Hành trình cỏ cây xuyên tâm l[iên/inh]

Nhà văn Đặng Thân và MVP
Trước hết xin
được nói về cỏ!
Nếu ai bị bệnh “nhớ cỏ”, đã từng chẳng thể
quên “Cỏ non xanh tận chân trời”[1],
thậm chí hoài cổ đến tận “Độ đầu xuân
thảo lục như yên” (Cỏ xanh như khói bến xuân tươi)[2], thì Mai
Văn Phấn đã có đây “Tản mạn về cỏ”.
Thế nhưng, cỏ từ Nguyễn Du đến Mai Văn Phấn đã rối bời suốt hai trăm năm (tính
từ Nguyễn Trãi là sáu trăm năm) nên nó đâu còn như xưa:
Thôi đừng dỗ cỏ lên trời
Khi
tan mộng mị biết ngồi với ai
Câu thơ (lục bát “cũ
rích”) mở đầu cho tuyển tập Thơ tuyển Mai Văn Phấn dài cỡ 470
trang giấy đẹp đã anh ánh lên tinh thần mới, tinh thần phản kháng, tinh thần
cảnh tỉnh… Không, chỉ một từ thôi, đó là “thôi”, đã là cả một tuyên ngôn.
Tuyên ngôn gì?
Tuyên ngôn: “THÔI!”
Giữa “cỏ Nguyễn Trãi”
thế kỷ XV rồi “cỏ Nguyễn Du” của thế kỷ XVIII-XIX và “cỏ Mai Văn Phấn” là cả
một trảng cỏ vĩ đại của một cuộc đại cách mạng trong thơ ca của thế giới đớn
đau tù đọng này, đó là “cỏ Walt Whitman”. “Cỏ Walt Whitman” không phải là thứ
cỏ đầy dục vọng “thăng” như “cỏ Nguyễn Trãi” và “cỏ Nguyễn Du” nữa (cứ thăng
thăng mãi là đường đi của kẻ tự sát!), nó “giáng”:
Tôi,
kẻ vô công rồi nghề, cúi nhìn hoa cỏ mùa hè[3]
để hy vọng:
Những
giáo điều và những trường học sẽ trống không[4]
vì nó muốn:
tiếp
nhận Tự nhiên như vốn có, thừa nhận mọi nơi, mọi lúc[5]
Nó “giáng”, để đưa Đạo
về với Đời:
Đấy
là cỏ, cỏ mọc khắp nơi, ở nơi nào có đất và nước[6]
“Cỏ Mai Văn Phấn” dường như nép bóng “cỏ Walt
Whitman” của thế kỷ XIX mà đến với thế kỷ XX đầy tao loạn:
Ta về đổ
bóng xuống vườn
Cho xanh tươi lại từng cơn úa vàng
Nhưng mà, nó đã mang một sứ mệnh mới: HEALING
(Phải chăng là dấu vết của “hiện thực XHCN”? Hay là của tôn giáo và Kinh Thánh? Câu trả lời là ở quý vị).
Cái khả năng “cứu chữa” này đích thị là cái mới, cái tân, để rồi, dấn bước, đột
phá… đến “cách tân”:
Ghé môi vào
miệng thời gian
Cho hơi thở mọc vô vàn cỏ non
Đây chính là hơi thở
mới, chưa từng có trước đây trên thi đàn Việt Nam, của “cỏ Mai Văn Phấn”.
Chỉ mới xuất chiêu một
bài thơ nhỏ anh đã cho ta nhiều liệu pháp để chữa đa-liên-bệnh: bệnh “hoài cổ”,
bệnh “kinh điển”, bệnh “bán cổ điển”, bệnh “thèm của lạ”, bệnh “cách mạng không
ngừng”, bệnh “người lính đi đầu”…
Từ đây, “cỏ Mai Văn
Phấn” khai triển, mọc tùm lum trong ráng ngày, cùng với những những kỳ hoa dị
thảo.
Bài “Bên
hoa” đặc sắc vì nó như thể nói về loài hoa biết nói:
Anh van xin đấy nõn nà
Gót
hương nhẹ lắm lướt qua mặt người
đủ để chữa mọi con bệnh yêu cổ điển. Nhưng
mà, “Mai Văn Phấn mới” cũng đã xuất lộ ở câu kết (dễ gây dị ứng cho loại con
bệnh kinh niên ấy, nhưng lại là thuốc kích thích cho những con bệnh “thèm
mới”):
Sương giăng réo gọi bốn bề
Xa em
sợ lắm… bã chè… chân đêm…
Rồi đến “Hoa
ngọc trâm”. Những bông hoa hàm tiếu “thâm niên” đủ để say cả một mùa cổ
điển:
Thấy mình là gió thoảng thôi
Còn
trăm năm giấu nụ cười trong hoa
Rồi là lá, với “Chiếc lá”. Chiếc lá ở trang 35 này có gì đặc biệt? Nó là tiếng thơ
đầu tiên tách khỏi dòng “lục bát” suốt từ trang đầu, chuyển sang giọng “thất
ngôn tứ tuyệt”. Dẫu chưa phải mới về thể loại nhưng là một dấu vết chuyển mình,
nhất là ở câu đầu:
Tán lá là ngôi nhà bình yên
Phía sau lật úp một con thuyền
Lá rụng khi dòng xanh tưởng cạn
Con
thuyền phía ấy lật mình lên.
Lá đã rụng, thuyền đã
lật. Có cơn động đậy nào trong cõi sâu tâm linh?
Vẫn tiếp tục với “7 chữ” (nhưng chưa tới “8
nghề” như sau này), cỏ cây đã ra trái với bài “Quả thu”:
Anh là vỏ chát, em là nhân
Quấn
quýt heo may chuyển ngọt dần
Hôn
nhau thành quả rơi trên cỏ
Xanh ủ
trên đầu chín xuống chân.
