi sĩ vẫn đi

mong kịp trình lên Thượng Đế

những lầm than kiếp người

rồi như một tráng sĩ

kiêu hãnh thẳng tiến về Định Mệnh”

(Tô Thùy Yên)

 

Nhà thơ dùng cách cổ vũ tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời để đối phó với sự vô thường của cuộc đời.Trương Đăng Dung đôi khi tỏ ra bất lực:

 

“Tôi bị sinh ra

tôi phải dấn thân

tôi hội tụ những điều kiện chết

Tôi không hi vọng gì.”

(Tự do của Nikos Kazantzakis)

 

Thơ ca suy cho cùng là điểm tựa cuối cùng để nhà thơ chống chọi với cái khắc nghiệt thời gian. Buồn đau, tiếc nuối trước mọi đổi thay diễn ra trước mắt, Trương Đăng Dung hay vịn vào những sự vật tồn tại vĩnh hằng để giữ cho mình cái tâm an nhiên, tự tại, để tự cân bằng. Đứng trước không gian cô đọng, nghĩ suy về bao lẽ đổi thay, biến dời, nhà thơ tự an ủi mình trong sức mạnh của ngôn ngữ, tự nhận mình được hưởng lợi và chịu thiệt thòi từ sự phản bội ngọt ngào của ngôn ngữ.

 

“Bạn đọc bài thơ

như vấp ngã vào tấm lưới ngôn từ

dệt bằng những ý tưởng riêng tư

tôi sắp đặt.

 

Bạn biến bài thơ của tôi

thành mê cung

của sự tạo nghĩa không ngừng

theo ý bạn.

 

Giữa những con chữ

bạn lấp đầy khoảng trống

cụ thể hóa những điều mơ mộng

theo khả năng và giới hạn của chính mình.”

(Sự phản bội ngọt ngào)

 

Thường trực trong thơ Trương Đăng Dung vẫn là một nỗi buồn mênh mang, một tiếng thở dài không dứt. Nhà thơ không muốn chấp nhận thực tế, không muốn thỏa hiệp nhưng lại chẳng biết làm sao để thoát ra khỏi cái quy luật nghiệt ngã của nó. Không giống như các nhà thơ thiền điềm nhiên trước vòng sinh - trụ - dị - diệt, Trương Đăng Dung là con người đầy lo âu, luôn trăn trở trước quy luật tuần hoàn của thời gian, mình muốn làm gì với/ cho cuộc đời mình?!:

 

“Con làm kẻ thứ ba

giữa tâm hồn bất an

và thể xác bất toàn.

            

Con tìm nơi cứu rỗi

giữa những hoài nghi, cô đơn và bất lực

ngỗn ngang ký ức

tâm hồn con mang nặng cuộc đời con”

(Trên bàn mổ )

 

3.2.2. Chiến đấu với thời gian trong thơ Mai Văn Phấn

 

Nếu Trương Đăng Dung nặng lòng ngóng vọng về quá khứ thì Mai Văn Phấn không ngừng chiến đấu với thời gian. Thời gian tương lai thường xuyên xuất hiện trong thơ ông kèm theo sợi dây nối liền hiện tại và quá khứ. Nhà thơ đặt ra các giả định về thì tương lai còn chưa đến để từ đó định hướng cho hành động trong hiện tại. Quá khứ với Trương Đăng Dung là một giá trị, một nỗi đau thương, nhớ thương, khắc khoải. Với Mai Văn Phấn, quá khứ là một lăng kính giúp nhà thơ có cơ sở nhìn thấu tương lai và sống có ý nghĩa hơn ở hiện tại. Nếu quá khứ là cái đã hoàn kết, ngưng đọng, bất biến thì trái lại, tương lai là cái luôn ở thế khả năng, chỉ ra các khả năng ấy, nhà thơ cho thấy triển vọng thay đổi nó.

 

“Cha muốn con thức dậy trước bình minh. Khi bàn chân đêm lướt qua dàn hoa leo trước cửa. Những bông hoa cuống quýt sắc màu, mở từng cánh khẽ khàng, khuôn mặt đêm dần sáng. Mặt trời còn run rẩy trong vạt áo nồng nàn của đất, sau những tấm rèm cửa, trong hốc cây hay trong tiếng nước xuýt xoa ong óng mặt ao nhà.

 

Con là nơi dòng sông từ giã những ngôi sao, nơi con thú hoang gọi rừng thay lá, nơi khoảng trống hóa thành thời gian. Khoảnh khắc ấy là minh mẫn và ngái ngủ, là bột nhão sắp đông thành bánh, là những gì cha làm chưa kịp phía cha mơ...

 

... Phía cha mơ có ban mai đến sớm, ban mai ấy giống như con dẫu khóc hay cười đều làm sáng lên lớp bụi trần gian, sáng lên những đường kỷ hà trên nền thổ cẩm. Trên hương án tổ tiên những bài vị nhang đèn đang tư lự một điều gì âm ỉ. Sau tiếng đàn đá trống đồng, cha đứng ngây nhìn đàn chim Lạc bay qua...

 

Con đã thức dậy trong ban mai của cha. Phía chân trời hừng đông như trẻ thơ bụ bẫm đang duỗi dài khoái hoạt. Vài tia sáng đầu tiên giãi bày niềm hân hoan trên thềm cửa, rồi đưa những ngón tay mềm âu yếm đỡ con đi.”

(Lúc mặt trời mọc)

 

Chiến đấu với thời gian bằng tương lai

 

Tương lai đồng nghĩa với sự thay đổi các trạng thái:

 

Vây cá lông chim bóng bẩy tràn lan

Vẽ sặc sỡ trên những đồ trang sức

Xuân đã đến lại ngóng mùa xuân khác

Ta thèm một lần nhân danh đất đai.”

(Khúc phóng túng)

 

Với người trẻ tuổi đẹp đẽ, tương lai là tuổi già, nếp nhăn, mệt mỏi, với những người đang yêu, tương lai là sự hờ hững, nhạt phai, với Mai Văn Phấn tương lai là sự ấm dần lên của thiên nhiên, là sự cựa mình của quá khứ:

 

“Anh mơ được em gieo trồng trên ngực

Bàn tay dịu dàng vun vào da thịt

Hôn lên tai anh lời chăm bón thì thào

Anh cựa mình nồng nàn tơi xốp."

(Bài ca buổi sớm)

 

Mai Văn Phấn đặc biệt quan tâm đến những chuyển động của ngày mới sang:

 

“Câu ca làm khổ người ta

Em bây giờ hát bài ca khác rồi

Lại đây gió của ta ơi

Thổi làm chi mãi những lời thở than

Để ta bới nỗi đêm tàn

Tìm trong đất tiếng ngày sang thầm thì.

(Tiếng gọi từ những cánh đồng)

 

Với Trương Đăng Dung cái mới ra đời không bao giờ là mới hoàn toàn và nếu muốn được chấp nhận, nó phải kế thừa một phần dáng vóc của cái cũ, cái đã trở nên quen thuộc với cộng đồng nếu không muốn bị coi là ngoại lai, lập dị thì ngược lại, với Mai Văn Phấn, cái mới ra đời bằng sự phủ nhận cái cũ. Điều họ quan tâm hơn hết là tương lai chứ không phải cái đã qua. Nói như vậy để thấy rằng, với Trương Đăng Dung quá khứ dù hay dở vẫn mang một ý nghĩa thiêng liêng không thể bôi xóa. Còn với Mai Văn Phấn có thể sẵn sàng nở nụ cười với cái đã qua để tiến về phía trước bởi điều thực sự và trước hết có giá trị với họ là tương lai.

 

Tương lai đồng nghĩa với thay đổi nhưng như thế không có nghĩa nó chỉ toàn một màu tối, Mai Văn Phấn dù có những lúc hoang mang, nhưng rồi điều ông quan tâm, nỗ lực hơn hết chính là sự chủ động chiến đấu với thời gian. Thời gian có lưỡi hái, bức tường, hoa tàn, đốm lửa tàn, có bóng tối, những con Bang con Bống cùng quy luật của lãng quên làm phương tiện hỗ trợ. Mai Văn Phấn qua quá trình suy tư trăn trở, cũng tìm được ba vũ khí hữu dụng để chiến đấu với “tên bạo chúa” ấy, đó là tình yêu và sản phẩm của nó là những thế hệ sau đầy sinh lực cùng với một phương tiện hỗ trợ khác - thơ ca:

 

Soi vào lịch sử chiến tranh

Những nền văn minh hủy diệt

Xin gọi lay từng cái chết

Tái sinh cùng những bình minh.”

(Chương IV: nỗi đau phát sáng – người cùng thời)

 

Chiến đấu với thời gian bằng tình yêu

 

Những nhà thơ trẻ thế hệ ngày hôm nay thường phản ánh tình yêu đôi lứa, hạnh phúc gia đình, những buồn vui và cả những mất mát với nhiều cung bậc cảm xúc, sắc thái riêng. Tình yêu được phản ánh bằng thơ lúc này thực hơn, đời hơn, phức tạp và cũng đau đớn hơn. Thơ không ồn ào mà bình dị thâm trầm, không có chuẩn mực hay một khuôn mẫu nào nhất định… Những vần thơ như bật ra từ chính cuộc sống con người, từ chính cuộc đời trần trụi, thô ráp, đầy mạnh mẽ và tự tin, đam mê và chấp nhận. Cùng với khát khao yêu thương là niềm đam mê nhục cảm được phơi bày và phản ánh, bài thơ Màu đen một của Nguyễn Quang Thiều là một ví dụ:

 

“Hai màu đen đã sát nhau như hai cái cây trong đêm và thì thào như khóc. Thì thào, thì thào dẫn lên thành tiếng gào gọi. Ngôn ngữ trắng không giết được những u oa của chúng. Chỉ còn lại thì thào như lá khua, dội lên trong tiếng răng rắc của cây đang đổ.

 

Chúng, hai mảng đen, đã trộn vào nhau. Những cặp môi xiết vào nhau như thổ dân xiết hai miếng đá. Và máu của cô đơn, khát vọng rỉ ra chảy trên hai bi kịch đen. Hai bi kịch rã rượi, soãi dài và bừng lên khoảnh khắc cứu vớt”

(Màu đen một)

 

Với thơ Mai Văn Phấn khi vẽ nên những cảm xúc yêu thương mãnh liệt, cháy bỏng, tuy tác giả cũng đề cập đến những xúc cảm cuồng nhiệt yêu thương nhưng ở đây không đồng nghĩa với sự trần trụi, tầm thường mà chính là đường nét nghệ thuật:

 

“Lồng vào nhau từng khuôn mặt. Lời vô nghĩa mở ra tưởng tượng. Đặt em nơi khoảng trống, thổi vào những ngón chân làm cơ thể vụt căng xâm lấn không gian. Hơi thở bắt đầu những chuyển động. Bàn chân em dính chặt vai anh. Giọt mồ hôi sáng trong họng tối. Mặc lưỡi mềm vừa treo ta lên...

 

Miệng anh còn thơm trái cây và hương trà em uống. Chiếc bánh ngọt pha kem lẫn với quế chi. Anh còn nhớ. Chiếc ghế rộng lắm. Khi bờ vai trổ những bông hoa, môi anh thắp ngọn đèn linh thiêng góc tối. Bông hoa chỉ nói được phần nhỏ nhoi lòng đất rộng. Lòng đất rung chuyển khi bông hoa đứng yên.

 

Yêu nhau. Là những nghi thức dâng tụng trời đất. Bây giờ là mùa xuân. Anh mệnh Kim và em mệnh Hỏa. Từ lửa làm ra Thổ, ra Mộc, ra Thủy. Đất rùng mình. Sông chảy. Ngàn vạn lá mầm từ thân thể nở bung.”

(Anh anh em em)

 

Và dường như tình yêu, khát vọng nhục cảm được xem là “Yêu nhau. Là những nghi thức dâng tụng trời đất”, mượn cảm hứng vũ trụ “Kim, mộc, thủy, thổ, hỏa”  để tô đẹp thêm tình yêu “Ngàn vạn lá mầm từ thân thể nở bung”  Cũng chính cảm hứng này, Mai Văn Phấn đã đa dạng hóa tình yêu với nhiều hình ảnh mới lạ, so sánh độc đáo đôi tình nhân với đôi “rắn nước, khủng long, thủy triều, đại bàng, gốc cây” là một duyên mệnh gắn chặt qua nhiều kiếp sinh tồn, là hiện tượng “thủy triều, sấm sét” đã tồn tại mặc định trong tự nhiên. Như một sự khẳng định tình yêu bền chặt, hiện hữu, tồn tại tự nhiên và yếu tố nhục cảm nếu có thì chỉ càng tô đẹp hơn tình cảm bình dị và thân quen này:

 

“Kiếp trước em và anh là đôi rắn nước trườn qua bụi cỏ xuống hồ, bơi sóng đôi mềm mại. Là thủy triều cuốn vào chân núi, qua ngàn năm mới để lại vết hằn. Là đôi khủng long lồng lộn trong sa mạc nóng. Đôi đại bàng rơi tự do giao phối trên không. Hai gốc cây bện chặt khi giông bão. Sấm sét đánh xẹp đỉnh núi để lại vết bỏng hoàng hôn…”

(Gặp)

 

Bên cạnh những vần thơ đề cao khát khao kiếm tìm hạnh phúc của con người với những tình cảm mãnh liệt, mong muốn yêu thương và được yêu thương trọn vẹn còn là những tình cảm nhẹ nhàng, đằm thắm có sức gợi và sức lan tỏa vào tâm hồn con người hết sức sâu sắc. Khao khát tình yêu đích thực cùng những hạnh phúc đời thường giản đơn và bình dị với những dòng thơ nhẹ nhàng, trìu mến nhưng không hề làm mất đi sự da diết, nồng nàn mà tình yêu lứa đôi vốn có như trong bài thơ “Viết cho cây sáo” của Mai Văn Phấn:

 

“Vũ trụ lầm lì lơ lửng trong đêm. Những con sóng dịu mềm cho bên lở biết mình còn đó, để ban mai thức dậy gặp bên bồi”.

