Thơ Mai Văn Phấn – cuống nhau và chùm rễ
Văn Chinh
Trước sân
chầu vũ trụ
Ông vua và ngọn cỏ cùng ngồi
Rabindranath
Tagore
Đọc xong
400 trang sách, ước khoảng hơn 8.000 câu thơ toàn những mộng mị, cuống nhau,
nước, lá và hoa; tôi cũng thành mộng mị, không rõ mình là Mai Văn Phấn biến ra
hay ngược lại. Chỉ biết, cần phải cãi lại Phạm Xuân Nguyên rằng, vâng, rất có
thể thánh kinh và các khải thị do Chúa truyền dạy nhất thành bất biến là Ngôi
Lời (uyển ngữ / kỵ húy ngôi Trời?) nhưng thơ Phấn trần thế hơn nhiều, nó chỉ
mong được làm cái việc rất cụ thể và xưa cũ, rất xưa cũ: Làm cuống nhau nuôi
phôi bào, bào thai và làm rễ cỏ. Ít nhất, tôi có thể dẫn ra 5 câu thơ nói về
hai vật thể tối quan trọng này. Nó hiện diện cả trong câu thơ cổ điển, lẫn siêu
thực, thậm chí là trong hậu hiện đại nhưng chưa bao giờ nó ngừng tận tụy với
tượng trưng như tượng trưng đã xuyên suốt thơ Phấn. Tôi đồng ý với Phạm Xuân
Nguyên, “Mai Văn Phấn vật vã lo âu trước sự tha hóa của nhân sinh hiện thời”
nhưng xin thêm, Phấn đã nhiều lần vong thân hòng tìm kiếm lại cho nhân sinh cái
cuống nhau tinh thần và trên hành trình ấy, ông đã gặp cỏ không chỉ với tư cách
ẩn dụ. Có nhẽ không vô tình mà bài Tản mạn về cỏ lại được đặt ở ngay
trang đầu của tuyển tập:
Ghé môi vào miệng thời gian
Cho hơi thở mọc vô vàn cỏ non
Nói
chung, vũ trụ với trăng sao đất đai với nước và cỏ thật gần gụi với con người,
là một phần khó có thể tách rời của con người là đặc trưng lớn nhất của thế
giới nghệ thuật Mai Văn Phấn. Thực ra, nhân hóa là phép tu từ không của riêng
ai. Với cư dân trồng lúa nước, nó đã thành một thi pháp: Lúa thì con gái, lúa
nghén đòng, lúa đứng cái… nhưng bản thân nó không thể sản sinh ra câu thơ trong
bài Sau
mùa gặt: Đất đai - người đàn ông
nằm ngủ. Vâng, anh ta đang ngủ và giấc ngủ trễ tràng gợi ra một đêm hoan
lạc, gợi ra sự mệt mỏi sau một quá trình phục vụ cuộc sinh nở vĩ đại của đất
đai hay của chính vợ anh ta? Ở bài Mười
nén nhang ở Ngã ba Đồng Lộc chúng ta còn thấy cả một sự cỏ cây hóa,
trời đất hóa cơ thể con người:
Tháng ngày gương lược về đâu
Chân trời để xõa một mầu cỏ non
(…) Nhang này quặn nỗi đau xưa
Tôi nay tôi của cơn mưa về nguồn
Thế giới
nghệ thuật ấy cũng cắt nghĩa, vì sao viết về việc mình sinh ra, Phấn lại viết:
Đặt con lên đất
Lòng sông đau xé thân đêm
Thậm chí,
viết về việc vợ sinh, ông cũng mở đầu:
Mặt đất vừa qua phút lâm bồn
và sau mẹ
tròn con vuông, không phải “cửa sinh” mà là:
Chân trời phía ấy vừa se lại
Cố nhiên, dù với sự
“vong thân” nhưng bằng vào liên tưởng gián tiếp, nỗi đau sinh nở của mẹ vẫn là
cấp độ hiểu thứ nhất, rồi mới đến cấp độ của nỗi đau – cấp độ thiên nhiên. Cũng
vậy, với độ phồn sinh của bầu vú phi phàm:
Vòm ngực thả trái cây sắp rụng
Lũ cuốn, đá lở, sạt đồi
Con
thú giật tung giây trói
Nghiền
không gian thành sữa thơm dưỡng chất
Bầu
vú cương lên căng mọng
Nuôi
nấng trẻ thơ trên khắp thế gian
Cho phép chúng ta liên tưởng đến
cấp độ cuối cùng, ấy là cuống nhau tinh thần của nhân loại?