Cõi thơ Mai Văn Phấn đã nặng hình hài, như đang kìm nén sức căng
trong cái vỏ áo cũ sờn chực rách bất cứ giây phút nào. Từ quả tiếp sang cây, “Cây trên đảo”:
Tôi
chợt ngỡ ngàng cây phá thế
Nhựa tràn
qua những thớ vân vi.
Cõi tâm linh mách: dục vọng “cách
tân” như hẹn từ kiếp trước, giờ đây năng lượng đã dâng trào. Cách tân hay là
chết!
Mà cỏ, hoa, cây, lá, quả đã hiện
hình cả rồi; lấy gì làm “dược liệu” cho những “liệu pháp thơ” mới mẻ đang thai
nghén chờ khoảnh khắc khai sáng của “lâm bồn” nữa đây?
Nhưng coi chừng. Với bậc nghệ
nhân thượng hạng thì cái gì rơi vào tay cũng thành nguyên vật liệu cho những
tạo tác bất tuyệt.
Và còn có đây, “Gai”:
Sớm
Hái
bông hoa hồng
Chiều
Gai
cào mộng mị.
Sẹo
Lên
xanh biếc thế
Gai
Trong hồn
đơm hoa.
Cuộc cách tân cả về hình thức (xa rồi nhé những con số 6, 7, 8 lầm
lũi ngàn năm để nhịp phách mới 1-4 đột khởi) và nội dung, với cái “gai” này, đã
thổi hồn tâm linh vào suy tưởng để bật ra triết học. Cặp cặp phạm trù bắt mắt
cứ dăng dăng:
“hoa hồng” >< “gai”
“sớm” >< “chiều”
“hái” >< “cào”
[“thực”] >< “mộng”
“ngoại” (“sẹo”) >< “nội” (“hồn”)
“lá” (“xanh biếc”) >< “hoa”
Cái gai này phải chăng là sứ giả
của Thượng Đế gửi vào hồn thơ Mai Văn Phấn? Nó mang trong mình đủ mọi biểu
tượng của thi ca và tư tưởng. Nó không bao giờ thôi làm cho cõi tâm khảm của
tâm linh thi sỹ hết nhói đau, hết chẩy máu, từng giọt từng giọt đỏ, rồi để lại
những “sẹo lên xanh biếc”, và… những
giọt máu, giọt sẹo ấy lại sinh sinh hóa hóa mà “đơm hoa”.
Và khi hồn đã đơm hoa thì hoa gì ắt cũng là hoa, cũng đáng để hàm
ơn Tạo Hóa, vì thế mà có “Tạ ơn bông
lau”:
Những
bông lau
Phơ
phất
Từ
không định
Bay
vào hư vô...
Nghe
vang vọng bất ngờ
Từ
trong lòng vũ trụ
Có
mắt ai thôi miên trong lá
Tả
tơi rơi sợi nắng bạc vàng
Cơn
gió hay tửu đồ lang thang
Hát
đến hao gày từng giọt đêm nặng trĩu...
Thiên
nhiên bao la
Thiên
nhiên hiện hữu
Những
bông lau - sinh tử - vui buồn.
Cây
từ miền hoang dại không tên
Những
bông lau phất lên ngọn lửa
Rồi
luyện lại từ Kim-Mộc-Thủy-Hỏa-Thổ
Để ra
đời những thế hệ mai sau.
Nếu chiếc gai là sứ giả thì bông
lau này là “đóa hoa vô thường” đầu tiên mà Thượng Đế đã mượn hồn thơ Mai Văn
Phấn để ban tặng cho nhân sinh. Tính triết, tính Phật, tính Đạo… của “bông lau”
này đủ để người ta viết ra cả quyển triết luận. Nhưng, cái mà tôi muốn nói nhất
ở đây đó là Mai Văn Phấn đã hầu như hoàn thành sứ mạng về thể loại một cách
triệt để trong cái định mệnh “phải làm thơ cách tân” mà Tạo Hóa giao phó. Những
con chữ như những nốt nhạc ở bài này đã được mặc sức buông bắt thả mình trong
không gian tự do. Ví như, nghe thơ “6-8” hay “7-7” có thể ta sẽ có cái cảm xúc
như nghe chèo, tuồng, cải lương, vọng cổ, quan họ, ví dặm… thì đến với bài thơ
này ta có cảm giác như thể đang nghe nhạc giao hưởng đỉnh cao.
Cuộc chơi cách tân của các loại cỏ-cây lại tiếp tục với “Bức ảnh, trái cây và giấc mơ”:
Những
bức ảnh thiếu sáng, những trái cây chín ép và giấc mơ rụng cánh trước
cơn mưa, chầm chậm trôi ngược dòng ký ức.
Theo
ngọn gió mở cánh đồng buổi sớm, ùa vào những căn phòng lẫn bụi và
ánh sáng, lau mồ hôi vừa tắm gội giấc mơ.
Và
như thế, cội nguồn trong gang tấc, lúc quay về là đi hết đời mình, hay chờ
luân hồi trở lại kiếp sau.
Những
linh hồn kia chưa kịp đầu thai, đang ngưng lại nơi không gian thờ phụng, bay
lửng lơ rồi nấp vào bái vật giáo bất động.
Có
ai chạy từ giấc mơ, trái cây đến bức ảnh, để nhặt được những gì mình
đánh mất, nghe tù đọng từng giọt nước mắt và nhận ra sự chai lì của
mỗi bóng râm.
Nơi
đầu nguồn đã thay một không gian và thế hệ cỏ non đang ran ran trên đất.
Những
linh hồn đứng vào góc mở ánh sáng khác, trong tiếng rên của giọt sương
mới, dè dặt vụng về gõ cửa từng nguyên âm.