 

Quả thật, thơ Mai Văn Phấn luôn đầy ấp những yêu thương nhẹ nhàng, trìu mến mà không hề có những trách móc giận hờn, vị kỉ như thơ của Thường Đoan “Em đã ngốc nghếch làm mái che cho loài chim bạc bẽo. Chỉ biết ấm riêng mình nào hiểu nổi lạnh của ai đâu ! Em đã ngô nghê sống trong tiếng hót của loài chim sâu mà ảo tưởng đến một thiên đường hoàng yến. Em đã mê muội và vắt kiệt dòng máu mình đi hồi sinh cho một kẻ không tim” (“Với loài chim di trú” Thường Đoan) và cũng không quá mãnh liệt bày tỏ, thẳng thắng kêu gào, vồ vập lên với tình yêu cháy bỏng như thơ của Phạm Thị Ngọc Liên “Em sẽ yêu anh như tháng giêng thương nhớ. Ôi tháng giêng, tháng giêng, tháng giêng. Tháng lộng lẫy của cả mười hai tháng, tháng tiếng hát của các loài chim, tháng vương miện của các loài hoa, tháng hạnh phúc trăm thứ quả... Tháng giêng dài như sông, tháng giêng rộng như biển. Tháng giêng chờ những lời tha thiết – nói rằng Em yêu anh, yêu anh” (Em yêu anh như tháng giêng). Hay như cách thú nhận hết sức thật thà của những người đang yêu nhau về nỗi nhớ, nỗi nhớ ấy không thể hiện cường điệu như ca dao “nhớ ai bổi hỏi bồi hồi/ như đứng đống lửa, như ngồi đống than”. Ở đây, đơn giản nhớ là nói nhớ: “Trăng mọc sớm, thơ ngây và thoảng mùi rơm rạ. Nhớ người yêu vô cùng.” (Anh tôi)

 

Tình yêu “thắm” vào những đồ vật xung quanh và gần như không thể thiếu của sinh hoạt hằng ngày từ “cây cối, đường xá, phố nhà, vào vườn tược, ruộng nương, sông suối...” đây cũng chính là sự khẳng định tình yêu là một phần không thể thiếu của cuộc sống con người.

 

“Ôm em nghe nhạc nước chảy qua triền núi rộng, những vỏ sò vỏ hến hoá thạch đã thức dậy, tổ chim yến trên vách đá lơ phơ… Cây cỏ, con đường, cả viên cuội quanh đây rất lạ. Hình như chúng đã cách xa ta, hôm qua, từ nhiều thế kỷ trước. Hay bóng dáng, hồn vía ta tự kiếp nào chẳng biết, đang bồn chồn chờ những nụ hôn”

(Những bông hoa mùa thu)

 

Cách so sánh ví von, ẩn dụ tượng trưng nhẹ nhàng nhưng hết sức đặc sắc. Và chính sự nhẹ nhàng, đầm thắm đó luôn gợi lên cho con người mong muốn về một mái ấm bình yên, giản dị. Nơi mà những người yêu nhau thật sự muốn dừng chân để vun đắp thêm cho tình yêu của mình. Nhân vật trữ tình ở đây, đã tìm được mái ấm của mình từ những điều hết sức bình dị “Nơi anh về trú ngụ là ô trời xanh trong mắt em cười. Hạnh phúc nào bằng ta bên nhau thảnh thơi, như được xoải mình nơi chân đê cát mịn” là nơi “trú ngụ” bình yên sau những bôn ba, tất bật của đời sống. Không giống như thơ ca thời đại trước, hạnh phúc của anh nông dân mơ ước có một mái ấm “chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa” (Ca dao).

 

Thời gian cho tình yêu là một đề tài lớn xuyên suốt các tác phẩm của Mai Văn Phấn. Nhà thơ đã viết về tình yêu bằng tất cả niềm say mê của một trái tim trong lồng ngực trẻ. Người đọc thấy trong thơ ông mọi cung bậc cảm xúc khi yêu : xao xuyến, nhớ nhung, hờn giận, hạnh phúc, tuyệt vọng… Có cả tình yêu trong sáng, thuần túy tinh thần lẫn thứ tình yêu đan xen, đấu tranh với dục vọng xác thịt và quyền lực… Có nhiều bài nhà thơ viết về nỗi đau chia cắt, sự bất lực, đau khổ cũng như giằng xé giữa tình yêu chân chính với xúc cảm nhục dục nhưng hơn hết, ông thấy được ở tình yêu giá trị vĩnh hằng. Nhà thơ ca ngợi vẻ đẹp của nó:

 

Những mặt người chờ đợi dưới hừng đông

Nỗi đau sáng lên soi niềm vui dung dị

Không gian, thời gian mách bảo bình minh

Tiếng cười nói ân tình rạng rỡ.

(Chương V: Đằm thắm mặt người – Người cùng thời)

 

Ông tuyệt đối tin tưởng vào khả năng tình yêu đem đến cho con người niềm vui, khiến họ hài lòng, hạnh phúc hơn tất cả mọi lạc thú vật chất tầm thường. Bởi vì trước kẻ thù thời gian, mọi thứ rồi sẽ bị chôn vùi, chỉ có tình yêu là không sức mạnh gì cướp đi được.

 

Không vụ lợi toan tính, không dễ dàng đổi thay, tình yêu khiến con người sống có ý nghĩa, vững tin xua đi mọi bóng tối, điềm nhiên trước bất kỳ mối đe dọa nào và vì vậy, nó chứa đựng sức mạnh vĩnh cửu có thể chiến đấu với thời gian. Với Mai Văn Phấn, tình yêu không còn là tình yêu nếu nó bị thay đổi theo hoàn cảnh hay lung lay trước âm mưu phá hoại của thời gian, tình yêu có thể nguội tắt hôm nay nhưng ngày mai sẽ lại bùng lên. Tình yêu bất tử bởi nó không quan tâm đến tuổi già, nếp nhăn, một lần đã yêu là trọn kiếp:

 

Anh biết mình đã trọn kiếp mơ

Một kiếp yêu tỉnh lại

 

Chạy về cuối làn hương

Gặp con đường

 

Chạm một bông hoa bé tí

Mọi cuống hoa trên mặt đất rung lên.”

(Tỉnh dậy trong mưa)

 

Tình yêu sâu sắc không nô lệ quyền lực, luôn bền vững bởi nó không dễ dàng chịu sự tác động của các nhân tố bên ngoài. Có được tình yêu, con người sẽ không bị thời gian đe dọa. Nhà thơ khẳng định điều ấy như một chân lí, đảm bảo nó bằng cách nói như đinh đóng cột. Cho nên, khổ đau, mất mát, dự cảm không lành chỉ càng khiến con người nên yêu nhiều hơn.

 

Chiến đấu với thời gian của tình yêu bằng thế hệ sau

 

Tình yêu trong quan niệm Mai Văn Phấn không chỉ dừng ở giận hờn nhớ nhung trách móc, ở cảm xúc mãnh liệt, ở giá trị an ủi về mặt tinh thần mà còn cần hứa hẹn khả năng đơm hoa kết quả. Mai Văn Phấn, bằng nhiều cách nói khác nhau, lặp lại giả định cùng các khả năng kèm theo nó: nếu người trẻ tuổi sinh con đẻ cái, để lại cho đời thế hệ sau của mình và ngược lại, anh chỉ sống rong chơi đến khi tuổi trẻ qua đi. Người trẻ tuổi được tự nhiên đầy sáng tạo ưu đãi, phú cho những vẻ đẹp ngời sáng, phẩm chất ưu tú mà người khác - dù muốn – cũng không có được. Đó là vẻ đẹp được xem là hình mẫu của muôn đời, chỉ có thể tìm thấy trong con người đẹp nhất ở các văn bản cổ xưa, thậm trí trong hiện tại, anh sống động hơn, tuyệt vời hơn. Bởi thế, đến lượt mình, anh trở thành người có trách nhiệm phải giữ gìn, bảo vệ, nhân giống vẻ đẹp ấy, không để cho nó trở thành uổng phí, vô nghĩa. Nếu anh không lấy vợ sinh con, anh sẽ trở thành một người keo kiệt, tham lam, một kẻ háu ăn, chiếm hết cả phần đáng được nhận của thế giới và do đó, sẽ lãnh nhận hậu quả là một cái chết cô đơn, lạnh giá, tuyệt vọng. Thế hệ sau là mầm móng của tương lai, tạo dựng, hoàn thiện tương lai và làm hồi sinh, tái sinh thời gian, sự sống chỉ thay đổi mà không mất đi.

 

Tiếng em rồi tiếng con cười

Rộng thêm căn phòng ta ở

Anh hồi sinh tuổi ngây thơ

Đùa vui hồn nhiên tở mở.

(Chương IV: nỗi đau phát sáng – Người cùng thời)

 

Không chỉ thuyết phục đối tượng bằng lý luận suông, Mai Văn Phấn còn dùng những hình ảnh ví von so sánh. Ông hình dung con người trong độ thanh xuân giống như những bông hoa rực rỡ trong mùa hè. Khi đông đến, chúng bị bao trùm bởi tuyết sương lạnh giá, sự hủy diệt. Còn thế hệ sau giống như cây trái trong mùa xuân, chờ đợi đến ngày được thể hiện. Tinh chất của chúng khi đã được chưng cất sẽ vẫn tồn tại một cách thơm tho đến tận mùa sau.

 

“Con đang khai hoa đậu quả

Ngự trên ngực mẹ ngực cha

Cây bám vững vào mạch đất

Rễ sâu cành lá la đà.

 

Đằm thắm mặt người gần xa

Cho con hiện thân da thịt

Ra đi từ muôn năm trước

Bàn chân mới tới bây giờ.

(Chương IV: nỗi đau phát sáng – Người cùng thời)

 

Cũng có khi ông dùng hình ảnh em cho con bú để ẩn hiện về hình ảnh của bản thân qua hình ảnh của con. Con là một phần của cha, hình ảnh của con mang theo cả bóng dáng của cha trong đó:

 

Chiều nay em cho con bú. Ngoài kia từng chân kiến đang đi, từng cánh ong vẫn còn đang vỗ. Nơi anh về trú ngụ là ô trời xanh trong mắt em cười. Hạnh phúc nào bằng ta bên nhau thảnh thơi, như được xoải mình nơi chân đê cát mịn. Anh hôn lên ngực em căng đầy thơm mát, chiều ngọt ngào cánh cò cánh vạc, qua môi anh khẽ đậu xuống hồn. Căn phòng mình chẳng còn những bức tường bao quanh và không gian thành thời gian thánh thiện, khi anh mải mê nhìn vầng ngực em dâng đầy như biển, cứ thu mình tìm vào miệng con be bé xinh xinh..."

(Em cho con bú)

 

Đau xót, lo sợ cho sự tàn phai, mai một của cái đẹp, Mai Văn Phấn đã thấy ở thế hệ sau một nguồn sinh lực thật dồi dào đủ sức chống chọi, thách thức cả kẻ thù dữ tợn, hung bạo nhất – thời gian.

 

Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà Mai Văn Phấn nhiều lần so sánh con người như cây cỏ, như những sinh vật trong thiên nhiên. Các thi nhân thường mang niềm sầu thảm vì sao mùa xuân của đất trời ra đi rồi lại quay về, còn xuân của đời người chỉ một đi không trở lại. Nó sẽ đem đến cho con người sự tái sinh trong một cuộc sống khác, cuộc sống thứ hai, trong trường hợp khi thời gian qua đi, mọi người quên lãng, những trang thơ úa vàng bất lực. Chỉ ra sức sống vĩnh cửu, sức chiến đấu với thời gian qua thế hệ sau, phải chăng Mai Văn Phấn đã tìm được câu trả lời cho sự so sánh ấy: Bằng việc tạo ra những đứa trẻ xinh đẹp, bằng cách di truyền cho chúng những gien tốt cả về thể chất lẫn tinh thần, con người sẽ không còn nhỏ bé, bất lực, có đủ sức sánh ngang quyền tạo hóa và tạo ra vòng quay vô tận của chính thế hệ mình. Cứ mỗi hè về là nắng lên, mỗi đứa trẻ ra đời sẽ bắt đầu một mùa hè rực rỡ mà cha mẹ chúng đã đi qua. Như thế là lấy chính vũ khí của thời gian, của thiên nhiên để vô hiệu hóa sức mạnh của hắn vậy. Thời gian với lưỡi hái tử thần chỉ có thể gặt hái cây trái và cả con người khi chúng đã đến độ chín và nếu các đối tượng đó kịp để lại mầm sống cho tương lai, sự ra đi ấy sẽ thật nhẹ nhàng.

 

Chiến đấu với thời gian bằng thơ ca và sáng tạo

 

Tình yêu giúp con người thoát ra khỏi bóng tối của nỗi sợ hãi và chuỗi những ngày vô nghĩa. Sản phẩm của nó – những đứa trẻ nối tiếp nhau sẽ chứng minh cho một nguồn sống quý giá đã tồn tại trên thế gian. Bên cạnh đó, Mai Văn Phấn cũng tìm thấy một phương tiện hỗ trợ đắc lực chống lại sự phôi pha của thời gian - thơ ca.

Trong cuộc chạy đua bất tận, ngòi bút nhà thơ và lưỡi hái thời gian diễn ra hai quá trình ngược nhau:

 

“Chọn màu áo em

Làm bìa tập thơ

Những đốm bóng

Theo tay người dệt lụa

Miệng tằm

                    Bờ bãi

                               Bóng dâu...