Có một bí ẩn trong gia tài thơ
Phấn, ấy là tính dục chỉ có thể cảm thấy chứ không nhìn thấy. Dấu hiệu để cảm
nhận có lẽ là đòi hỏi công khai như một điều kiện tiên quyết của tình yêu nhục
cảm, ấy là sự thanh sạch như thiên nhiên trong ái ân được trở lại nhiều lần
trong thơ ông. Và từ đó những đứa trẻ của tương lai sẽ ra đời; sẽ cứu vãn sự
già nua bệnh tật xơ vữa của nhân sinh mà Phấn luôn luôn khắc khoải:
Tiếng
em rồi tiếng con cười
Rộng
thêm căn phòng ta ở
Anh
hồi sinh tuổi ngây thơ
mà Phấn luôn khát vọng:
Con
đang khai hoa đậu quả
Ngự
trên ngực mẹ ngực cha
Cùng với những đứa trẻ được sinh
ra trong thanh sạch, hồn nhiên như cây cỏ; cũng cần một điều kiện nữa, một sự
đi bước nữa của văn minh nhân loại, ấy là văn
minh tâm học mới được hình thành như một giả thuyết nhưng đã hằng thường
trong thế giới nghệ thuật Mai Văn Phấn:
Đã
hé mở cánh cửa nền văn minh tâm học, những linh hồn tâm hồn có đủ lương năng,
lương tri rời thể xác tìm nhau. Vượt gấp nhiều lần tốc độ ánh sáng, trái tim
hiền lành rung động các vì sao.
Giữa
thiên nhiên ngỡ trong lòng mẹ, giây phút bình yên cho ta thêm lặng lẽ, tạm biệt
những sắc nhọn tinh khôn để cảm nhận mình đẹp như bào thai, mới như phôi thai
Đó chính là một không gian tinh
thần, nó sẽ giãn ra để nhường chỗ cho
tiếng trẻ con đồng thanh trong lớp:
Muôn
năm con người. Muôn năm thiên nhiên
Tôi tin chắc đó là cuống nhau
tinh thần của nhân loại, chẳng những nó cho phép hình dung một tương lai sáng
sủa mà còn khả dĩ chữa lành những sang chấn của loài người sau thế kỷ đầy thù
hận.
Dù sao thì thế giới nghệ thuật
của Mai Văn Phấn cũng đẹp và ít nhất, nó cho phép Phấn tả việc giao hoan, tả sự
sinh thành thật sống động nhưng thanh thoát và sang cả, như bài Giáng
sinh và Bài ca buổi sớm.