Nhưng
khắp nơi đang bắt đầu những dòng đổ vào ký ức, cả từ bức ảnh, trái cây,
giấc mơ thành giọng nói đêm qua.
Người “cựu” có thể thấy cái giọng như đọc “kệ” ở bài này, nhưng mà
người “tân” thì lại cảm thấy cái chất “rap”. Phải chăng hai dòng này có chung
một cội, mong các nhà nghiên cứu âm nhạc minh định lại. Cái “giọng nhạc” mới mẻ
này của cỏ-hoa còn vang tiếp tới các bài “Chuyện
hoa cúc” (mà kỳ thật còn nghe có giọng “đồng dao”):
Trốn khỏi khung tranh, nhịp điệu
Chạy
về cao rộng mùa thu
Heo
may réo tìm khản giọng
Còn
nghe văng vẳng tung hô.
Ai
ngờ hoa cúc nổi loạn
Trong
bao mơ mộng vững bền
Ngọt
ngào khôn ngoan giăng lưới
Bóng cây
mặt nước im lìm.
……
hay “Hoa bằng lăng”
(ắng ỏi giọng “tuổi xanh”):
Ban
chiều. Trên đỉnh bóng cây đang tối dần thành miệng vực, những bông hoa bằng
lăng rực rỡ đăng quang. Muôn ngàn môi hoa, cánh tay hoa đung đưa trong nghi
lễ xông hương của mặt đất tạ ơn vòm trời. Hơi nóng vẫn đổ về bốc hơi mặt
ao đầm, muốn khẳng định ngự trị liên tục của mùa hè. Cả ngôi nhà quay mặt
về hướng tây cũng ngộ nhận về mặt trời, dù nắng xế đã chiếm gần hết
phòng khách.
Tôi
ngước lên dòng thác màu tím nhạt từ bông hoa đang dội xuống ngực mình.
Không phải ai đi qua mùa hè cũng được vô tình tắm gội.
……
Rồi “Bông hoa”, rồi “Sen”. Đến “Sen” ta vẫn thấy có “bùn”,
có “hồ”, có “đài”, có “ngó”, có “cỏ hoang”, nhưng đã bật phát dường như lần đầu
cái “ma mị Mai Văn Phấn”:
Chưa
khiếp sợ bằng ngón tay tỉa sen
đang teo
lại trong áo khăn trong suốt.
Sen thường đi với Phật, mà đâu có
Phật ở đó có Ma. Cái “ma mị” trong thơ anh như mang những thông điệp huyền bí
sẽ xuất hiện ngày càng dầy đặc.
Đó là “cỏ Mai Văn Phấn”
thế kỷ XX.
Sang thế kỷ XXI, “cỏ Mai
Văn Phấn” đã hoàn thiện về mọi mặt, bừng nở bản trường ca tâm linh huyền bí,
nghe vút dài như rơi vào cõi vô tận.
Trước hết, xin hãy cùng anh “Khai bút cùng cỏ” cho một thời đại mới
của thơ cách tân:
Cỏ
xanh lan vào chân sóng
Nước
rút xa dần
Lại
lên tiếng nói
Non
tơ...
Bàn
chân em đặt lên
Cho
phân minh lời cỏ
Anh
lặng yên nghe ngực mình
Rộng
mở...
Thành
quả chuông run lên trong mưa
Gặp
đèn trời, khói bay, gió lạnh
Hay
vô ý chạm vào một lá cỏ
Bất kỳ...
Quý vị có nghe như tiếng “jazz”?
Hồi đầu thế kỷ, Mai Văn Phấn từng tuyên bố: “Tôi thực sự thấy tự do tuyệt đối,
được làm vua những con chữ của mình.”[7]
Làm thơ đến mức giản dị nhẹ nhàng như không làm thế này
là đã đứng vào hàng tuyệt bút, xứng đáng “làm vua” (mà đỉnh cao quyền lực nào
chẳng cô đơn khủng khiếp). Cuộc chơi của chữ trong thế kỷ mới thế là đã thoát
ly khỏi cái bóng ngàn năm của những “lời
lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu”[8]. Nếu bạn bắt gặp một bài
thơ “cỏ” như thế này mà không thấy hay? Thì, gần bạn hãy trách mình, xa bạn cứ
việc trách Vua Hùng. Tôi xin nói thẳng: thế kỷ XXI đã đi qua cả thập kỷ rồi mà
hành trang văn học của người Việt vẫn như là “con số không” (nếu không muốn nói
là “âm”: toàn những cảm thức từ thời của những rổ rá nong nia dần sàng…); công
chúng thơ ở đây hầu như vẫn chỉ có thể cảm nhận được cái đẹp của những “nhà
ngói cây mít” mà chưa rung cảm nổi trước những siêu cao ốc chọc trời hay càng
là những lều cỏ hoang sơ.
“Lều cỏ hoang sơ” dường như chính
là cái vẻ đẹp chủ đạo trong thơ Mai Văn Phấn. Để rồi anh đã kết tinh cái vẻ đẹp
ấy trong một trường ca rất là “sắc sắc không không”: “Hình đám cỏ”.
Bản trường ca 9 “nhịp”, nhưng cái tôi muốn gom vào đây nhất là
những chất “ma mị” huyền bí trong “cỏ Mai Văn Phấn”. Bắt đầu từ “Nhịp I” là hai
câu:
Bước
sơn dương gõ lên mặt đất
Thế giới
từ nay không thể ngủ
Cái gì đây? Tại sao đã nhiều nhà thơ thốt lên cái sự “không ngủ”?