 

Nhưng em ở đâu?

Người mặc chiếc áo ấy

Khi tắt nắng

Và bóng đen thức dậy

Anh đi vòng quanh con chữ

Gọi ơi hời!

(Một lần...thi pháp)

 

Trong khi thời gian khắc sâu những nếp nhăn, cướp đi tuổi trẻ con người, nhà thơ, bằng khả năng sáng tạo, đem đến cho họ một cuộc sống khác, khắc họa hình hài họ trên trang giấy. Cũng có khi Mai Văn Phấn cho rằng, vẻ đẹp đích thực của con người, cuộc sống không gì tô vẽ được, ta chỉ có thể cảm nhận nó một cách chính xác nhất bằng trực quan sinh động hay qua tấm qương soi. Mặc dù vậy, cố gắng làm một tấm gương - dù chưa thật hoàn hảo - thi sĩ miêu tả lại thật chi tiết những gì mình thấy, như khi đọc sách ngắm trăng:

 

“Nhớ em khi anh đọc sách.… Ánh sáng không có trong văn bản, anh tưởng tượng thêm hình ảnh dưới trăng. Những chuyện đầy trăng.”

(Tỉnh dậy trong mưa)

 

Như bông hoa đã được bảo toàn hương sắc, được cất giữ ở một nơi tin cậy, mặc kệ những cơn gió dữ, nắng chói, người trẻ tuổi sẽ mãi giữ được vẻ trẻ trung trong vần thơ bất tử. Thần chết khi ấy cũng sẽ trở thành một kẻ bất lực bởi hắn không mang theo được gì. Giấy trắng mực đen tưởng chừng yếu ớt, không nanh vuốt, lại dễ dàng bị ố vàng nhưng hóa ra nó còn tồn tại lâu hơn cả đá, tượng thần hay các công trình kiến trúc nguy nga. Và tác giả với thơ ca, hòa vào làm một trong những trang thơ bất hủ: “Trang sách/ Mở mặt đất chữ/ Rừng núi/ Sông hồ/ Những con đường chữ/ Nâng cuốn sách/ Tôi /Là một chữ/ Nét chữ nhịp thở/ Bàn tay lật lên/ Nét tóc cứng/ Da vàng / Ánh sáng trên trang sách/ Thu thế giới/ Và tôi/ Thành một.” (Tĩnh lặng)

 

Khi tất cả đều trở nên bất lực, những câu thơ vẫn kiên cường, cho tận đến ngày phán quyết. Bởi sự tồn tại của nó song song với sự tồn tại của con người. Khi nào con người còn sống, còn yêu cái đẹp thì thơ ca còn giữ mãi giá trị: “Pablo Neruda than thở rằng thơ đang dần bị thu hẹp vào vương quốc  của riêng nó, rằng bây giờ chỉ có các nhà thơ đọc nhau. Nhưng tôi tin, thơ sẽ hay hơn nếu chúng ta biết đón chờ những giá trị mới bằng một tâm thế mới” [38, tr.392]. Nhà thơ từng lập luận: Muốn níu giữ được bước chân nhanh chóng của thời gian, ngăn chặn sự phá hủy của nó với cái đẹp, trừ phi có một phép màu. Và phép màu ấy chính là tình yêu tỏa sáng trong thơ. Từ đâu thơ ca có sức mạnh diệu kỳ như vậy? Mai Văn Phấn giải thích nó ở chỗ: thơ chính là những đứa trẻ được tách ra từ trí óc, và khi nó thoát ra khỏi người anh, nó có một đời sống riêng, sinh mạng riêng giữa cuộc đời. Thơ có thể giúp con người bày tỏ những điều bình thường họ không thể nói, không dám thốt ra lời. Thơ được chắt lọc từ phần tốt nhất, giàu có nhất, phần sẽ được giữ lại sau khi thể xác bị chôn vùi dưới ba tấc đất. Rất chân thành, Mai Văn Phấn đưa ra lời khẳng định: “Thơ hay có thể đến tình cờ với một số thi sĩ trong khoảnh khắc đốn ngộ, xuất thần... Nhưng đa số các nhà thơ có được thơ hay qua quá trình tu luyện, tích lũy kiến thức phong phú, một hành trình bới tìm “vỉa quặng” của tâm hồn, đợi đến khi chín muồi, cảm xúc sẽ chợt nhòa chợt hiện và nhà thơ, viết với tất cả choáng ngợp của mình. Sự choáng ngợp mê man của tác giả rồi sẽ lan truyền đến người đọc. Tưởng như, nhà thơ gặp bài thơ hay giống như người toạ thiền trong quả chuông ánh sáng, hoặc cảm giác như kẻ thoát xác; tưởng như nhà thơ lúc đó là kẻ lạc vào rừng rậm, chỉ nhìn nhanh được những hình ảnh lớn, trực diện, còn những cây dương xỉ, con sóc, con sâu nhỏ bé, hoặc cả những vỉa ngầm… dành lại cho người đọc hình dung. Đúng như Octavio Paz đã viết “Thơ ca là khoảnh khắc ngừng lại của thời gian”. Tầm vóc của thi sỹ chính là khả năng khái quát, biến những hình ảnh quen thuộc thành biểu tượng thi ca, tiên tri cả thời đại đang đến. Hình ảnh con ngựa trong đêm tối trong bài thơ “Con ngựa đen” của Joseph Brodsky viết năm 1961, (Hoàng Ngọc Biên dịch) là bóng dáng thế kỷ chúng ta đang sống. Nhà thơ đã nhìn thấy những hiểm hoạ đến với loài người, như chiến tranh, bệnh tật huỷ diệt hàng loạt, xung đột sắc tộc, tôn giáo… Bài thơ là một tiên báo: con ngựa đen “chờ đợi trong chúng ta đứng dậy một kỵ sĩ”.

 

Thơ hay, cuối cùng còn tuỳ khả năng đồng sáng tạo của người đọc. Phần lớn bạn đọc đều bị động trước các văn bản thơ, tức chờ bài thơ đi vào lối mòn thẩm mỹ của mình để đồng cảm đồng điệu mà ít có ý thức vươn tới giá trị của thi ca, không chuẩn bị nhập chung hai luồng ánh sáng cùng rọi trên một điểm. Nếu có thơ ca tinh tuyển thì cũng cần có cách đọc tinh lọc. Đó là cách đọc dám từ bỏ mọi thói quen cũ, sẵn sàng đến với những giá trị mới một cách bình tĩnh, công bằng; thái độ lắng nghe thơ chuyển động dĩ nhiên quan trọng, nhưng lắng nghe chính mình càng quan trọng hơn.” [38, tr.391). Thơ ca, tự bản thân nó có một linh hồn, một trí tuệ. Đôi khi Mai Văn Phấn tự phân thân để cầu khẩn, thuyết phục nàng thơ thực thi nhiệm vụ, phát huy khả năng của mình. Có lẽ không với vũ khí nào như thơ ca, Mai Văn Phấn thấy mình mạnh mẽ đến thế, quyết liệt đến thế trong nỗ lực khuất phục sức mạnh bạo tàn của thời gian. Nhà thơ trực tiếp tuyên chiến với hắn:

 

“- Mỗi người chỉ có một lần cơ hội

- chết như một nhà thơ” [38]

 

Trong cả ba thứ vũ khí mà Mai Văn Phấn  nhắc đến để chiến đấu với thời gian, không có vũ khí nào không liên quan đến tôn giáo, đến sự tu hành, khổ luyện nhằm được giải thoát về mặt tinh thần nhờ đấng siêu nhiên. Trái lại, dù là tình yêu, thế hệ sau hay thơ ca thì chúng đều là sản phẩm sự sáng tạo của con người. Trong thơ Mai Văn Phấn, đây có thể xem là một quan điểm có tính cách mạng và ngày càng chiếm ưu thế, giải phóng họ khỏi mọi tín điều, ràng buộc cổ hủ. Con người không cần đến Chúa mà hoàn toàn có thể bằng chính năng lực của mình vươn đến sự bất tử.

 

3.3. Phương thức thể hiện thời gian

 

3.3.1. Cô đơn thời gian trong thơ Trương Đăng Dung

 

Trào lưu chủ nghĩa hiện sinh phát triển nở rộ ở phương Tây vào những năm 50, 60 của thế kỷ 20 và có ảnh hưởng sâu rộng. Sự tồn tại của con người là dữ liệu duy nhất có thể cảm nhận ngay tức thì, chứ không phải bản chất. Là một thuyết nhân bản, chủ nghĩa hiện sinh hướng đến thân phận và sự hiện hữu của con người, giúp con người đưa ra quyết định và chịu trách nhiệm trước sự tồn tại của mình để khẳng định “chủ thể tính” và “nhân vị tự do”.

 

Cuộc đời con người là những chuỗi đau khổ, mâu thuẫn. Và bản thân sự hiện diện của con người trên thế giới này là một sự khổ đau. Trong thơ Trương Đăng Dung thường xuyên thấy một bóng người cô đơn, một bản thể đơn côi, lạc lõng. Con người ấy dường như lúc nào cũng mang nặng trong tâm hồn một nỗi bấn loạn vì luôn cảm thấy bơ vơ trước mênh mông cõi đời và tấp nập cõi người. Sự cô đơn xuất hiện khi con người không tìm thấy sự hòa hợp với thế giới mà mình đang tồn tại để rồi trở nên xa lạ với tất cả, xa lạ ngay với chính bản thân mình. Cô đơn thời gian là khi đứng ở hiện tại, đối diện chính mình của quá khứ, tương lai, thấy được sự lạc lõng của chính mình. Hiện tại, tương lai bấp bênh không biết cái gì sẽ đến, đối diện với chính mình của quá khứ và tương lai. Hơn một lần trong thơ ông, người ta nghe tiếng quạ - loài chim ăn xác người, loài chim xuất hiện cùng cái chết:

 “Anh nghe ngày một gần hơn tiếng lũ quạ”

(Anh không còn gì ngoài em)

 

Những yếu tố phi lý, nghịch dị như một cách để phản ánh thế giới - được Trương Đăng Dung đưa vào trong thơ. Ông kể những chuyện ngược đời “Ở New York chiều chiều/ những con voi nhảy từ tầng muời một xuống sông/ cứu những con chim sẻ/ Ở Pari trước cửa viện bảo tàng/ người nằm ngáp/ trâu xếp hàng mua cỏ…” (Giấc mơ của Kafka). Ông nói về những cái quái đản “những đội quân không mũ/ tay súng, tay đao chân bước thụt lùi” (Chân trời), “những đôi mắt/ dính trên cổ những người không có mặt/ những tiếng kêu/ phát ra từ miệng những người không có cổ” (Giấc mơ của Kafka). Toàn những điều kì lạ, quái dị, khó cắt nghĩa. Thế giới là như thế: “phi lý” và “hư vô” - một mớ hỗn tạp của những điều không thể lý giải. Con người không hiểu vì sao mình sống? Vì sao mình tồn tại trong thế giới này? Những dằn vặt về bản thể xuất hiện, con người không ngừng tự vấn để rồi nhận ra cuộc đời là vô nghĩa. Hạnh phúc, tình yêu chỉ như những ảnh hình không có thật:

 

“Anh hỏi dòng sông về hạnh phúc trên đời

sông trả lời anh sông chỉ biết trôi

anh hỏi ngọn núi

núi trả lời anh núi chỉ biết ngồi

anh hỏi con người

người trả lời anh bằng nước mắt rơi”

(Ảo ảnh)

 

Bị ném vào thế giới ấy, con người bị bỏ rơi, mang nặng trong mình tâm trạng hoảng loạn, cô đơn và sụp đổ niềm tin một cách trầm trọng. Họ như đánh mất chính mình, trở thành một người khác - tha nhân. Họ cảm thấy ngơ ngác, thờ ơ, lạ lẫm trước tất cả:

 

“Tôi lớn lên ngơ ngác cõi người

tình thương, thù hận, buồn vui

hun hút đường xa cát bụi

người đi không biết về đâu”

(Chúa đã ra đi)

 

Để thoát khỏi nỗi cô đơn và sự buồn chán, con người trông chờ vào sự đồng cảm sẻ chia, sự quan tâm giúp đỡ lẫn nhau giữa người với người. Tâm hồn nặng gấp trăm lần thể xác, chúng ta sống với nhau phải làm sao cho tâm hồn trở nên bất tử. Tình người, ấy là liệu pháp duy nhất làm lòng người ấm lại. Thế nhưng, thế giới trong thơ Trương Đăng Dung thường ẩn chứa sự chia cắt. Khát khao cố gắng xích lại gần nhau lại càng bị đẩy ra xa. Cái tôi không thể tìm thấy sự hoà hợp, kết giao. Nỗi cô đơn vì thế mà dâng lên gấp bội:

 

“Giữa những cái bắt tay

có một bức tường

giữa em và người em thấy trong gương

có một bức tường

giữa hai chiếc gối nằm kề nhau

có một bức tường

….