Từng
giọt mát lành thấm nhuần trong đất
Tươi
từ môi anh đến gót chân em
*
* *
Mai Văn Phấn chọn vào tuyển tập
hai trường ca: Người cùng thời và Hình đám cỏ chưa kể hai bài thơ dài:
Những
bông hoa mùa thu và Cửa Mẫu. Trong các trả lời phỏng
vấn, Mai Văn Phấn nói hành trình cách tân thơ là quá trình vùng thoát khỏi bãi
lầy của những trường phái nghệ thuật. Các dấu vết vùng quẫy còn khá nhiều trong
Người
cùng thời nhưng chính nó làm nên thành công của trường ca. Ở đây có một
nghịch lý, cả hai trường ca của Phấn đều không có nhân vật trữ tình vốn được
coi là xương sống của loại hình này; ở bài thơ dài Cửa Mẫu thì có nhưng Mẫu
lại là nhân vật tượng trưng nên chỉ thấp thoáng ở giá đồng chầu văn chứ không
hiện diện. Không biết chuyên gia trường ca là nhà thơ Đỗ Quyên sẽ nói sao về
điều này, nhưng tôi trộm nghĩ, chính nhờ không có cái trồi lên át giọng nên ta
có thể nghe thấu niềm khắc khoải đến ngột ngạt của nhà thơ trước sự suy thoái
của nhân tính, của môi trường được giấu rất kỹ:
Và
cánh đồng nín lặng qua đêm
Vâng, làm sao có thể nói rõ với
con người về thế kỷ anh ta vừa sống có rất nhiều thô sơ nhầm lẫn. Ở đây thì
nhân danh cái mới để đốt đền thu chuông giữ mõ, làm chiến tranh, làm chiến
tranh nhân danh bảo vệ nhân quyền, làm chiến tranh nhân danh sắc tộc và tôn
giáo – chiến tranh lâu dài đến mức làm vương mùi thuốc súng trong phòng máy
lạnh của hôm nay; ở kia thì nặc danh như có mặt quỷ nấp sau mặt người để rồi:
Mặt
quỷ thì run mặt người thì buồn
Trường ca cho tôi một khái luận:
Trong thực trạng xói mòn nhân tính, cần sự dũng cảm hơn là đầu óc thông minh.
Dũng cảm và trầm tĩnh trường kỳ thậm chí là hạt nhân của cuộc chiến chống xói
mòn nhân tính. Bởi vì trẻ hóa, hồn nhiên lại chính là quá trình lột xác: Giọng nói rất gần/ Dưới bình minh con hãy
lột xác! (Cửa Mẫu) Đó là một
quyết tâm đau đớn mà không phải không có nỗi phân vân:
Muốn
dừng lại bên đường
Nằm
lên cỏ
Trời
cao mong leo lên cây
Nhìn
xuống tiếc nuối cát
Thèm
trộn vào cát
Giây
phút phân vân anh nằm bất động
Mặc
sương sớm ùa đến
Sóng
mặn và nắng ùa đến
Kéo
căng anh cỗ xe ngựa phanh thây
(Hình đám cỏ)
Ở Người cùng thời cuộc
chiến còn ác liệt hơn. Đau đớn nhất là phải nhìn quá khứ như một nỗi đau và
phải đốt nó lên, như Phấn trong lời đề từ cho trường ca đã viết: Ta cúi xuống cuống cuồng thổi lửa/ Nhận ra
mình là hòn than cháy dở đêm qua. Và dẫu biết con đường phía trước là nhọc
nhằn và hết sức hiểm nguy mà không thể khác, không có con đường nào khác:
Người
cùng thời nhìn rõ đường đi nhờ những nỗi đau hắt sáng sau lưng, hắt sáng gương
mặt người đằm thắm…
Quyền
sở hữu ở bên ngoài Thiện - Ác. Ấy là điều những cuộc chiến tranh học được, để
chính trị là cái nôi đạo đức cho cái thiện sinh ra…
…Hạt
giống để dành được gieo vãi. Ta cũng gieo vãi vầng trán ta vào chân mây hy
vọng. Như tháng ba ra đồng trong tiếng sấm. Bùn đất dưới chân làm ta tươi tốt.
Xin học cách kết hạt của mùa màng trong mỗi nguồn cơn
Vâng, trong cái hỗn độn (hậu hiện
đại) của sự cấu trúc lại còn đậm đặc trong chương VII, có tên là Mail cho em thi thoảng người đọc lại
nhặt được những hạt bụi lấp lánh: …KHI ĐÔI MÔI TA GẶP NHAU BỖNG GIỌT NÀY THẤY
GIỌT KIA LÀ MẸ TRÊN VẦNG TRÁN MÊNH MÔNG…Xin lưu ý rằng, trong một thi cảnh
khác, Mai Văn Phấn gọi những hạt bụi là mẹ của vạn vật.