Tại “đêm nay bác không ngủ” hay tại tâm linh họ luôn thức? Mà tại sao lại là
“sơn dương”? Phải chăng những con dê núi nơi cố hương Ninh Bình đã luôn luôn gõ
nhịp trong tâm khảm anh từ khi ra đời, vào một năm con dê. Cả một bầy dê đã
luôn làm anh mất ngủ. Cũng như những bầy dê có mặt bên Chúa Hài Đồng đã như
những thiên sứ thúc giục Ngài luôn phải đắm chìm trong những tâm tư: làm sao để
cứu rỗi con người. Dê là tượng của khí “nguyên dương”: thuần khiết, trong trẻo,
hướng thượng, vận động không ngừng nghỉ. Đó là tượng của “Trời”, là lý tưởng,
là đỉnh cao chói lọi trong tâm linh và tư tưởng con người. Dê là gốc, là đầu
mối đầu tiên và tựu thành của sự sống. Mà cuộc sống thì không ngủ bao giờ. Cuộc
sống trong “cõi tưởng” của Mai Văn Phấn thật rực rỡ:
Động
rộn sương đêm
Cỏ
cây, nắng mới
Núi
cao
Chim
chóc bay qua tảng đá xù xì
Sông
cuộn xiết con cá động dục loé sáng mặt nước
Mặt
trời bên kia bức tường
Vòm cây,
tổ chim hơi thở ban mai
Những người có “cõi tưởng” rực rỡ
thường ngoài đời thực lại dễ có sắc mặt đìu hiu. Dù tôi chưa hề gặp mặt Mai Văn
Phấn nhưng tôi đoan chắc anh có cái thần thái âu muộn. Tại sao thế thì ai có
suy nghĩ đều biết.
Các “nhịp” trong “Hình đám cỏ” vang lên vô vàn những cỏ-hoa-cây-lá
và những tiếng chim. Với
Hàng
lan can bên kia bông hoa
Những
cánh mịn đỏ thẫm
Gốc
cổ thụ cũng trong suốt
Giờ
ban Lễ-Thánh-Thể rung chuông
Sớm
mai thay áo mới
Ánh
hồng nhung hắt lên khuôn mặt em
Thôi miên
làn gió chợt qua
trong “Nhịp I” thì chỉ có thể là cảnh ở Thiên Đường. Lung linh, hư
ảo, lời khó nên. “Cõi tưởng” dường đã đưa anh theo bóng Phật tới Niết Bàn:
Tiếng
chim qua đỉnh đầu
Vào
cơ thể anh lúc đang tịnh độ
Xua
đi cho lòng yên lặng
Sao
về được tâm không
Tiếng
chim âm u
Lập
loè sáng từng phần cơ thể
Ngỡ
bay cùng đàn chim
Ngực căng
tức tiếng hót
Nhưng mà, đâu dễ dứt được duyên
đời:
Em ở đâu
Trần thế chưa khi nào hết níu kéo. Nhưng “cõi tưởng” luôn dộng vào
lòng những nuối tiếc như thể những con cá tuyệt mỹ cứ bơi vuột qua tay:
Boong...
Giữa trời
một bông hoa cúc
(Hình tượng hoa cúc cho ta thấy
một cõi tâm linh thanh sạch, một lòng thành kính xa xăm không khi nào dứt trong
con người tác giả)
Nên đời mới từng ấy những thở than không thốt ra được:
Nán
lại bên khe cửa hẹp
Nhìn gợn
sóng lấp lánh trên dòng sông chảy xiết.
Trong “Nhịp II”, hình như tác giả đã có cái ý muốn “giơ tay che
mặt trời”:
Lặng
lẽ một mình đan ngón tay
Không
cho ánh sáng đi qua
Không
cho gió đi qua
Ở đây
không nắng và gió
Càng
khủng khiếp nép vào tĩnh lặng
Nhưng rồi càng nghĩ về Trời mới thấy con người thật là bất lực:
Anh
thành hạt đậu, mũi kim
Chiếc
đũa lẻ loi
Trên
kia có thể trời vẫn cao
Mây trôi
nhanh và nắng
Và cõi về, lại:
Gọi tên
em, anh khẽ gọi
Cõi đời thật ra cũng chỉ là một “cõi tưởng”, vì thế mới có “dòng ý
thức” lên đến đỉnh với James Joyce của Ulysses.
Và đây là “dòng ý thức Mai Văn Phấn” được biến thành hành động:
Chiếc
bút trên bàn. Khi dọn dẹp vẫn muốn để lại. Cầm bút thư giãn, vừa lạ vừa
quen. Quản bút nhẵn ngón tay cầm. Đôi khi tháo ruột bút xem (phải
tháo trộm vì hành vi quái đản). Mở nắp bút như bật cánh cửa, cậy nắp hầm tối...
Cảm giác chợt thức, chợt mở mắt. Muốn tháo nắp bút một nơi. Nắp bút để trên,
thân bút bên phải hay ở dưới. Cả ngược lại.
Mở…
Lắp...
Lắp...
mở...
Lắp
lại…
Cây bút
ngay ngắn bình yên
Ta có thể thấy cái tâm bất an,
của chung kiếp người chứ chẳng riêng gì ai.
Và, vẫn có đám cỏ kia, không phải như Trời, mà như Đất, như Mẹ:
Muốn
dừng lại bên đường
Nằm lên
cỏ
Đến “Nhịp III”, ta gặp lại “sơn dương”:
Ngực
sơn dương mở lớn
Sau lưng
hừng đông
Vị sứ giả của Trời nhắc ta về với mặt đất, nơi có công việc thường ngày nhàm chán, đầu óc đâu
đâu, các khớp xương rã rời… Cuộc sống thật ra là một cuộc chết. May mà:
Mới
nghe nửa câu điện thoại
Đã
biết anh lạc đâu đâu
Tiếng
nước từ đỉnh thác êm
Em đang
nối hai đầu thế giới
Nhờ có vị sỹ quan liên lạc “Em” ấy mà “cõi tưởng” mới sống nổi
trong “cõi thực” thô lậu. Để được nhớ về
Tấm
ảnh chụp bìa rừng
Trên thảm
cỏ
và để
Con
chào mào em
Khoét
rỗng môi anh
Và vỗ
cánh
Ngậm anh
đi gieo hạt
trong khi “cõi thực” vẫn trôi lềnh phềnh:
Cặp
sách, tờ báo, chùm chìa khóa, điện thoại di động...