Những bức tường, những bức tường, những bức tường

có mặt khắp nơi,

trong những lời vui đoàn tụ

trong những lời buồn chia tay,

những bức tường ta không xây

những bức tường không thể phá”

(Những bức tường)

 

 Ranh giới vô hình của lòng người, là cái hố sâu ngăn cách giữa người với người. Không tìm thấy sợi dây liên hệ, không tìm thấy tiếng nói sẻ chia. Chỉ thấy một sự vô cảm đến đáng sợ “không thấy kẻ gây tội ác/chỉ thấy nạn nhân/ và người ngồi xem nỗi đau qua màn ảnh nhỏ(Ghi chép hè 2009), chỉ thấy “cánh cửa sổ nhà này mở ra/ cánh cửa sổ nhà kia khép lại/ Họ đi hàng dọc/ gương mặt không trang điểm/ như được vớt lên từ đáy giếng” (Những người đàn bà). Cứ như thế, cuộc sống trở nên bế tắc, quẩn quanh. Con người như lạc vào một mê cung không lối thoát. Càng đi sâu càng lạnh, “càng bước càng lún sâu vào đất”, họ trở nên mệt mỏi rã rời. Mọi cảm xúc chai lì , tâm hồn người dường như hoen gỉ: “Có một thời/ trẻ con sợ búp bê và không thích sữa/ Có một thời/ anh đi bên tôi mà sao cách trở/ Có một thời/ Đi về đâu mà ai cũng vội/ Có một thời/ hạt bụi cũng quẩn quanh/ Có một thời/ nghe hát dân ca lòng ta mệt mỏi/ …../ Có một thời/ có một thời/ ta đã sống thật sao”

(Có một thời)

 

 Điệp khúc “có một thời” như khắc khoải, nhức nhối, xoáy sâu vào tâm trí người đọc. Có một thời người ta đã sống để rồi chính mình cũng không thể tin được rằng mình từng sống qua một thời như thế.

 

Mỗi khi mang nặng nỗi bấn loạn trong nội tâm của mình, con người thường tìm về kỉ niệm, hướng về kí ức. Bởi lẽ kí ức và kỉ niệm là nơi nương náu cuối cùng của những linh hồn không tìm được sự bình yên trong cuộc sống. Vậy mà ở đây, ngay cả kí ức, ngay cả những kỉ niệm tuổi thơ cũng bị đánh mất khiến con người càng chìm sâu vào bi kịch cô đơn.

 

“Hơn nửa thế kỉ đi lại trên mặt đất này

tôi không còn nhiều bạn

cây gạo đầu làng cũng bị chặt mất rồi

tôi không còn kí ức

những giọt máu cuối trời tuổi thơ…”

(Ghi chép hè 2009)

 

Nỗi cô đơn còn xuất hiện khi con người ý thức được sự chóng vánh của thời gian trần thế; sự ngắn ngủi, vô thường của kiếp người trong cõi phù sinh. Đối với Trương Đăng Dung thời gian là một nỗi ám ảnh, một cảm thức thường trực trở đi trở lại trong thơ . Thời gian trôi khi “tóc bà bạc xóa/ thấp thoáng bên khung cửa/ nắng nhòa” (Ảo ảnh). Thời gian đi qua cùng sự ngỡ ngàng “răng mẹ rụng lúc nào không biết nữa” (Có một thời). Thời gian rơi qua “từng kẽ ngón tay em vất vả” (Anh không còn gì ngoài em). Thời gian đến rồi đi, lặng lẽ và vô tình, lạnh lùng và tàn nhẫn. Nó cuốn phăng tất cả trước sự bàng hoàng, thảng thốt của con người. Nó chối từ mọi tiếc nuối, van xin, nài nỉ. Nó khiến cho con người rơi vào trạng huống trống trải, đơn độc.

 

Nỗi ám ảnh thời gian thật ra không phải đến Trương Đăng Dung mới có. Trong Thơ mới, đặc biệt là thơ Xuân Diệu đã thể hiện rất rõ tâm trạng sợ hãi, nuối tiếc và cảm giác cô đơn của con người trước dòng chảy thời gian. Nhưng điều đáng nói là khác với Thơ mới, Trương Đăng Dung có một cách cảm nhận thời gian riêng: mới lạ và độc đáo. Đỗ Lai Thúy đã rất tinh tế khi nhận ra rằng “Thơ Trương Đăng Dung đôi khi còn vương lại chút thời gian cũ như chiếc lá cuối cùng của mùa đông trước. Nhưng, nhìn chung, thơ anh đã có một thời gian khác. Nếu thời - gian - Thơ - mới là thứ thời gian, dù chi phối con người một cách rốt ráo, thì vẫn cứ là cái bên ngoài con người, là khung của một đời người. Trong khi đó thời - gian - thơ - Trương - Đăng - Dung là thời gian bên trong con người, thời gian chính là con người”. Trong Thơ mới, thời gian được cảm nhận từ ngoại giới, từ thiên nhiên, từ đặc trưng mùa… Nói chung là từ những thứ ở bên ngoài con người và con người cảm nhận nó bằng cảm xúc riêng của mình. Xuân Diệu từng sợ hãi, cuống quýt trước thời gian khi nhận ra “Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc/ Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi/ Chim chuyền cành bỗng đứt tiếng reo thi/ Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa” (Vội vàng). Với Trương Đăng Dung “Anh không thấy thời gian trôi” nhưng lạ thay thời gian lại trở thành nỗi khắc khoải khôn nguôi trong thơ. Con người không thấy thời gian trôi, bởi thời gian ở đây không đến từ bên ngoài, tác động vào giác quan con người mà ngược lại là thời gian ở bên trong con người, thuộc về con người - thời gian bản thể. “Anh không thấy thời gian trôi” nhưng lại cảm thấy sự thay đổi của vạn vật. Thời gian là máu thịt, ẩn trong tóc trong môi, rình rập trong hơi thở, len lỏi khắp tâm hồn:

 

“thời gian ở trong máu, không lời

ẩn mình trong khoé mắt, làn môi

trong dáng em đi nghiêng nghiêng như đang

viết lên mặt đất thành lời

về kiếp người ngắn ngủi”

(Anh không thấy thời gian trôi)

 

Có thể nói, trong cách cảm nhận thời gian với ý nghĩa “thời gian là tồn tại”, Trương Đăng Dung đã góp một tiếng nói mới lạ và độc đáo cho thơ - thời - gian. Nếu thời gian trong Thơ Mới là tiếng động từ ngoại giới thì thời gian trong thơ Trương Đăng Dung là tiếng rít từ thẳm sâu con tim người. Nỗi cô đơn trước thời gian trong thơ ông, vì thế cũng là nỗi cô đơn khởi phát từ bên trong con người. Cái lạnh đến từ bên ngoài thì còn có thể sưởi ấm. Nhưng cái lạnh trong  tâm hồn thì làm sao sưởi được. Nỗi cô đơn dâng trào tạo ra cảm giác sợ hãi. Sợ thời gian qua mau, sợ tuổi trẻ chóng tàn, sợ hạnh phúc và tình yêu tan biến:

 

“Sợ thời gian rình trong từng sợi tóc

khi môi ta rời nhau

hơi ấm đã thuộc về quá khứ”

(Vật chứng)

 

Nhiều lúc Trương Đăng Dung còn lạ hoá thời gian, tạo ra một thứ thời gian phi lý. Thời gian của những kỉ niệm từ một ngày tháng Năm năm 1054” (Những kỉ niệm tưởng tượng), của cuộc gặp gỡ “hai mươi ba ngàn năm về trước” (Có thể)… Kiểu thời gian này mang ý nghĩa giễu nhại, có tác dụng giúp người đọc hình dung được sự vô nghĩa của cuộc đời và cảm nhận được hết nỗi cô đơn trống vắng của kiếp người trong cuộc nhân sinh. Con - người - thơ Trương Đăng Dung đã sống hàng nghìn năm, thậm chí hàng chục nghìn năm vẫn thấy cuộc đời là vô nghĩa lý thì khoảng thời gian mấy mươi năm trong giới hạn một đời người có đáng kể gì.

 

Sự chóng vánh của thời gian, sự vô thường của kiếp người thực ra là quy luật. Đã là quy luật thì không thể khác. Trương Đăng Dung hiểu rõ điều này. Ông ý thức một cách sâu sắc giới hạn của đời người và ý nghĩa của kiếp người. Song dẫu thế vẫn không khỏi trăn trở, băn khoăn, tiếc nuối trước sự mỏng manh chóng tàn của tuổi trẻ, trước ranh giới của sự sống và cái chết, của tồn tại và hư vô. Có lẽ vì thế mà câu thơ “kiếp người ngắn ngủi” trở đi trở lại trong thơ ông như một tiếng thở dài. Nhà thơ luôn luôn nghĩ về cái mất - còn, vô vị - có ý nghĩa trong cuộc đời. Có những người sống cả đời không để lại được dư âm, ngược lại có những người chỉ trong một khoảnh khắc mà ghi danh đến nghìn năm. Cái khoảng cách thời gian tưởng xa vời vợi mà đôi khi lại thật gần. Và vì không thể được trả lời, không có ai đáp lời nên chúng vẫn mang tính chất một cảm xúc dồn nén, suy tư một chiều. Cô đơn thòi gian trong thơ Trương Đăng Dung vì thế là kiểu cô đơn chủ động.

 

3.3.2. Đối thoại thời gian trong thơ Mai Văn Phấn

 

Mai Thị Liên Giang cho rằng: “Thời gian và sự biến đổi của vũ trụ, của thế giới luôn là vấn đề quan trọng được các thi sĩ quan tâm. Bản chất của đối thoại là hỏi, nghe, trả lời, đồng ý. Con người khi đã ra đi nhưng những cuộc đối thoại có ý nghĩa với đời sẽ luôn ở lại. Mỗi nhà thơ đều trải nghiệm, đối thoại với thời gian theo cách của mình. Trong hành trình đi tìm cái không thể nhìn thấy, các thi sĩ thường bị ngăn cách với thời gian, với thế giới về mặt ý hướng, mục đích và sự hiểu biết. Bức tường ngăn cách bất khả thấu của thời gian vừa thử thách họ, vừa gọi mời họ đối thoại, vừa khuyến khích họ tìm cách vượt qua” [17]. Mai Văn Phấn ý thức được vẻ đẹp, giá trị của mình, con người nhân văn thời đại đầy tự tin khi đứng trước thiên nhiên, vũ trụ. Thần thánh, luật lệ, những điều trước đây tưởng chừng thiêng liêng, bất di bất dịch nay đã phần nào mất đi ưu thế của nó, phơi ra bộ mặt phàm trần. Thời gian với tư cách là một quy luật của thiên nhiên, tạo hóa do vậy cũng không phải là cái gì quá xa vời - dù nó vô cùng ghê gớm, có sức mạnh. Với Trương Đăng Dung, thời gian là đối tượng để suy tư, trăn trở, chỉ mong “qua kiếp người ngắn ngủi” còn với Mai Văn Phấn, thời gian là đối tượng để trao đổi, trò chuyện, thậm chí thách thức. Đối thoại như là môi trường sống đích thực của ngôn ngữ “trong tính toàn vẹn, cụ thể và sinh động của nó”. Xu hướng của nhà thơ hướng về đối tượng phản ánh bằng sự sôi nổi, nguồn nhiệt hứng không che giấu. Nó đối lập với giọng trầm ngâm, suy tưởng, giàu tính hướng nội trong thơ Trương Đăng Dung. Giọng điệu này thể hiện qua hệ thống từ ngữ, cách tổ chức hình ảnh, tổ chức câu, cách kết cấu bài thơ và nhịp điệu thơ.

 

Mai Văn Phấn miêu tả thời gian từ ngôi thứ nhất và đặt các đối tượng ở ngôi thứ hai như trong đối thoại trực tiếp. Trừ một số bài thuần túy bộc lộ tâm trạng, cảm xúc của nhân vật trữ tình, còn lại tính “hướng ngoại” thể hiện rất rõ qua việc các bài thơ luôn hướng đến một đối tượng cụ thể, xác định. Ta nghe trong đó không chỉ có lời của nhà thơ mà còn có cả âm vang của người đối diện. Nhà thơ như đang trò chuyện bằng giọng tâm tình, đầy cảm thông thấu hiểu: “Tôi đau giấc mơ cây cỏ úa vàng, trút xuống từng cơn thiếu máu. Lá khô đưa tôi về một thời mất máu, một thời khinh rẻ máu, một thời gian lận máu, một thời lợi dụng, tụng ca máu. Một vong linh không rõ giới tính đu lên cuống một chiếc lá và xưng danh từng là giọt máu. Ngọn cây và con chim sâu gần đó vội vã lắc đầu, rồi không tranh luận với vong linh ấy nữa”                            

(Trường ca - Thời tái chế)

 

Hay khi nài nỉ thuyết phục:

“Dấu chân xin cát chớ vùi

Cho ta về lại luân hồi kiếp sau”

(Qua hoàng hôn)

 

Khi tự bộc bạch để đưa ra triết lý của bản thân:

“Không phải nơi nào khác

Mà chính từ bông cỏ may kia

Đang làm nên một ngày tuyệt đẹp

 

Tôi rảo bước đến quán café gần nhất

Đợi người đàn bà của tôi

 

Và nhìn rất lâu về phía ngọn đồi

Đúng, rất đúng

Tất cả chúng ta vừa sinh ra ở đó.”

(Nơi cội nguồn thế giới)

 

Mai Văn Phấn đầy nhiệt hứng. Ông tự nhận mình “là chiếc bình gốm hở miệng” tương thông với tất cả, giao hòa thấu hiểu vạn vật:

 

“Tôi là chiếc bình gốm hở miệng

Thông với bên ngoài

Trong tôi

Vườn ươm hạt giống

Nắng sớm đang tưới

Đẫm từng gốc

Bên dòng sông

Dưới chân tôi nước rút”

(Tĩnh lặng)

 

Các hình ảnh tượng trưng cho sự trôi chảy của thời gian, khoảnh khắc nhà thơ oằn mình giữa vòng xoay của nó luôn hiện ra sinh động như tranh vẽ:

 

“Những giọt rượu vẽ lại hạt giống

Dấu giày nở

Mảnh trăng mòn vẹt

Cổ ngấn tròn lăn trong sức ép...