Và như thế, hành trình trở về của
Mai Văn Phấn là bộ đôi song bước. Ở bình diện thứ nhất, quá trình vùng thoát
khỏi những bãi lầy của các trường phái nghệ thuật để trở về với truyền thống,
với cổ điển. Cố nhiên, cái truyền thống bây giờ đã khác và về điểm này thì Phạm
Xuân Nguyên có lý. Và Nguyên diễn đạt rất hay: “Cái truyền thống đã ngấm chất
hiện đại (…) Giống như ta mang giọng của làng quê đi khắp năm châu bốn biển, đã
nói nhiều thứ tiếng, khi trở lại làng giọng ta nghe như không đổi mà thực ra là
đã đổi đến tưởng như không đổi.” Trong khúc thứ IX của Cửa Mẫu, lời thơ như được chép từ một giá đồng nào đó tại phủ Giầy:
trống
chiêng bát bửu
mở
hội long đình
múa
hát cao xanh
công
đồng tứ phủ
Ở bình diện thứ hai, bình diện
nội dung, sự trở về với bản thể hồn nhiên, trở về với bản lai diện mục của nhân
sinh diễn ra âm thầm nhưng quyết liệt hơn nhiều. Trong tuyển thơ, Mai Văn Phấn
nhiều lần làm lễ thanh tẩy; ông có hẳn một bài riêng, bài Tắm đầu năm được viết
trang trọng như một nghi lễ. Nhưng đột ngột ông về hẳn với cội nguồn thờ Mẫu
của văn hóa Việt và chính ở đây, quá trình lột xác (hay thanh tẩy hay tắm gội)
được diễn ra trong nhạc cảm chầu văn hầu đồng và chính nó như được tương tác
bởi tâm linh để thành đa bội nghệ thuật:
Hoa
quả
Lửa
đèn
Âm
dương chén nước
Như
trườn qua cơn chạng vạng
Rút
dần cơ thể qua lớp vỏ bọc
Con
hớp những giọt sương
Đống
vỏ bọc xám xịt chất cao
Đã
xa tầm tay với
Đoàn
người dìu nhau bấy bớt
Cuối
bình minh
Suy cho cùng, “bãi lầy trường
phái” là cách nói khiêm nhường của kẻ đã qua cầu, chứ “bốn mươi năm ấy có biết
bao nỗi niềm” cả phấn hứng, hạnh phúc lẫn đắng cay cô độc. Đây là thời kỳ Phấn
tự cử mình, tự bỏ kinh phí đi thi Olympic thơ nhân loại và trên hành trình ấy,
không ít lần lá cờ (thơ) Việt Nam đã được kéo lên. Xin chúc mừng. Nhưng
chúc mừng nồng nhiệt hơn là sự trở về với cội nguồn. Ở đây, ở tận cùng của cội
nguồn, ông đã gặp văn minh tâm học mà hạt nhân của nó là tâm linh, là cái mà
nhân loại đang dò dẫm bước tới.
*
* *
Xin dành những dòng cuối cho thơ lẻ Mai Văn Phấn từng neo đậu
trong ký ức tôi. Giống như truyện ngắn, thơ lẻ là những lát cắt của cảm xúc, nó
không có chỗ cho che chắn rào đón; nó là “bầu trời cần mái che.”
Nhưng ở đây có một lỗ thủng của lý thuyết trở về, nó làm nên
nghịch lý cần bàn thảo.