Nối
vào nhau những toa tàu
Chạy
đều
Phanh
gấp.
Sang “Nhịp IV”, các cõi vẫn cứ hồn nhiên tương hành:
Mọi
vật trôi như nó vẫn trôi.
Chỉ khi
có tiếng em, hồi còi kia lại tiếp tục trôi nhanh, dù con tàu đã rất xa.
Tại đây, có câu thơ mà Mai Văn Phấn đã lấy làm đề từ cho cả trường
ca này:
Bên
nhau lặng im nghe bông sen trắng
đang
nhói sáng
vươn
trong huệ tưởng.
Một cõi “thiền”: có im lặng của
tịnh độ, có ánh sen của Phật tuệ tỏa sáng, có ân sủng của các đấng bề trên, có
sự sống vô thường, có cái “tôi” đang tịnh tiến giữa trùng trùng cảnh giới…
Đến “Nhịp V”, “cõi tưởng” lại mơ những giấc mơ trên cỏ. Nào là mơ
huyễn:
Mơ
giăng cỏ muợt
Vồng
ngực săn chắc
Hơi
thở nồng nã đất đai
Chạm
nhau nghe đất đi xa
Con
đường ngủ yên cây lá
Đang
thức giấc che chở
Ghì níu
gót chân
Cho tới mơ hoang:
Môi
sương ngậm vạt cỏ đầm
Vụt
bay theo vách cao dựng đứng
Bẻ
gãy, bện em thành dây chão
Nuốt
sâu chiếc lưỡi xuống ngực
Tới
sống lưng
Chạm gót
chân anh
Người mà có “cõi mơ” đến cỡ ấy
thì ắt thấy “cõi thực” chẳng còn chút ý nghĩa, ắt có lúc muốn bỏ quách cả hình
hài.
Tới “Nhịp VI”, những cơn mơ hoang như có sinh thực khí, nên đã kết
tinh những sinh linh, trên cỏ:
Giữa em là anh
một con hoẵng vừa sinh trên cỏ ướt
một
bát nước ngùn ngụt bốc hơi
một thế
giới đang vội vàng hoàn hảo
Còn cỏ, còn những sinh linh, tác giả còn còn cảm thấy sự sống:
phủ
che lá cỏ
gió biển
ngái mùi lòng mẹ
cuống
nhau mút từng cọng ngọt
ngạt
thở chìm sâu
bến
bờ vội níu chân em
anh ngây
ngô biết mình đã sống
Vào “Nhịp VII”, cùng với câu mật chú “Ngày đến rồi”, đây có thể là nơi trình diễn những cách tân về hình
thức đến cực đỉnh:
Phân
thân màn múa
Anh
Anh và Anh...
Nhìn
Em ném xuống chiếc mũ
... cỏ độc ngoi miền thánh thiện
... miệt thị chốn sinh thành
... nhiễu sóng dự cảm thấu thị
Anh
Anh và Anh...
Em
im lặng hồn nhiên phán xét
... len tua tủa mũi dao sắc nhọn
... trì nặng bay về chậm chạp
... biết sẽ tới em
Còn
nữa...
...
đừng rọi thêm ánh sáng
(có ai từ cánh gà đi nhặt chiếc mũ)
Đây là một màn trình diễn ấn tượng. Còn sau đây là một màn trình
diễn khác:
-
Hãy nhìn xuyên đêm!
-
............
-
Thấy gì không?
-
............
-
Chiếc váy cuối hạ
-
............
-
Lay động thân cành
-
............
-
Cánh tay em cân đối cảnh vật
-
............
-
Mở rào gai góc
-
............
-
Không thấy ngôi sao
-
............
-
Run mơ hồ
-
............
-
Ủ nắm cát trên ngực!
-
............
-
Pha lê ánh sáng
-
............
-
Bóng đen lò luyện khổng lồ
- Thi
nhau vốc cát ném vào đêm tối
“Con ma tâm linh” trong Mai Văn
Phấn hơi bị tinh nghịch, tuy kiệm lời nhưng trong suốt tuyển tập thơ này nó rất
hay chơi trò ném cát. Xét về việc mà dân gian hay gọi là “vong ám” thì có thể
suy rằng thi sỹ đã bị một con ma trẻ con nghịch ngợm quái quỷ ám từ rất lâu
rồi, nay như hòa hợp làm một với chính chủ. Nếu là người thường, thì ắt người
ta phải mời các thầy pháp cao tay về đuổi vong, mới mong sống được bình yên;
nhưng, là thi sỹ…
Tới “Nhịp VIII” lại là những cơn mơ:
Đêm
qua lại mơ em kéo như lướt ván
Bàn chân
thuôn dài mặt nước
Những giấc mơ bay:
Em
nói to trong luồng gió bạt
- Có quán tính rồi anh hãy tự bay
Anh
nhào lộn giữa gió và nước
tôm
cá và mặt trời
rong
rêu và mây trắng
ký
ức và mộng tưởng
Nghiêng
sang trái
Nhắm
mắt xoay phải mấy vòng
Anh
là vận động viên kiện tướng
Hạt
giống số Một
Tiếng
vỗ tay
Thần
tượng giữa lòng khán giả
Làm
xiếc trên nước
Bình
tĩnh nhớ lại
Mọi khán
giả đều khuôn mặt em
Nhân vật “Em” trong thơ Mai Văn Phấn thật là đáng nể. Nó ám quẻ
thi nhân suốt các cuộc chơi, suốt cả tập thơ. Nó cứu rỗi anh trong mọi cuộc đảo
điên hỗn độn. Nó kết nối anh giữa mộng và thực, giữa “về” và “đi”, giữa “phải”
và “trái”. Nó đẩy anh lên trời, nó kéo anh về mặt đất. Trước nó, anh như chỉ là
con kiến, như anh đã “khai báo” ở “cõi mộng” nơi “Nhịp IV”:
Là
con kiến nhỏ trong thế giới em
Có
thể bị nghiền nát dưới tảng đá vỡ
Dưới
gót giày
Mũi
khoan, lưỡi cuốc
Độ
nóng que hàn
Tiếng
rít từng bánh sắt
Bị
thiêu rụi trong đám cháy rừng
Thành
tro bụi giữa tầm sét đánh
Biết
thế…
Vì
biết thế
Nên
đỉnh đồi
Hay
tận hang sâu
Anh
hoá thân thành muôn ngàn loài kiến
Kiêu hãnh
bò đi trên thân thể em
“Em” là ai mà thật vĩ
đại?