Vẽ hình người chết dính

Quanh mẩu xương ta vừa nhằn ra

Quanh hạt cơm vô tình vương vãi

Mang lỗi lầm hình trái chín

(Đối thoại với thời gian)

 

Nhà thơ không che giấu những lo lắng, buồn rầu, thôi thúc trong nội tâm mà bộc lộ một cách tự nhiên với người trước mặt, với người đọc:

 

“Không gọi được ai, lạc vào ai

Rượu hút cạn

Ngón tay rỗng buốt

Nín thở nghe nước xiết

Phơi khô ươn ái sông dài

Chảy qua thân

Nặng trĩu bờ vai rậm rịch

Bước chân hốc mắt đi tìm

Oan khiên con đò tự vẫn

Dâng ngang ngực

Nước mắt lửa kéo cày

Hoàng hôn chất ngất hạt giống

Sương giăng dài cơn mơ

(Đối thoại với thời gian)

 

Để có được hiệu quả giao tiếp tối ưu, Mai Văn Phấn còn thông qua cách tổ chức hệ thống hình ảnh tạo ra một không khí dồn dập, khẩn trương. Hình ảnh thơ Mai Văn Phấn thường không đơn lẻ mà xuất hiện thành từng chùm theo từng nhóm chủ đề. Bằng cách đó, nhà thơ gợi ra được tính khốc liệt của cuộc sống như cuộc vật lộn trên thương trường: khi anh sinh ra là đã kí vào bản hợp đồng vay nợ tự nhiên, anh sẽ luôn phải đối mặt với nó, không có cách nào khác, dù có người vay nhiều, người vay ít, người được ưu ái, người không… Để người trẻ tuổi thấy sức mạnh, sự tàn phá của thời gian, nhà thơ cũng dựng lên trước mắt người đọc hình ảnh về những công trình vĩ đại là sản phẩm sáng tạo của con người hay vốn là tinh túy rất cứng rắn, vững bền của tự nhiên. Đến chúng còn bị bàn tay thời gian phá nát, huống gì một con người nhỏ bé, yếu ớt, không vũ khí, không thần bảo hộ. Để cụ thể hóa tiến trình tất yếu thời gian đưa con người đến với cái chết, con người khi già cỗi thì phải trở về với hư vô cũng tất yếu tựa cây cối đến thì phải thu hoạch, không thể tránh được, và tự nhiên luôn trong tư thế sẵn sàng thực thi bản án ấy.

 

“Hoa tàn cây vẫn còn đau

Hương thơm quyến luyến trên đầu cỏ xanh.

 

Hồn mình dựa chốn mong manh

Rồi hư danh ấy cũng thành hư không.

 

Mắt vừa mở với rạng đông

Chân trời hổn hển phập phồng ngón chân

(Kinh cầu ban mai)

 

Giống như nhiều mũi tên cùng hướng về một đích, hình ảnh góp phần thúc đẩy người đối thoại hướng về nội dung chính. Ta có thể hình dung chúng như những nếp gấp xếp chồng lên nhau của chiếc quạt giấy, khi đến một độ nhất định sẽ đủ lực tạo ra gió mát. Suy cho cùng việc cứ nói mãi về một vài vấn đề bằng những hình ảnh quen thuộc chắc chắn không thể tránh gây sự nhàn chán cho người đọc, nhưng đọc thơ Mai Văn Phấn, ta vẫn luôn cảm thấy mới mẻ, hấp dẫn. “Thời gian cũng giúp nhà thơ bừng ngộ trước vẻ đẹp vĩnh cửu của thi ca. Trong thơ Mai Văn Phấn có phải thời gian cũng là một thực tại huyền bí thách thức tâm cảm của người đọc?” [17].

 

 

 

 

KẾT LUẬN

 

 

Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn đều sống trong một thời đại nhiều biến động và đều đã có chỗ đứng trong lòng bạn đọc yêu thơ trong nước và cả nước ngoài như một biểu tượng của tình yêu thơ ca, biểu tượng của tinh thần lao động sáng tạo đáng. Những “đứa con thơ” của họ đã phần nào cho thấy nỗi buồn, vui, yêu ghét, xúc cảm mãnh liệt cũng như rung động thiết tha của mỗi tác giả trên hành trình sáng tạo. Sống với hiện tại, đếm từng nhịp thời gian, cả hai nhà thơ đều thể hiện những phút ngậm ngùi đầy nhân bản khi nhận ra giới hạn của sự tồn tại trong cuộc sống đấy trân quý này.

 

Thơ Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn có sự gặp gỡ đặc biệt trong “cảm thức thời gian”. Thời gian là đề tài muôn thuở, giàu sức gợi mở, là cảm hứng sáng tạo bất tận trong thơ hai ông. Hành trình của thời gian với những bước đi âm thầm tạo nên những sự đổi thay to lớn trong cảm nhận của người nghệ sĩ. Thời gian vô tình với sức mạnh khủng khiếp, ám ảnh tuổi trẻ, tuổi già và cái chết. Người nghệ sĩ sống trọn vẹn và trân trọng từng khoảnh khắc của thời gian. Bởi quá yêu đời, yêu người, yêu cái đẹp, họ thức tỉnh trong lòng mỗi người đọc niềm trân trọng đối với từng giây phút sống. Về bản chất, sự gặp gỡ của hai thi sĩ là sự gặp gỡ của những con người không còn nhìn thế giới như một khối thống nhất; tĩnh tại, tuần hoàn. Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn luôn ý thức bản thân là một phần trong thế giới “nhàu nát mưu sinh” đó, đồng thời biết thân phận như một cá thể độc lập, có tiếng nói, cảm nhận riêng.

  

Bên cạnh sự gặp gỡ đó, gương mặt thời gian trong thơ Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn mang những dấu ấn riêng, đặc sắc, khó lẫn lộn về hình thái, dấu ấn hành xử và phương thức thể hiện thời gian. Ở Trương Đăng Dung, thời gian mang nét buồn lặng lẽ cổ kính như dòng sông cố giấu bao đợt sóng dưới lòng sâu, ngậm ngùi về “một kiếp người lặng lẽ” tìm đến chỗ “tị nạn” ở nơi “em”. Thời gian mang tính phổ quát, hướng đến tính phổ quát. Còn ở Mai Văn Phấn, thời gian mang tinh thần khởi sinh cội nguồn văn hóa - mạnh mẽ sinh sôi rồi tàn lụi nhưng hứa hẹn tái sinh trong “tĩnh lặng”, tạo ra hình thái “vòng cung” trong cảm thức về không - thời gian... Thời gian trong thơ Trương Đăng Dung là thời gian của những buổi chiều, mùa thu thê lương, tê tái trong cuộc hành trình đi về phía những ký ức. Phù hợp với chiều sâu kí ức là giọng điệu đầy triết lí suy tư, phản ánh một con người từng trải, sớm hiểu nhiều éo le ngang trái của đời, mang câu hỏi không lời đáp “có gì mới sau mỗi kiếp người ? ”. Thời gian trong thơ Mai Văn Phấn thường là biểu tượng kép, mang bóng dáng của thần Dớt uy quyền trong thần thoại Hy Lạp, có khả năng sáng tạo, đồng thời cũng có sức hủy diệt để tái sinh. Thơ Mai Văn Phấn đôi khi xuất hiện trong ngôn ngữ và giọng điệu đối thoại, tranh luận sôi nổi, khi nài nỉ, khi một mực quả quyết... Ông đã cho người đọc thấy một nỗ lực cách tân sáng tạo trong những phương thức biểu đạt phong phú, đa dạng.

 

Nhìn toàn cảnh thế giới thi ca Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn, có thể đúc kết lại trong triết lý “Tìm lại bản thể”, “trở về nguồn cội” vốn là căn cốt của đời sống nhân loại mà con người đã lãng quên hoặc vô tình đánh mất nó. Soi rọi Cảm thức thời gian trong thơ Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn, chúng ta hoàn toàn có cơ sở khoa học để tự tin khẳng định phẩm tính thơ của hai tác giả là dòng thơ triết luận, luôn sáng tạo trong đa dạng cảm thức về thời gian và không gian. Qua nhà thơ, người ta tìm thấy tầm cỡ của thời đại (Juri Wolker). Điều ấy đúng với hai ông. Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Trụ lại được trước dòng chảy của lịch sử đời sống, chính bởi thơ hai ông đã đáo cùng được những giá trị đời sống và nghệ thuật, vượt qua giới hạn thử thách của một thời.

 

Cảm thức về thời gian mang đến cho người đọc những sự cảm nhận chiều sâu tư tưởng khi tâm hồn con người không tìm được tiếng nói đồng điệu, không có một sợi tơ nào nối mạch cho cảm xúc mình những liên tưởng thân quen. Cảm thức thời gian trong thơ Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn mở ra một bức tranh sinh động về trạng thái tư duy của con người trong thời hiện đại. Thơ của hai tác giả đã tạo ấn tượng cho người đọc bởi những đặc sắc trong cảm thức về thời gian để độc giả suy ngẫm, chiêm nghiệm trong tính đa chiều, biến ảo của nó.

 

Qua khảo sát Cảm thức thời gian trong thơ Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn, có thể thấy những nét tương đồng, điểm gặp gỡ, đồng thời phân tích và lý giải sự thể hiện của cảm thức thời gian từ nhiều phương diện khác nhau. Bước đầu luận văn đã đánh giá khách quan về cảm thức thời gian, gợi mở hướng vận dụng yếu tố cảm thức thời gian để đọc hiểu và nghiên cứu các tác phẩm của hai tác giả trong mối quan hệ so sánh, khẳng định giá trị thơ Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn, những đóng góp của hai tác giả trong hành trình đổi mới thơ Việt. Bằng kết quả khảo sát, phân tích, chúng tôi không chủ trương tìm kiếm sự khác biệt, tương đồng mà chủ yếu muốn nhìn thấy diện mạo một thế hệ nhà thơ thời đổi mới, mà Trương Đăng Dung và Mai Văn Phấn là một trong những gương mặt tiêu biểu.

       

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

Tài liệu văn bản

 

1. Lại Nguyên Ân (2017), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

2. Lê Huy Bắc (2013), Văn học hậu hiện đại, lí thuyết và tiếp nhận, NXB Đại học Sư phạm.

3. Henri Bénac (Nguyễn Thế Công dịch) (2005), Dẫn giải ý nghĩa văn chương, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

4. Nguyễn Việt Chiến (2007), Thơ Việt Nam, tìm tòi và cách tân (1975 – 2000), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

5. Trương Đăng Dung (1998), Từ văn bản đến tác phẩm, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

6. Trương Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học như là quá trình, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

7. Trương Đăng Dung (2011),  Những kỷ niệm tưởng tưởng - Tác phẩm và dư luận, Nxb Văn học, Hà Nội.

8. Trương Đăng Dung (2012), Lời giới thiệu tiểu thuyết Lâu đài của F.Kafka, Nxb Văn học, Hà Nội.

9. Trương Đăng Dung (2017), Cô đơn, khát vọng và khoảnh khắc trong thơ hiện đại, Tạp chí Thơ, số 5 & 6, Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội.

10. Trương Đăng Dung (2020), Em là nơi anh tị nạn, Nxb Văn học, Hà Nội.

11. Nguyễn Đăng Duy (2001), Văn hóa tâm linh, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

12. Đặng Anh Đào, Hoàng Nhân (2005), Văn học phương Tây, NXB Giáo Dục, Hà Nội.

13. Nguyễn Đăng Điệp (2006), Thơ Việt Nam sau 1975 – từ cái nhìn toàn cảnh, Tạp chí nghiên cứu văn học số 11.

14. Jean Chevalier Alain Gheerbrant (2002), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Nxb Đà Nẵng.

15. Mai Thị Liên Giang (2015), Chủ thể tiếp nhận và lịch sử tiếp nhận Thơ mới (chuyên luận), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

16. Mai Thị Liên Giang (2018), An trú miền đọc (Tiểu luận – Phê bình), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

17. Mai Thị Liên Giang (2019), Cảm thức thời gian trong thơ Mai Văn Phấn, Tạp chí Dạy và Học ngày nay, Kì 2-11/2019, tr 52.

18. A. JA. Gurevich (1996), Các phạm trù văn hóa trung cổ, Nxb Giáo dục

19. Nguyễn Thị Bích Hải (2004), Thi pháp thơ Đường, Nxb Giáo dục.

20. Kate Hamburger (2004), Logic học về các thể loại văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

21. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên, 2009), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục.

22. Trần Mạnh Hảo (1995), Thơ - phản thơ, Nxb Văn học, Hà Nội.

23. Cao Xuân Huy (1995), Tư tưởng văn hóa phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu, Nxb Văn học.

24. Nguyễn Vân Khánh (1988) Đồng hiện - cách xử lý thời gian trong truyện ngắn Dưới bóng hoàng lan , Tạp chí Văn học và tuổi trẻ số 30/1998

25. Đình Kính (2011), Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn khác biệt và thành công, Nxb Hội Nhà văn.

26. Đình Kính (tuyển chọn, 2011), Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn khác biệt và thành công (Kỷ yếu hội thảo thơ tại Hải Phòng, 15/5/2011), NXB Hội nhà văn,  Hà Nội.

27. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (2005), Văn học Việt Nam sau 1975 những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

28. Nguyễn Đức Nam, Lương Duy Trung (chủ biên) (2002), Văn học phương Tây, Nxb Giáo dục.

29. Lê Lưu Oanh (1998), Thơ trữ tình Việt Nam (1975 - 1990), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

30. Mai Văn Phấn (1992), Giọt nắng, Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Tp. Hải Phòng.

31. Mai Văn Phấn (1995), Gọi xanh, Nxb Hội nhà văn.

32. Mai Văn Phấn (1997), Cầu nguyện ban mai, Nxb Hải Phòng.

33. Mai Văn Phấn (1999), Trường ca Người cùng thời, Nxb Hải Phòng.

34. Mai Văn Phấn (2003), Vách nước, Nxb Hội Nhà văn.

35. Mai Văn Phấn (2009), Hôm sau, Nxb Hội Nhà văn.

36. Mai Văn Phấn (2009), và đột nhiên gió thổi, Nxb Hội Nhà văn.

37. Mai Văn Phấn (2010), Bầu trời không mái che, Nxb Hội Nhà văn.

38.  Mai Văn Phấn (2011), Thơ tuyển Mai Văn Phấn cùng tiểu luận và trả lời phỏng vấn, Nxb Hội Nhà văn. Hà Nội.

39. Mai Văn Phấn (2012), hoa giấu mặt, Nxb Hội Nhà văn.

40. Mai Văn Phấn (2013), Vừa sinh ra ở đó, Nxb Hội nhà văn.

41. Mai Văn Phấn (2015), thả, Nxb Hội Nhà văn.

42. Mai Văn Phấn (2016), Không gian khác (Phê bình - Tiểu luận), Nxb Hội Nhà văn.

43. Mai Văn Phấn (2018), Tĩnh lặng, Nxb Hội Nhà văn.

44. Mai Văn Phấn (2018), Thời tái chế, Nxb Hội Nhà văn.

45. Hoàng Phê (chủ biên) (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

46. Nguyễn Ngọc San, Đinh Văn Thiện (1998), Từ điển điển cố văn học, Nxb Giáo dục.

47. Nguyễn Thành - Hồ Thế Hà (2017), Văn học Việt Nam ba mươi năm đổi mới (1986 - 2016), Nxb Văn học, Hà Nội.

48. Nguyễn Bá Thành (1995), Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.

49. Nguyễn Thị Quỳnh Trang (2012), Cảm thức hiện sinh trong thơ Trương Đăng Dung, Luận văn thạc sĩ, Đại học Đại học Khoa học Huế.

 

Tài liệu mạng

 

50. Hoàng Thụy Anh (2010), Ám ảnh thời gian trong thơ Trương Đăng Dung, http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c215/n5880/Am-anh-thoi-gian-trong-tho-Truong-Dang-Dung.html

51. Hồ Thế Hà (2013), Thơ tạo sinh nghĩa Mai Văn Phấn, https://phebinhvanhoc.com.vn/tho-tao-sinh-nghia-mai-van-phan/

52. Doãn Thị Hồng (2009), Cảm thức thời gian trong thơ đời Trần, http://luanvan.net.vn/luan-van/luan-van-cam-thuc-thoi-gian-trong-tho-doi-tran-74449/

53. Nguyễn Thị Minh (2010), Cảm thức thời gian trong thơ chữ hán của Nguyễn Du và thơ Sonnet Shakespeare, http://luanvan.co/luan-van/luan-van-cam-thuc-thoi-gian-trong-tho-chu-han-nguyen-du-va-tho-sonnet-shakespeare-67075/

54. Nguyễn Thanh Tuấn (2019), Trương Đăng Dung từ đời sống qua khoa học, đến nghệ thuật, https://nhandan.com.vn/tho/thoi-gian-va-su-ton-tai-nhan-ban-trong-tho-truong-dang-dung-253310/

 

 

 

 

 

PHỤ LỤC

 

THỐNG KÊ CÁC BÀI THƠ CÓ CÁC HÌNH ẢNH ĐÃ ĐƯỢC PHÂN TÍCH

 

 

A. Về thơ Trương Đăng Dung

 

- Anh không thấy thời gian (lá vàng, bạc màu, đêm vắng, năm tháng, mùa thu, trời xanh, sợi tóc rụng, ban mai, kiếp người ngắn ngủi)

- Ảo ảnh (bao năm, bình minh, mặt trời, giấc mơ, kiếp người ngắn ngủi, sẽ, một ngày kia, một lần nữa, mùa trăng sắp lụi, hiện tại, mùa hè đang qua, cơn mưa mùa hạ, tóc bà bạc xóa, nắng nhòa)

- Trên đồi Vọng Cảnh (dòng sông, mùa xuân, hè, đến một ngày)

- Anh chiếm chổ bóng đêm (bóng đêm, khoảnh khắc, ánh sáng, ngàn đời)

- Ánh sáng này... (ánh sáng, trời không sao, mờ hơi sương, ánh sao, trời không sao, ánh sáng)

- Vật chứng (bóng tối, thời gian, sợi tóc, quá khứ, ký ức)

- Có thể (đã, hai mươi ba ngàn năm về trước, ngày ấy, trời xanh, bao giờ, bình minh, hoàng hôn, thời gian, ngày xưa, đến hôm nay, bến sông xưa, những ngày thơ bé ấy, trời vẫn xanh, tự bao giờ, bốn mươi sáu ngàn năm nữa, vẫn, trong đêm, vầng trăng, sương khói, kiếp người)

- Ba mươi năm hay ba triệu năm rồi (ba mươi năm, ba triệu năm rồi, chưa đến ngày, bóng đổ, hoàng hôn, mặt trời, những ngày, đã, chân trời, những mùa thu)

- Không đề (mùa xuân, trời xanh, mặt trời sắp lặn, đã, hôm nay, hôm sau, hoàng hôn xuống)

- Anh không còn gì ngoài em (sau tuổi năm mươi, lúc sinh ra, năm tháng, ban mai, lần nữa, mặt trời, thời gian rơi, tiếng lũ quạ)

- Thành phố phía chân trời (mùa hè, nắng, mùa thu, trăng, thời gian, kí ức, con số đếm giay trên đồng hồ điện tử, chân trời, bình minh, mặt trời lên)

- Chân trời (chân trời, đã, trong mơ, mặt trời, màn đêm, đêm, quả chín, ánh trăng)

- Những bức tường (đã, trời xanh, đêm đêm, lũ quạ)

- Những người đàn bà (bình minh, bóng đêm, đêm qua)

- Những con kiến (sáng nay, chỉ mấy giây, suốt ngày, vừa, đã)

- Những kỷ niệm tưởng tượng (một ngày tháng Năm năm 1054, mặt trời, ngày đầu tiên, đêm, rồi, vừa, sáng nay, lần thứ một ngàn, quạ, đã lâu, một ngày kia, sẽ)

- Có một thời (một thời, lá vàng rơi)

- Tôi lại nhìn thấy họ (bình minh, suốt đêm, lại nhìn thấy, đêm đêm, lần đầu)

- Ghi chép hè 2009 (hôm qua, hôm nay, mặt trời, lần thứ mười ba, đêm, ngày, đã, tháng ngày, hơn nữa thế kỉ, rồi, kí ức, tuổi thơ)

- Chúa đã ra đi (đã, một trưa tháng Năm, mặt trời, sẽ, chân trời, từng buổi, đầu tiên, mỗi buổi, vẫn)

- Giấc mơ của Kafka (chiều chiều)

- Đêm ở Roma (trong đêm, ngày mai, trời sắp sáng)

- Nơi thi sĩ đến (đang)

- Viết cho con (bây giờ, lá xanh, đám mây, mùa đông, hôm nay, thời tuổi trẻ, mai ngày, thời con)

- Tin nhắn cho em (đêm nay, sao, kỷ niệm, ánh sáng, quá khứ, hiện tại, tương lai, ký ức, đêm nay)

- Hai chuyến tàu (giờ xuất phát, bóng đêm, ký ức của mùa thu, rồi một ngày)

- Ác mộng (đêm)

- Trên bàn mổ (đã, 65 năm, kí ức)

- Một lần nữa (một lần, một lần nữa, ngày anh sinh, ngày anh sống, bóng đêm, bao lần, từng đêm, tóc bạc, từng giây phút, kiếp làm người, mùa thu ngày một ngắn hơn)

- Bà và cháu (phía chân trời, cánh cò bay, ba tháng tuổi, sáu mươi, tóc xanh, tóc bạc, giữa trời chiều)

- Giấc mơ của con (đêm qua, trăng, đom đóm, dưới đất còn bom, vệt sáng, sáng nay, tuổi năm mươi, kiếp người)

- Trong quán cà phê Piano (đã, đêm đêm vẫn đến, tuổi thơ, ngày mai, muộn)

- Đối thoại (hôm nay, thứ Hai, ngày kết thúc chiến tranh, thời gian, thứ Ba, ngày Trái đất, thứ Tư, ngày thế giới phòng chống HIV, thứ Năm, ngày Lễ tình yêu, thứ Sáu, ngày Người cao tuổi, thứ Bảy, Ngày cuối năm, Hiện tại)

- Độc thoại (vừa, kiếp người, đang ngày đêm, từ thuở ấy, đã đến lúc, cuối ngày)

- Sách của Giona (nếu, sẽ)

- Sách của Gióp (ngày sinh, đám mây di chuyển)

- Sách của Aylan Kurdi (đêm ấy, đã, từng, vẫn, sau ba ngày đêm)

- Tinh thần Kafka (ký ức, vẫn)

- Đọc lại Dostoievsky (kiếp người)

- Tô Thùy Yên (đã, vẫn, mặt trời vẫn mọc, thời gian, phía trước mờ sương, kiếp người)

- Bên mộ một nhà thơ (nước Hung mới, nỗi đau vẫn cũ, xưa, nay, trong chiến tranh, trong hòa bình, mỗi ngày, hai mươi bốn năm rồi, thêm một lần)

- Những nẻo đường Budapest (những năm bảy mươi, mười tám tuổi, trời xanh, đã bao lần, một ngày mai tưởng tượng, đã, lịch sử, kí ức, ngày xưa, mùa đông, mùa hè)

- Lên cao, lên cao (hàng cây lá đỏ, đã lâu, mặt trời)

- Lưu ý (một sáng, đám mây bay, một chiều, một đêm, sợi tóc rụng)

- Như thể (thời gian hiện tại, quá khứ, tương lai, bắt đầu, kết thúc)

- Tự bạch (đầu tiên, sau chín tháng, những ngôi sao, bao đời, đêm đêm, bình minh, bóng, cát bụi, quá khứ, tương lai)

 

B. Về thơ Mai Văn Phấn

 

- Tản mạn về cỏ (mộng mị, bóng xế dũa mài hoàng hôn, đổ bóng, úa vàng, thời gian)

- Một mình (mây bông, tàn mùa, sáng, trăng thượng tuần, lu)

- Bên hoa (bóng ngày, ngọn đèn, trăm năm, còn chưa sáng hết, sương)

- Du ca (giấc mơ, dòng sông đã ngậm bả trầu phù sa)

- Khúc cảm mùa thu (mùa hè, một đêm, thu, sương mù, trăng lu, úa rụng, đáy thu)

- Thay lời chim làm tổ (vừa tỉnh dậy, xuyên ngày vào đêm, giờ đã, một thời, mảng đêm, giọt sương, hừng đông, ngày rạng, rơm xanh, mùa lên)

- Trương Chi (vầng trăng, ngày tràn đêm, đêm dài)

- Gom nhặt cuối mùa (qua sương giá đến rạng ngày, bóng mây, xửa xưa, vừa)

- Bâng quơ (sông xưa, sợi tóc)

- Mưa cuối hạ (chiều, miền âm dương, sen tàn, thời gian, tuổi thơ)

- Lơ lững (mùa thu)

- Qua hoàng hôn (hoàng hôn, vào đêm, kiếp sau)

- Hoa ngọc trâm (sương sa cuối chiều, xuân về, bóng trăng tròn, mùa hoa, trăm năm)

- Rượu xuân (mùa xuân)

- Kinh cầu ban mai (một mai, hoa tàn, vẫn còn, vừa mở, rạng đông)

- Không đề I (thuở dại khờ, của bây giờ)

- Em xa (mơ)

- Nước mùa xuân (mùa đông)

- Mười nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc (tháng ngày, nỗi đau xưa, nay, mưa về nguồn)

- Em gái đi lấy chồng (từ độ, ba bốn ngày, đêm nay)

- Con ngủ (mảnh trăng, giọt đêm, đêm sương, đang mơ)

- Chiếc lá (lá rụng, dòng xanh)

- Đà Lạt thì thầm (chiều nay, sương về)

- Ảo ảnh Tháp Chàm (hoa văn rêu phủ, nghìn năm)

- Cánh chim qua (bất chợt)

- Tìm hài cho em (thuở nhỏ)

- Nghe tin em sinh con (vừa qua phút lâm bồn, hụt bước trước hoàng hôn, chiều rỗng)

- Cảm giác mùa thu (một sớm)

- Chiều Trà Cố (chiều)

- Chiều (ngàn năm)

- Thoáng thu (sương khói, lá khô thoát xác bay lên)

- Gai (sớm, chiều)

- Hồn nhiên (khi ngủ say, như xưa lúc mẹ vắng nhà, một đời, đã, rạng đông)

- Màu xanh (đêm đầu mùa, khi sương tan, mùa đi, bình minh, bóng tối, cỏ cứ xanh vội vội, thời gian)

- Mơ thực (mười lăm phút, mơ dằng dặc mấy mươi năm, mộng, gió thu, chiếc lá rơi)

- Chân thật (bỗng đôm đốm vàng, giọt sương lạnh giá, mùa xuân)

- Lời người trồng hoa (từ bãi dâu xanh đến lúc phơi tơ, nắng lụi tàn, bốn mùa, trọn một kiếp người)

- Thu về (mùa hè,thu về, giọt sương, hôm nay là hôm nào)

- Mộng mơ (thế kỷ hăm mốt)

- Bóng mình (nắng sớm, ban mai, bóng về, trăng rằm)

- Tạ ơn bông lau (nắng bạc vàng, đêm, những thế hệ mai sau)

- Cuối xuân đầu hè (nắng, cuối mùa, cúc vàng, mới vừa về đến)

- Ngủ quên trong rừng (nắng, đêm qua, bóng tối, mơ)