Chùm bài Tản mạn về cỏ, Trương Chi, Lơ lửng, Mười nén
nhang ở ngã ba Đồng Lộc và có thể kể thêm Chiếc lá, Em và biển, Đạ Lạt thì
thầm viết trước 1995 có được cái trong vắt của Đường thi nhưng cũng
thấp thoáng tượng trưng:
Trăng gầy
mòn đến mày ngài
Thuyền ta
qua nổi đêm dài này không
và siêu thực:
Ghé môi
vào miệng thời gian
Cho hơi
thở mọc vô vàn cỏ non
Nhưng ngay cả thời trong trẻo ấy, Phấn
đã cảm nhận được thảm họa tha hóa của văn minh. Đây là câu kết của bài Không đề I:
Gọi tìm tôi thuở dại khờ
Về thương tôi của bây giờ tinh khôn
Chùm bài Vẫn trấn tĩnh tiễn khách ra ngõ, Đúng vậy,
Tắm đầu năm, Anh tôi, Quay theo mái nhà… tác giả vẫn trung thành với
siêu thực và hậu hiện đại nhưng… vẫn hay. Nếu siêu thực đã hay thì còn cần gì
phải trở về? Tôi không hy vọng thuyết phục các bạn, ở đây xin tạm đưa ra một
giả thuyết. Tượng trưng và siêu thực chưa bao giờ là dòng chủ lưu ở xứ ta nhưng
ngay từ xa xưa, nó đã có trong phép bút của tiền nhân chúng ta. Nhân vật
“khách” trong bài Vẫn trấn tĩnh tiễn khách ra ngõ được hiểu như là nhà thơ vừa
gặp một bóng ma, bóng ma ấy cao thước sáu và để lại dư âm mùi tử khí. Thì trong
các truyện ngắn của Nguyễn Dữ, ta còn gặp ma nhiều hơn. Và ở “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi, “Bạch Vân thi tập” của Nguyễn Bỉnh Khiêm
lại chẳng nhan nhản bút pháp tượng trưng đó ư?
Vả lại, tôi tin nhà nghiên cứu Nguyễn Quân: “Mở đầu là vĩ nhân,
còn lại là thể loại.” Khi xoay triết luận theo chiều khác, chúng ta có “mở đầu
là vĩ nhân, còn lại là trào lưu”, xoay nữa, chúng ta sẽ được hệ quả “mọi trào
lưu khi lên đến đỉnh, đến hay thì đều gặp nhau.” Tôi không nói Mai Văn Phấn là
vĩ nhân, tôi muốn nói trong các trào lưu mà Phấn dấn thân, ông đều đi đến tận
cùng và vì vậy đều để lại thành tựu. Thơ Mai Văn Phấn cũng do đó mà phong phú,
đa dạng.
Đặc biệt là các tập “Hôm
sau”, và “và đột nhiên gió thổi”. Ấy là khi Phấn còn
múa bút dưới ngôi sao chổi siêu thực và hậu hiện đại. Có nhiều bài lâm vào
trạng thái bụi thiên hà, tắc tị và bí hiểm; nhưng cũng có nhiều bài vụt sáng.
Tôi từng viết: “Sinh thời, nhà văn Sao Mai nói: ‘Thơ có 4 cấp độ: từ, ý, khí,
thế. Như Chế Lan Viên đã thoát khỏi từ, giầu ý tứ, khí kém nhưng thế nhiều bài
đã đến.” Như Mai Văn Phấn đã không còn phải loay hoay với vần điệu, tu từ và
thật thú vị, thoát được là tự do. Cảm giác tự do ở lối nói tung tẩy, nói như
không ngụ ý gì, như bất chợt. Cũng ở tâm thức ngột ngạt dị ứng với những cũ kỹ
ẩm mốc, những “modern”, “hot” đến hời
hợt, đến vô tình mà nhặng xị. Mai Văn Phấn hiện đại mà không có đồng minh hiện
đại, chút cổ điển tinh tế chỉ còn sót lại ở nhạc cảm toàn bài cũng bị thói đọc
thơ cổ điển lướt qua mất; ông đành âm thầm đơn độc nhưng bạo liệt với khát vọng
cách tân mình. Đọc Mai Văn Phấn tốt nhất là không nên tìm ý, đó là các tập
mờ, tâm thái ta thế nào, ký ức ta thế nào, thơ Mai Văn Phấn sẽ chia sẻ với ta
thế ấy. Nó có năng lực biến đổi, làm bất yên những hằng thường vô vị và là chỗ
cho ý thức thẩm mỹ bám níu. Có bài đã đạt đến khí, như Ghi ở Vạn lý Trường Thành
đọc xong lạnh đến gai người mà không rõ vì đâu…
V.C
(Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn, khác biệt và thành
công - Kỷ yếu hội thảo thơ tại Hải Phòng, 15/ 5/
2011, NXB Hội Nhà văn, 2011).