Xin đừng vội cả tin
trước những hình tượng. Sóng to thì thuyền lớn, Âm dầy thì Dương cao. Âm khổng
lồ tất cõi Dương của thi sỹ lớn như vô cùng. Con kiến ở đây là con kiến vũ trụ.
Nếu Trang Sinh có con bướm sinh sinh hóa hóa thì Mai “Sinh” có con kiến “càng”
hộ mệnh. Người mà cứ nhận mình là kiến mỗi khi “gặp biến” như thế là người quá
khôn, đạt được đức Khôn cực lớn giữa trời đất.
Ra “Nhịp IX”, ấy mới là đỉnh của những tiếng
“hú hồn”:
mặt đất lồng lộng đỉnh đầu tâm xoáy
lưỡi gió miết thân lả tả càng bám
chặt càng lay giật mạnh khản đặc hú
gào hối thúc nghiêng ngả ngậm chặt lá
khô giãy giụa càng lảm nhảm bóng đè
thập thõm con đường mải hôn càng căng
mơn mởn dìu anh miệng vực lẩm bẩm
không thể rời nhau sợ sâu toát vã
mồ hôi lộn ngược dính chặt
đơm hoa kết nụ lá rủ vỗ về
che chở cành khô đung đưa trêu ngươi
sấm sét mắt nhìn đổ trận mưa rào
dìu em êm đềm thở dốc xuống bất
chợt rung
vang nhau từng thanh chuông gió
Ý chí cách tân của thơ Mai Văn Phấn như cho ta nghe muôn vàn điệu
nhạc. Đến đây ta nghe như tiếng “punk rock”. Những dẫn giải về “punk rock”
dường như cũng có thể giải thích cho “thơ phá cách Mai Văn Phấn”:
Nhà lý luận âm nhạc John Savage
đã có lần nói rằng lịch sử được thực hiện bởi những kẻ nói "Không",
và trong năm 1976 không có tiếng "Không" nào lại có thể át được punk
rock. … Punk đã tự đặt mình vào vị thế thách thức và làm bá chủ nhạc rock. Nói
chung khoảng 30 siêu sao pop sẵn lòng tái hư cấu và "mửa" ra những
thứ trên cùng một kiểu rập khuôn phong cách như nhau…
Thuở ban đầu, punk hung hăng đứng
đối lập hẳn với ý thức hệ thời đại. … Tiền khởi của punk bao gồm từ âm hưởng
huyên náo nguyên thuỷ của ban Velvet Underground, âm thanh tần suất lớn với
phong cách giận dữ của “giai cấp lao động” của The Who, kiểu guitar cường độ
lớn của MC5 và the Stooges, phong cách lưỡng tính của New York Dolls (ảnh hưởng
từ David Bowie và Roxy Music). Dĩ nhiên khi punk phát triển, nó tự chuyển biến hình
thành vô số nhánh rẽ thống trị, gây ảnh hưởng và lai tạp với các thể loại
reggae, bubblegum giữa 60, tiền ảo giác, art-rock, jazz tự do và các dòng âm
nhạc cụ thể. Theo nghĩa đen mọi thứ đều thích hợp để cân bằng: đó mới chỉ bề
nổi của vấn đề.
Trong thời kỳ thuần chất nhất của
xúc cảm punk, từ 1975 - 1978, là khoảng thời gian có thể coi là thời khắc phong
phú nhất. Dù cho thời gian thống trị ngắn ngủi như sao băng, nhưng phong cách
punk vẫn duy trì cho những ban nhóm dưới cái tên bớt phiền toái hơn: new wave.
Vẫn lưu giữ tác động của nó trong thập niên 90, Punk độc lập hồi sinh và bước
đầu được hiện diện chính thức trên nhãn hiệu đĩa thu /được hợp pháp hóa cho
giới báo chí bí mật / được coi là một phong cách mới cho các nhà phê bình âm
nhạc. Quan trọng hơn, nó giúp các nhạc sỹ trẻ tin rằng họ có thể trở thành một
phần của thế giới rock'n'roll, bằng cách vun đắp cho sự phát triển trong tương
lai cho thành công của trào lưu alternative của Anh lẫn Mỹ (tại L.A,
Minneapolis, Seatles, Athen, Machester). Khó có thể tưởng tượng được rằng các
nhóm alternative (Replacements, Nirnava, thậm chí cả R.E.M) lại tồn tại mà
không có sự đóng góp của các nhóm punk: Pistols, Clash, Ramones và the
Buzzcocks.