- Em (buổi sớm, mùa thu, trời xanh xanh, mây trắng, rũ bóng, cơn mơ)

- Thuốc đắng (sương rơi, vắt qua đêm lạnh, mùa xuân tràn vào, khi lớn bằng cha bây giờ)

- Nét quê (từ thuở nào)

- Vầng trăng và con đường (vầng trăng, sương, ánh ban mai, mảnh đêm, vừa lặn)

- Anh về (vườn xưa)

- Nghi Tàm (thời gian, hè, xưa)

- Cát bụi và tôi (ký ức tuổi thơ, bóng tối, mặt trời chiều)

- Bạn (một chiều, lá rơi, mùa thu)

- Nhớ Hà Nội (một chiều, ngày ấy, vừa, lối cũ, chiều)

- Tự thú trước cánh đồng (bóng tối tràn tím rạng đông, đêm, giấc mơ, lúc giao mùa, ngày mới, nắng ấm, mùa vàng)

- Bài ca buổi sớm (đang về, mùa đông, lá vàng, mưa xuân, đêm vừa qua, đã mấy nghìn năm)

- Thương em (mùa xuân, tàn, vừa)

- Sợi dây im lặng (từ đầu này đến cuối những hoang sơ, mơ, chốn cũ, đã khác rồi)

- Nỗi nhớ mùa thu (một mùa thu, trái chín, mùa thụ phấn, chiều)

- Tiếng gọi từ những cánh đồng (sương sớm, bao kiếp người, gốc tối âm u mà hạ, nỗi đau một thời, ban mai, lúa vàng ươm, đang, trăng lặn sao mờ, sương giá, sớm hôm, bạc màu, bây giờ, đêm tàn, ngày sang, đêm, ngày gió mưa, bây giờ, con Bống con Bang, thân cò lặn lội nghìn năm trong mộng, một sớm, mưa xuân, mùa gặt trước, đọt mầm)

- Nhật kí đô thị hóa (bóng tối, ngày thơ ấu, từng kiếp người, trăng, đêm, trứng nước, văn minh, từ cái thời Văn Lang lúa nước, mùa thu)

- Một lần...thi pháp (khi tắt nắng, bóng đen)

- Dấu hiệu mùa xuân (chân trời đang ấm dần, mưa phùn)

- Khúc phóng túng (xuân đã đến, mùa xuân khác)

- Giấc mơ đi qua (giấc mơ đêm qua, đêm, ban ngày, nghìn năm dằng dặc, suốt đời, ban mai, đêm đã nhạt cuối vườn, bình minh, nửa bóng đêm, trái chín, vành trăng)

- Nghi lễ cuối cùng (ánh sáng, đêm, lá mầm)

- Hát giữa hai mùa (mùa đông, chân trời, rạng đông, xa xưa, những đêm không sao, thời bom đạn, bình minh, bóng đêm, hoàng hôn, thu, hoa vàng, bóng tối, giấc mơ, hai mùa, nắng mỏng, sương thưa)

- Lúc mặt trời mọc (trước bình minh, đêm, đêm dần sáng, mặt trời, rừng thay lá, thời gian, khoảnh khắc, mơ, ban mai đến sớm, tổ tiên, chân trời hừng đông, tia sáng đầu tiên)

- Viết cho cây sáo (ánh sáng, bóng tối, đêm, ban mai)

- Nước mắt (tháng ngày tàn héo xuân xanh, từng mảng rêu phong, bao đêm)

- Em cho con bú (chiều nay, thời gian, xa xưa)

- Đêm ở Thụy Khê (vạt cỏ xưa, giờ, đêm nay trăng rằm)

Từ 1995 đến 2000

Trường ca: Người cùng thời

Chương I: Nhóm lửa

(bình minh, đêm, dĩ vãng, năm tháng phủ sương, ban mai, bình minh, hoàng hôn, hình bọc trứng, khuôn mặt Âu Cơ, đêm đêm, mùa màng vàng ấm, hừng đông, cháy dỡ đêm qua, lời hịch năm xưa, hôm nay, cọc sông Bạch Đằng, cuộc chiến tranh, những thời thiếu nữ, giấc mơ, nay, hoàng hôn, người xưa, tổ tiên, một sớm, những vì sao, hôm nào, bông hoa cuối vườn, con thuyền trôi đi trong sương, người cùng thời, giờ phút lên đường, rạng đông, ban mai, sương mờ, đang, đêm qua)

Chương II: Tôi với mọi người

(đời, hết chiều, phận người mỏng, đêm đen, người xưa, một thời, ngàn năm, trăng non, bóng đen, hừng đông, ngày sang, thời vụ, bao đời, mùa, đêm)

Chương III: Cộng hưởng 1(vừa, ngàn năm, tuổi thơ, giấc mơ, thời gian, mùa sau, quá khứ, tương lai, xoay ngược tháng ngày, nảy mầm, giờ mở mắt, bóng đêm, úa vàng, trổ đọt mầm, phút giây, ban mai, mùa sau, nghìn xưa, ký ức, buổi sớm, thời mọc tóc thay răng)

Chương IV: Nỗi đau phát sáng

(mặt trời lên, vừa, một thời, mấy triều vua, ngày Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm từ quan, khi Nguyễn Trãi kề đầu dưới lưỡi dao đao phủ, chân trời mới, sương mù, chiến tranh, bình minh, hoàng hôn, bóng đêm, thời bao cấp, khi phá bỏ bức tường BERLIN, khi Xô-Viết-Liên-Bang tan rã, bây giờ, cùng thời)

Chương V: Đằm thắm mặt người

(hừng đông, thời gian, bình minh, trăng, một thời xa sau, một đời, ngày tháng, đang khai hoa đậu quả, từ muôn năm trước, tới bây giờ, thế kỷ, nảy lộc trong đêm mưa phùn, chiều, sáng, mùa vàng, khi mờ mịt, lúc chói lòa, lại, bốn mùa, thưở nào)

Chương VI: Cộng hưởng II

(đã, ban mai, vầng mặt trời, đêm tối, bình minh, đêm đem, người cùng thời, cuối hoàng hôn)

Chương VII: Mail cho em

(TỔI THƠ, KHI ĐÔI MÔI TA GẶP NHAU, THẾ KỶ, BAN MAI, GIỌT SƯƠNG MAI, HOÀNG HÔN, ĐÃ, THỜI GIAN)

Chương VIII: Trái tim giải thoát

(qua rồi mộng mị, rạng đông, mùa sang, thời gian, tổ tiên, đêm ngày, hoàng hôn, chiều, ban mai, thời hồng hoang tiền sử, đã qua nền văn minh dựng nước, từ văn minh cơ học đến ngưỡng cửa của văn minh tâm học, mùa xuân)

Chương IX : Cộng hưởng III

(ánh trăng xanh , mặt trời vẫn thức, đêm , bóng tối, ban mai, xưa, người xưa, người nay, ban mai, rạng đông, ánh sáng, trời xanh, tương lai, xa xưa, hồn tổ tiên, hoàng hôn, thời gian, bây giờ, thế kỉ sau)

Chương X : Phía trước bàn chân

(giấc mơ, vừa được sinh ra, người xưa, vẫn mãi còn xanh, đời trước đời sau, thế kỷ sau, cùng thời, đã chết)

- Khúc dạo đầu (ký ức, cơn mưa cuối cùng thế kỷ, cũ, ban mai)

- Mũi tên bóng tối (tưởng tượng, ngày, bốn mươi năm trước, thời gian, hoàng hôn, bóng tối)

- Nghe nana mouskousri (hiện thời, quá khứ, hoàng hôn, ban mai)

- Bức ảnh, trái cây và giấc mơ (ký ức, buổi sớm, ánh sáng, giấc mơ, cội nguồn, kiếp sau, đêm qua)

- Thời vụ (lại, tổ tiên, bình minh)

- Trong căn phòng (bóng tối)

- Cấu trúc tạm thời (bóng, tia nắng cuối chiều)

- Bây giờ mưa phùn (làm lại từ đầu, vẫn còn, xưa, nụ mầm, mộng mị)

- Phía sau ánh sáng (trốn màn đêm đi tìm ước mơ, giấc mơ, chân trời, bình minh)

- Giải pháp (tia sáng ngôi sao, vẫn, xưa, một mầm cây vừa mọc)

- Sáng mùa hè (màn đêm, vừa)

- Từ một đường bay (từ ngàn xưa)

- Đầu thu (mùa hè, mùa sen, khi hơi thu bắt đầu phe phẩy, chiếc lá chưa vàng)

- Đổ phía khuất vầng trăng (đã qua, trăng, lá rụng, bóng tối, những đêm không trăng)

- Dấu vết bình minh (đã, ban mai, hạt sương, giấc mơ)

- Anh đã rơi (đang chết đi và đang sinh sản, bóng tối)

- Chuyện hoa cúc (mùa thu, heo may, hoa cúc, chiều, hoa tàn tới tả mùa sau)

- Tập phát âm (hôm nào, bóng tối, vừa, đã)

- Biến tấu đêm mưa (bóng tối, hồi tưởng, đêm, giấc mơ)

- Giọng nói (vừa tỉnh dậy, đã, chốn cũ)

- Gương mặt em (đang, tuổi thơ chân đất)

- Nhịp thu về (mùa thu, từ giấc mơ mùa hạ, xác lá mủn, cao xanh về trong hốc mắt tan sương)

- Hồi sinh (lá già, ban mai, người xưa, ngày mùa)

- Quyền lực mùa thu (mùa thu, vừa chạy qua mùa hè)

- Hoa bằng lăng (ban chiều, đang tối dần, mùa hè, mặt trời, nắng xế, khi chiều xuống, khi mùa thu, sẽ, hôm nay)

- Tiếng kẹt cửa (trong cơn mơ, lại về)

- Mùa hạ rất gần (mưa phùn, hoàng hôn chảo lửa, gần cuối, đang)

- Bông hoa (trí nhớ, kỉ niệm, xưa, ký ức, tưởng tượng, đã)

- Làng (lại, tổ tiên, trời rạng)

- Bài hát mùa màng (vừa mở, mùa cũ, mùa mới, rạng đông, mùa tái sinh)

- Đất mở (hoàng hôn, ánh ngày, tối, sương mai, vừa chảy vừa sinh nở)

- Sen (hôm qua)

- Giàn ý (mùa xuân, 03 giờ nữa)

- Nhịp điệu vẽ lối đi (trí nhớ, bóng đen, nhòe mờ niên đại)

- Linh hồn đã bay... (bóng đêm, chân trời, sương tan, lá rụng, bóng râm, nụ mầm vừa nhú, ối màu, vừa mơ, vẫn còn)

- Im trôi (ký ức, sương mù, đã cũ, hôm nay)

- Nơi trời rộng (mùa ấm nóng, đảo lộn trật tự thời gian, quả ngọt, thóc vàng, ký ức, hạt mưa phùn)

- Được quyền nghĩ những điều đã ước (hôm qua, mặt trời, đêm sâu, cỏ non vừa mọc)

- Đợi mùa (ký ức, sương giá, mùi nắng, đang chờ chết)

- Đối thoại với thời gian (trái chín, hoàng hôn, cơn mơ, sáng đâm chồi, tối đâm chồi, ánh sáng)

- Mộng du (đêm)

- Ngày đẹp trời (ký ức, đêm, ánh trăng, một ngày dài)

- Mười bài tập mùa xuân (mưa dầm, phiên chợ Tết cổ xưa, đã bốn mươi năm kí ức, mùa xuân, mùa hoa gạo, gió mùa đông bắc, chuyển mùa, giao mùa, đầu mùa)

- Anh anh em em... (vừa được vẽ, đã, ánh trăng, một sớm, đêm qua, đã đợi anh từ trước, bây giờ là mùa xuân)

- Bến cuối (tổ tiên tại thời điểm khởi hành, quá khứ, đã chết, thời gian)

- Biến tấu con quạ (khai sinh, mơ, đã, hoàng hôn, rạng đông, bóng râm, đang, xuyên đêm, lần đầu tiên)

- Dừng lại để suy nghĩ (tại thời khắc, nơi ranh giới tiếp diễn và kết thúc)

- Di chứng (bình minh, quá khứ, sau giấc ngủ dài, dĩ vãng, đã, từ đấy)

- Không quán tính (bắt đầu, đã)

- Đêm trong ý nghĩ (đêm đến, ký ức)

- Vòng cung thời gian (níu thời gian cong, bốn mùa, khoảnh khắc, vàng rực hoa quỳ, vòng cung thời gian)

- Những ý nghĩ không sắp đặt (ký ức, cũ, đã)

- Niệm khúc số 18 (đang, phút giây tưởng niệm)

- Dấu vết (kỷ niệm, đến kì sinh nở)

Từ năm 2000 đến 2010

- Vẫn trấn tĩnh tiễn khách ra ngõ (xong, đã bảy năm, bao giờ, vẫn, đã)

- Quay theo mái nhà (đêm, bóng tối, đã khuất, giờ mặc niệm, kim giây quay chậm hơn hẳn kim giờ, vừa quay vừa tỉnh dậy, thời gian)

- Anh tôi (lúc gần đất xa trời, ký ức, trăng mọc sớm, vừa)

- Đúng vậy (lúc đi, sáng rồi tối)

- Giấc mơ vô tận (giấc mơ gần sáng, ngôi sao soi, buổi sáng, ngày 28 tháng 12)

- Đêm lập xuân (thời gian, lập xuân, mùa đông, bóng núi, thay mùa)

- Dậy trẻ con (đêm đêm, hoàng hôn)

- Còn cậu hãy đứng đằng kia (đêm nay, giấc ngủ, vì sao cuối cùng, trời tối, lúc 0 giờ, ban ngày, rạng đông, lúc năm giờ sáng)