Với alternative và heavy metal hiện thời (hai nhánh chính của
punk), punk dường như vẫn là niềm vui không trở ngại, luôn hồi tỉnh niềm cảm
hứng vô tận của sự tự biểu hiện. Nếu hôm nay, bạn có nghe một vài đĩa tiêu biểu
của nó, thì bạn sẽ sớm nhận thấy rằng punk dường như chưa bao giờ đi quá xa ý
thức hệ pop, và tầm ảnh hưởng của punk thậm chí còn lớn hơn rất nhiều so những
người khai lập ra nó.[9]
Kết thúc bản trường ca, ta lại nghe bước chân “sơn dương”, sứ giả
của Trời, và “cỏ Mai Văn Phấn” lên trùng trùng điệp điệp như chưa bao giờ đẹp
như thế:
Bầu
trời vỡ tiếng gọi đàn khoái cảm đêm đen
Bước
bước sơn dương
Mặt
cỏ phun nhuệ khí trùm lấp
Phấn
khích giờ tạo thiên lập địa
Mùa
mới đợi chờ cỏ xanh cắt sát gốc
Những
móng vuốt tì chân cỏ bật căng
Cỏ
non kinh động
Càng chồi
lên mở lại những chân trời.
Quả là chuỗi chuỗi những “mộng trung hữu mộng”. Cá thể (người
viết/đọc) hòa lẫn với nhân quần, thiên lý xoắn xuýt với nhân luân. Thật là:
Khi nhớ,
nhớ cùng trong mộng tưởng
Nỗi
riêng, riêng cả đến tình chung[10]
Kết cục là gì?
Tất cả những cỏ-cây-hoa-lá-quả ấy đều có trong “Vườn em” ở trang 314:
Sau
cơn mưa dáng cây thon nhỏ
Mướt
xanh hai mặt lá
Bàn
tay lá ấy luôn mềm
Tiếng
chim Bách Thanh tung lưới
Thít
chặt anh cùng bòng bưởi, rễ si
Hoa
cẩm quỳ, oải hương, phong lữ…
Dịu
dàng thêm khăn áo mùa thu
Mắt
em lóng lánh khắp nơi khép lại
Anh
bước lên vạt nắng
Một
con thuyền ban mai
Em bảo
hãy chờ để khoá chặt cổng.
Cửa đã khóa. Con ma tâm linh đã
bị “Em” nhốt.
Nhưng…
Tại sao lại là “cỏ”?
“Cỏ” từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du,
qua Walt Whitman mà đến Mai Văn Phấn…
Xin hãy đến nghe lời một bậc hiền minh, Osho, để nghe cái LÝ DO
CỦA “CỎ”, để mà liên kết họ với nhau, trong “vòng tay cỏ”:
Cỏ dại là thiêng liêng. Đừng gọi chúng
là cỏ dại. Chúng cũng tâm linh như chư phật. Chúng cùng chia sẻ Thượng đế nhiều như
hoa hồng. Bỏ con người khỏi trái đất - sẽ có khác biệt gì giữa cỏ dại và hoa
hồng không? Tất cả những phân biệt này đều do tâm trí tạo ra.
Bạn không thực sự ngồi im lặng
đâu; bằng không, ai đang nói với bạn cỏ dại đang mọc? Tâm trí bạn vẫn vận
hành, thì thào mọi thứ cho bạn. Nó là tâm trí của bạn đấy! Nếu bạn thực sự im
lặng thì không có tâm trí đâu - thế thì dù cỏ dại mọc hay hoa hồng mọc tất cả
đều như nhau với bạn. Khác biệt gì có đó? Bạn không thể tận hưởng được cỏ dại
sao? Chúng là người đẹp đấy! Nhìn cỏ dại lay động, nhảy múa trong gió, trong
ánh mặt trời.... Bạn nghĩ cái gì thiếu trong chúng mà hoa hồng có? Chẳng cái gì
thiếu cả. Đây chỉ là ý tưởng, và ý tưởng thay đổi. Có thể một ngày nào đó
hoa hồng có thể hết thời thượng, cỏ dại có thể trở thành một thứ "vào
trong nhà."
Một trăm năm trước không ai đã
bao giờ nghĩ rằng xương rồng sẽ được mọi người yêu thích, nhưng bây giờ xương
rồng "vào trong" và hoa hồng "ra ngoài." Nói về hoa hồng có
vẻ nệ cổ, có vẻ chính thống, theo tục lệ; nói về xương rồng là tiên tiến,
nó chứng tỏ rằng bạn là hiện đại, đương đại. Mọi người đang để xương rồng trong
phòng ngủ - xương rồng nguy hiểm, xương rồng đầu độc, nó có thể giết chết
bạn! Nhưng chúng đã thành thời thượng, và một khi cái gì đó đi vào thời thượng
thì có nhiều kẻ ngu bắt đầu tán thưởng nó.
Mọi người đơn giản cứ chạy theo
bất kì cái gì được làm thành thời thượng bởi vài người láu cá và tinh ranh. Mới
một trăm năm trước không ai thích tranh của Picasso, còn bây giờ Picasso là
nghệ sĩ vĩ đại nhất - không chỉ của thế kỉ này mà của toàn thể lịch sử. Điều gì
đã xảy ra? Chỉ kiểu mốt đã thay đổi. Mọi người phát mệt về thứ này; họ cứ
chuyển sang cực đoan đối lập.
Không có gì sai trong cỏ dại cả!
Không có gì sai trong bất kì cái gì. Ý tưởng về đúng và sai nghĩa là tâm trí có
đó. Bạn không ngồi im lặng đâu và bạn không ngồi mà không làm gì. Bạn
đang khu biệt, và đó là hành động. Bạn đang dán nhãn, và đó là suy nghĩ. Và bạn
đang phán xét.
Vứt mọi phán xét đi, mọi việc dán
nhãn, mọi khu biệt... và chỉ quan sát cỏ dại mọc. Vậy thì sao - cứ để chúng
mọc! Khi bạn không có tâm trí chút nào, bạn cũng là cỏ dại; cho nên cỏ dại mọc
khắp quanh bạn, đó không phải là cái gì đó kì lạ - cỏ dại bao quanh cỏ dại! Tận
hưởng đi!