- Hắn (bóng tối, tiếp diễn, đã, một dự báo về tương lai, buổi chiều)

- Nhìn kỹ (vẫn còn, hôm nay, hồi 17 giờ 30)

- Kể lại giấc mơ (đêm qua, thế kỷ trước, lại mơ thấy, vừa thức dậy)

- Nếu (thức dậy trong nắng sớm, mơ, đêm ngủ, bạc đầu, đêm qua)

- Chuyện còn dài (ba tháng tuổi, kiếp trước, tiếp tục tưởng tượng)

- Sống hồn nhiên (nắng tháng sáu, tưởng tượng ra mưa xuân)

 - Bưng chậu nước lên cao (trời đang mưa, bất chợt nảy trong tưởng tượng)

Nhắm mắt (thuở nhỏ, từ nay, khi nhắm mắt)

- Tắm đầu năm (mùa xuân về, đã, ánh sáng, ngọn đèn)

- Mưa trong đất (hồi sinh, trong mùa thu, mùa hạ ầm ào đổ xuống, trong nắng tháng sáu, đêm tối, ánh sáng, bóng đèn, tổ tông, bóng tối)

- Để nhận ra anh (bóng tối, hôm qua, tưởng tượng, trong giấc mơ)

- Những tiếng nổ nhỏ (nhưng ngôi sao đen đổi ngôi trong nắng sớm, cuối chiều nắng hen, bắt đầu)

- Chọn cảnh (trong mơ, lúc ăn sáng)

- Nhìn anh (hồi chuông sớm, trăng, mùa lúa đương thì, thu)

- Mùa xuân (mùa xuân, hoa đào, tối, tạm biệt mùa đông, mây trắng)

- Những bông hoa mùa thu (sắp mưa, mặt trời, trái xanh níu cành chín rục, chiều muộn, mùa hạ, nắng gắt, bóng tối, giữa mùa thu, nắng rực rỡ, ráng chiều, hừng đông, buổi sáng, chuyện hôm qua, những nắm sáu mươi, qua mùa đông, đêm xa, hôm sau, mỗi ngày, hôm qua, từ nhiều thế kỷ trước, tự kiếp nào chẳng biết, đang bồn chồn chờ những nụ hôn, cơn mưa buổi sớm, giấc mơ, mùa xuân, lá vàng hồi sinh, mùa họa, úa vàng, gần sáng, năm nay trời lập xuân muộn, còn 136...123...97 ngày, vào mùa những đàn ông bỏ tổ, cuối mùa, ánh trăng, qua đêm, sương, hừng đông chạng vạng, đang chờ trời sáng, ký ức, cơn mơ, đầu mùa, ráng chiều, bóng tối, giấc mơ, hoa cúc dại, hôm nay, hoàng hôn, bóng mây, nắng sớm, sương mù, bao năm, đến chết, tái sinh, trăng lên, ánh sáng, kiếp khác, bào thai, vài ba sợi tóc, non, mới ra ràng, lúc trăng lên, mặt trời vừa tan trong buổi sớm, bóng tối, ngả vàng, khoảnh khắc sát mình vào đất, nắng ấm, thời khắc chuyển mùa, bình minh, buổi chiều tà vừa tái sinh dưới đám mây bay)

- Cửa mẫu (ánh trăng, đêm tối, thời gian nhầm lẫn, đã khuất, đêm, mặt trăng, bình minh, chân trời, bóng tối, giấc mơ gần sáng, nhìn thấy lần đầu, lúc cha hôn mê, mơ thành bào thai)

- Đá trong lòng suối (lặng yên cho nước chảy, mùa xuân, lúc râm lúc nắng, lúc này)

- Giai điệu xuân (hạt nắng, mùa nước về, chim bồ câu ra ràng, sương đêm, lũ nấm rơm mở mắt, trùm lên non nước xanh)

- Cốm hương (thu về, cốm non, mùa thóc nếp, chín nẫu chân mây mùa hạ, đêm)

- Nghé ơi (ban mai, khuya, nắng sớm, giao mùa)

- Thu đến (chiếc lá kia rơi, xua mây đen, nắng sẽ hanh hao, heo may run ngõ nhỏ, cây già, chú bê non, chiếc lá ấy rơi, thời khắc mùa thu về đích)

- Đỉnh gió (ánh sao rơi, buổi sớm vỡ òa, mùa xuân, chờ nảy lá mầm)

- Vườn em (sau cơn mưa, mùa thu, vặt nắng, ban mai)

- Mùa trăng (trăng đã về, trăng khuya, đêm lóe sáng, buổi chiều, ngày chối gắt và rạng rỡ, đây là thời khắc ái ân, thắp sáng lãnh địa bóng tối, mùa phồn sinh thụ phấn kết hạt, thiêm thiếp trăng khuya, ngày mai, và thế giới sẽ đổi khác)

- Hình đám cỏ (từ nay, sương đêm nắng mới, mặt trời, ban mai, sớm nay, chuyển mùa, sớm mai thay áo mới, gần sáng, hôm trước, lơ mơ dưới nắng, một phút, thời khắc đầu mùa, đá khô rụng xuống, cuối chiều, thuở dại khờ xưa, buổi sớm mây trắng, bóng tối, chiếc bút và đồng hồ tự trôi, giây phút, sương sớm ùa đến, nắng ùa đến, rạng đông chìm vào đất, hừng đông, mười năm..., ba mươi năm..., đã lâu, tưởng tượng, lại, qua kỳ nghỉ hè, hôm qua, đã, bình minh, buổi chiều, lại tiếp tục, tháng bảy, cầm tay nhau khi ngủ, vạt nắng xiêu đi, tháng ngày, ngày xưa, cơn mơ, sơ sinh, bóng đêm, vừa, chín rục, thêm đốt, bình minh, vừa sinh, đang, bóng tối, đang vượt cạn, trôi sang kiếp khác, bình minh khác, hôm qua, ngày đến rồi!, trong giờ sinh nở, ánh trăng khuya rơi, thời khắc bật miệng núi lửa trước bóp cò, nắng sớm, cuối hạ, đêm tối, đêm qua lại mơ, nhớ lại, trái mùa, ban trưa, hoàng hôn, trong quá khứ, sớm mai)

- Ở SOKCHO (ban mai, mùa hạ, mùa xuân, tuyết, mùa đông, tin nhắn, lúc giao thừa, đêm đen, vụ mùa)

- Buổi sáng lên Yên Tử (gió xuân hôm nào)

- Em đừng thức giấc (trong giấc mơ)

- Vô tình trong nắng sớm (đêm qua, nắng sớm đang phủ lên đỉnh núi)

- Lên chùa (hoa bưởi mùa thu, trái mận mùa xuân)

- Mùa hoa mận (mưa xuân, mùa hoa, nơi cội nguồn thế giới, bình minh, buổi sớm)

- Tỉnh dậy trong mưa (ngày mù trời, tưởng tượng, trong đêm, khoảnh khắc ấy, hạt giống, giấc mơ vẫn còn dang dở, chợt rộ lên từng đợt lá non, mặt trời về với bóng tối, nơi đây, giờ này, trước khi ban mai trong suốt kéo lên, hình như ngày đã muộn, vẫn dịu dàng đi xem ban mai, sẽ, nắng hây hây, nắng xế, làm cánh đồng lúa chín rộ lên, mùa ong đi hút mật, đang chuyển động, vừa rửa tay bằng ánh trăng lấp lóa, mùa đông, mùa xuân, hoa loa kèn mở cánh, suốt giấc mơ, gần sáng, đã trọn kiếp mơ, một kiếp yêu tỉnh lại, sương sớm, nhớ mình đã, giữa mùa hè, vừa hiện ra, ngày mai đang yêu, thưở ban đầu, đang).

- Bông hoa Yên Tử (bảy trăm năm trước).

- Buông tay cho trời rạng (em mơ, tưởng tượng, vẫn mơ, thức dậy đổ đầy trăng vào nắng sớm, thời khắc yên tĩnh, trời rạng, mùa hoa năm nay cũng khác, một buổi sáng, vào kiếp trước, hoàng hôn, kìa cỗ xe mùa thu đang đến, cuồn cuộn tầng lá rụng, ánh sáng)

- Giấc mơ cây (mưa cuối đông, tưởng tượng, đang mơ, không còn chỗ cũ, sớm mai mặt đất tỉnh dậy, mỗi ngày, hồi sinh, để sơm mai bắt đầu một đời sống khác, tràn sương nắng, ngàn năm, rơi vào giấc mơ, bóng tối, tưởng tượng, ánh ngày phủ vạt cỏ vừa thức dậy, khoảnh khắc sớm mai chỉ đến một lần)

- Tiếng vỗ ngắn ( đã rữa, hôm nay, nhìn lá khô không biết, mình đang ở quá khứ, hay tương lai, đêm qua tôi mơ, lạc sang thời đại khác, năm ngoái)

- Thả diều trong Đại Nội Huế (ngày ấy, hết nửa ngày, đã chiều, lại)

- Quang phổ (ánh sáng từ hàng cây vừa tàn lụi nhường chỗ cho nắng sớm mai, đêm qua, tờ lịch vừa kết thúc một ngày, ký ức, tưởng tượng, một sớm ta thức dậy, đêm, giấc mơ, sớm mai, một ngày ánh sáng rút đi, bóng tối, từ nay, ánh sáng, bóng đêm vẫn còn nham nhở đâu đây, mặt trời gần đứng bóng)

- Rời tay để bạn đi (khoảnh khắc cuối ban mai, mỗi cuối thu)

- Đường bay (hết bình minh)

- Gặp mùa xuân (vẫn dậy sớm, trong bình minh khác, mùa xuân ở khoảng giữa)

- Tĩnh lặng (đã, không còn, tôi lớn bằng giấc mơ, bắt đầu ngả vàng, mới gặt, vẫn còn chỗ cũ, đang lớn, đang già, hôm nay, bây giờ, quá khứ, tương lai, giấc mơ, tuổi thơ, bóng tối, mùa đông, lúc hoàng hôn, hừng đông, khép lại thời gian, nén chặt bình minh vào đêm, nhiều năm, những đốm vàng, vào mùa xuân, đêm qua trong giấc mơ, lớn nhanh như một lá mầm, cả đời, kiếp trước, sẽ, khi tỉnh thức, khi ngủ, cho tới khi)

- Đợi (có phải mùa xuân, giấc mơ, mặt trời, lâu rồi)

- Cố nhớ (đã, mơ, đêm qua, hình như, lần cuối, rồi)

- Phân bua (lá khô, bình minh, xuân về)

- Không mơ (đêm, sáng, và vẫn thế, như không trôi)

- Rễ và đá (sớm mai)

- Trồng rau (trong mơ, đêm quá ngắn, lại tỉnh giấc)

- Hai thời đại (hai thời đại đang bàn giao, thuộc thời đại cũ)

- Lúc này (tối qua, giờ)

- Hạt mưa giao thừa (trong đêm, chuyển động, tái sinh trái đất, giấc mơ)

- Có tiếng sét dưới bàn chân trụ (rơm rạ đầu mùa)

- Nơi tuyệt đẹp (cùng giọt sương vừa thức dậy, giây phút, đang)

- Mở (tự bao giờ, dù mới xảy ra, đã, mỗi thế hệ, các thế hệ không sống chung mái nhà, cảnh cũ, tâm sự cũ, đêm qua mơ thấy ánh sáng, hình như lúc ấy, hết buổi sáng, sắp)

- Đôi (giấc mơ, nơi so le mùa, vườn trăng nghiêng, dạt dào ánh sáng, bóng tối)

- Khép cánh (tưởng tượng)

- Đầu tháng (trăng xuống nhanh, sẽ có lúc rất vội, còn bây giờ, thì chưa)

- Đêm (còn lâu mới hết đêm)

- Chuyển vần (giọt sương)

- Trái hồng (trái chín, trái hồng vỡ, tuổi thơ lem luốc)

- Trái cây (bóng tối, ánh sáng tinh khiết, trái chín, tia nắng cuối chiều, ngày vẫn nung cây)

- Con bồ câu (gợi nhớ giấc mơ đêm qua, đã chín, ngô lúa vào mùa thu hoạch)

- Đêm hoa nở (đêm, sương giá, bóng tối, trời đã rạng, chiếc lá rụng biết mình gục vào mặt cỏ)

- Mở trong bình minh khác (bóng tối, khép lại giấc mơ)

- Đôi chim sẻ (vừa nở, đang sôi, đã mở, mới thổi)

- Quả phúc bồn tử (hôm qua, đã chín, sớm nay, khuya, từ thế kỷ trước, trong đêm, mơ)

- Con thiên nga bay đi (ra đi từ rạng đông, đêm ngày bốc hơi)

- Tôi tin (nắng sớm, đang)

- Tượng “Chàng trai ghìm cương ngựa”* ở Saint Petersburg (trong chiều, sẽ)

- Từ pháo đài Petro – Pavlovsk (sau tiếng đại bác lúc 12 giờ)

- Ngày thu ở nước Nga (đã khuất, đã khác, rụng trước hoàng hôn, mùa thu, vừa nở)

- Thánh ca trong nhà thờ Vaxili Blazenui (đi về hừng đông, vừa mới)

- Qua tầng trời (nơi không bóng tối, lúc giao mùa)

- Nước đang chảy qua trái đất (hạt sương, từ đêm tối, cây trong vườn vươn dậy, hoa bắt đầu nở, và bắt đầu mưa, đêm, tiếng sấm đầu mùa chạm giấc mơ, giọt sương mát ủ trong mầm hạt, mưa xuân, từ mùa đông năm ngoái, đàn sứa phát quang lòng biển êm).

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 




 

BÀI KHÁC
1 2 

image advertisement
image advertisement
image advertisement




























Thiết kế bởi VNPT | Quản trị