Có lần một Thiền sư được vua yêu
cầu - vì thầy là hoạ sĩ lớn - vẽ bức tranh trúc.
Thầy nói, "Sẽ mất thời gian
đấy."
"Bao lâu?" vua hỏi.
Thầy nói, "Khó nói được,
nhưng ít nhất cũng phải hai hay ba năm."
Vua nói, "Ông có điên hay
cái gì không? Ông là hoạ sĩ lớn nhất. Ta nghĩ ông có thể vẽ
nó ngay bây giờ!"
Thầy nói, "Chả
thành vấn đề, vẽ trúc không phải là vấn đề - nhưng trước hết ta phải là trúc
đã; bằng không làm sao ta biết trúc là gì? Ta muốn biết trúc từ bên trong! Cho
nên ta sẽ phải đi và sống trong rừng trúc. Bây giờ, người ta chưa bao giờ biết
điều đó sẽ mất bao lâu. Chừng nào ta chưa biết trúc từ bên trong ta không thể
vẽ nó được. Đó đã từng là thực hành cả đời ta: ta vẽ chỉ cái ta đã biết cốt lõi
sâu nhất của nó."
Vua nói, "Thôi
được, ta sẽ đợi."
Một năm trôi qua. Ông ấy
phái vài người tới xem điều gì xảy ra, liệu người này còn sống hay chết rồi. Họ
quay về và nói, "Người này vẫn sống, nhưng chúng tôi nghĩ rằng người này
không còn là người nữa - người này là trúc rồi! Người này lay động cùng trúc
trong gió. Chúng tôi đi qua bên cạnh ông ấy; ông ấy chẳng chú ý gì. Chúng tôi
nói, 'Xin chào!' Người này không nghe. Chúng tôi muốn nói với người này. Chúng
tôi đã nhìn vào mắt ông ta - chúng trống rỗng tới mức chúng tôi trở nên hoảng
sợ; hoặc là người này đã điên hay cái gì đó đã xảy ra. Và người này có thể làm
bất kì cái gì, cho nên chúng tôi trốn mất. Người này có thể giết hay, ai mà
biết được? - người này có thể nhảy lên chúng tôi! Người này không còn là cùng
người trước nữa."
Đích thân nhà vua tới
xem, và thầy đang lay động trong gió, trong mặt trời. Và vua hỏi, "Thưa
ngài, bức tranh của tôi thì sao?" Thầy không trả lời.
Sau ba năm thầy xuất
hiện ở triều đình và thầy nói, "Bây giờ đem vải vẽ và thuốc mầu lại
đây, ta đã sẵn sàng. Và tại sao bệ hạ là người quấy rối ta lặp đi lặp lại thế?
Nếu bệ hạ mà không quấy rối ta, ta chắc đã tới sớm hơn chút ít rồi. Những kẻ
ngu này từ triều đình bệ hạ, họ nói mọi thứ với ta. Họ nói, 'Xin chào!' Bệ hạ
có nói chào với trúc không? Họ làm rối loạn toàn thể sự việc. Phải mất nhiều
tháng ta mới thu lại được lắng đọng trong việc là trúc và quên rằng ta là
người. Và thế rồi bệ hạ tới và bệ hạ nói, 'Thưa ngài.' Đó có phải là cách nói
với cây trúc không? 'Khi nào ngài sẽ vẽ?' Có ai đã bao giờ nghe thấy
trúc vẽ không? Bệ hạ là kẻ ngu, bệ hạ bị bao quanh toàn kẻ ngu! Ta đã bảo bệ hạ
rằng ta sẽ tới bất kì khi nào ta sẵn sàng."
Vải vẽ được đưa tới,
chổi vẽ và mầu, và trong vài giây thầy đã vẽ xong trúc. Và người ta nói
rằng nhà vua khóc vì vui sướng. Ông ấy chưa bao giờ thấy bức tranh như
vậy: nó sống động thế! Nó không phải là bức tranh thường. Nó không là từ
bên ngoài, nó là từ chính trúc - cứ dường như trúc đã mọc ra trên vải vẽ, không
được vẽ ra.
Nếu cỏ dại mọc, để chúng mọc. Chúng có quyền
mọc nhiều như bạn có quyền trưởng thành. Và nếu bạn cho phép mọi thứ mà không
có phán xét, nếu bạn vô phán xét, bạn sẽ trưởng thành tới cực đỉnh của vui vẻ
và phúc lành mà bạn không thể nào hình dung ra được ngay bây giờ..."[11]
Phải chăng đó chính là
cội rễ của cõi tâm linh Mai Văn Phấn. Và, nó đã được trình bầy ra thành “thơ
nhại cổ” cho đến “thơ jazz”, “thơ alternative”, “thơ punk”. Cho “cỏ” được nở
hoa khoe muôn sắc với đời.
Đường nào chẳng là
đường, quan trọng là có đến được Roma hay không.
Hà
Nội 6/5/2011
Đ.T
(Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn, khác biệt và thành
công - Kỷ yếu hội thảo thơ tại Hải Phòng, 15/ 5/
2011, NXB Hội Nhà văn, 2011).
______________
Chú thích:
[1] Nguyễn Du, Truyện Kiều.
[2] Nguyễn Trãi, “Trại đầu xuân độ” (Bến đò
xuân đầu trại).
[3] Walt Whitman, Những lá
cỏ.
[4] Nt.
[5] Nt.
[6] Nt.
[7] Nguồn: http://vietbao.vn/Van-hoa
[8] Câu thơ Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng nữ sỹ
Ngân Giang.
[10] Trần Tế Xương, “Nhớ bạn phương trời”.