Thơ Mai Văn Phấn trong dòng thơ cần giải thích giá trị (phê bình) - Đỗ Quyên
Thơ Mai Văn Phấn trong dòng thơ cần giải
thích giá trị
Nhà thơ Đỗ Quyên
Đỗ Quyên
“Mỗi tác giả, tác phẩm là một chữ, một câu
trong bài-thơ-chung của nghệ thuật thi ca”
(Đ.Q)
Mục lục
I. Tóm tắt quan
niệm dòng-thơ-cần-giải-thích-giá-trị
II. Điểm lại một số bài
phê bình, nhận định
III. Những dấu ấn nghệ
thuật
1. Mai Văn Phấn cách tân
nương theo mọi nẻo đường
2. Thơ hậu hiện đại của
Mai Văn Phấn với phương pháp phê bình
3. Những cảm nhận rời
IV. Các vấn đề riêng
trong thơ Mai Văn Phấn
1. Những bài thơ tiêu
biểu
2. Thơ Mai Văn Phấn với
“những câu thơ hay”
3. Nội dung, tư tưởng
4. Vấn đề thi pháp và
thơ Mai Văn Phấn
5. Vấn đề thể loại
6. Tứ thơ
7. Ngôn ngữ, hình tượng
thơ
8. Nói riêng về ba tập
thơ mới nhất
9. Thơ Mai Văn Phấn
trong vấn đề trường ca
V. Tạm kết
Phụ lục
Chú thích
* * *
“Những sáng tạo của Mai
Văn Phấn đã đặt ông vào vị trí những nhà
thơ hàng đầu của nền thơ đương đại
Việt Nam.” Đồng ý không do dự với đánh giá
của Ban biên tập Vietimes.com.vn 13/09/2009, vui mừng trong sự chờ
đợi hội thảo này, chúng tôi xin được tham luận về một tác giả nằm trong dòng
thơ cần giải thích giá trị - điều mà chúng tôi
quan tâm lâu nay.
Lời “thú nhận” đầu tiên:
Nếu chưa có Hội thảo, chúng tôi chưa đủ tự tin để nhận định thơ Mai Văn Phấn.
I. Tóm tắt quan niệm dòng-thơ-cần-giải-thích-giá-trị:
Chúng tôi cho rằng, luôn
chảy trong tâm trí chúng ta
một dòng-thơ-cần-giải-thích-giá-trị, như lần đầu tiên đã nêu trong bài
đăng trên Tạp chí Nhà văn số 2/2009 về tác giả Tuyết Nga[i].
Không lệ thuộc hay-dở,
mới-cũ, hiện đại-truyền thống,
cách tân-cổ điển… Có những tác giả của dòng thơ này không tạo động, cứ lặng
lẽ trôi với chân giá trị riêng. Trên văn đàn cũng như giữa công chúng, đó
không hẳn là các sáng tác “có vấn đề”. Nhưng
với quan niệm mỹ học và nghề nghiệp, đó là những sáng tạo gây ám ảnh và âm ỉ -
một trong các nhận dạng của thơ. Văn minh và văn hóa càng phức hợp, trong văn
học, nhất là ở thơ, sự hiểu và cảm ngày càng bị vượt quá, nếu
chỉ đọc bằng hai con mắt hiểu và cảm. Con-mắt-thứ-ba khi đọc thơ là gì? Chắc
là không có lời đáp; hoặc không chỉ có một lời đáp, nếu không muốn hỏi “Liệu cái
đang đọc có phải là thơ không?”
Vì sao có loại thơ cần
giải thích giá trị, ngoài các phê bình, nhận định thông thường?
Thi ca cũng như con
người. Có những thơ chỉ đọc một đôi lần là biết cảm nhận được hay không. Đó là
loại thơ-đọc-một-lần. Ngược lại, có loại thơ-đọc-đi-đọc-lại. Ví
như thơ của Nguyễn Du, Bùi Giáng, Nguyễn Bính, Hoàng Cầm, Nguyễn Đình Thi, Xuân
Diệu, Thanh Tâm Tuyền, Tố Hữu, Nguyên Sa, Thâm Tâm, Tế Hanh, Du Tử Lê, Nguyễn
Khoa Điềm, Viên Linh, Phùng Cung, Vũ Quần Phương, Hoàng Hưng, Nhã Ca, Thi
Hoàng, Ý Nhi, Chân Phương, Nguyễn Đạt, Phạm Đình Ân, Hoàng Vũ Thuật, Thường
Quán, v.v… (Trong số này có nhiều tác giả rõ không phải là “tác giả khó”, thậm
chí còn là “đại chúng”.)
Mai Văn Phấn cũng là một
tác giả có thơ-đọc-đi-đọc-lại!
Còn kiểu phân loại nữa,
quen thuộc, nhưng ít ai muốn định danh dóng diết, rằng có thứ thơ-cho-người
đọc, và có thứ thơ-cho-người-viết. Về đối tượng, vô hình trung, có ba
loại: Sáng tác dành cho người đọc nói chung; Sáng tác dành cho không chỉ người
đọc mà cả người viết; và Sáng tác dành cho người viết nói chung, nhất là người
phê bình. Thơ ở loại thứ ba nên gọi là thơ-cho-các-nhà-thơ, và thơ-cho-các-nhà-phê-bình.
Đó là thứ thơ mang tính sống còn của nghề nghiệp: đặc trưng thể loại, phương
pháp sáng tác, hình thức ngôn ngữ và thẩm mỹ nhận thức - cả bốn tiêu chí đều ở
đỉnh: hoặc là lao xuống tiêu tùng, hoặc là bay lên thăng hoa. Đặng Đình Hưng
(thể loại và thẩm mỹ), Dương Tường (ngôn ngữ và hình thức), và nhiều thơ của
Trần Dần (thi pháp), Lê Đạt (ngôn ngữ) ở thời kỳ sau, một số sáng tác của Nhóm Mở
miệng (thẩm mỹ) và rất nhiều sản phẩm của trào lưu hậu hiện đại là thuộc
loại này. Lặp lại cách nói của Margaret Atwood: Có một số tác giả thơ phải đợi tới
lúc người đọc sẵn sàng với họ; và trong việc đọc có thể xảy ra may rủi.
Ở thơ loại thứ hai, để
làm người đọc, có thể cảm được. Nhưng để tri nhận nó, cần mang tâm thế như kẻ
sáng tạo. Trong ba loại, loại này chiếm số lượng cao nhất các bài thơ hay. Đó
là thơ của tất cả, vì tất cả. Thơ Mai Văn Phấn thuộc về loại này.
II. Điểm lại một số bài
phê bình, nhận định:
Trong chừng 15 bài phê
bình, nhận định (không kể phỏng vấn) về thơ Mai Văn Phấn, chúng tôi muốn chia
sẻ hoặc bàn lại với bài của Dương Kiều Minh, Inrasara, Đặng Thân, Nguyễn Việt
Chiến, Lê Vũ, Nguyễn Hoàng Đức. (Mời xem phần Phụ lục với một số trích
lược)
Hầu như chưa thấy các
bài phê bình học thuật? Chính thế, khi được biết các nhà phê bình kinh viện
chiếm tỷ lệ 8/17 trên tổng số tham luận viên, chúng tôi vững tin: Thơ Mai Văn
Phấn đang có cơ để định giá, luận bàn một cách toàn diện, chính quy và khoa học
tương xứng với ý nghĩa của mình!
III. Những dấu ấn
nghệ thuật:
III.1. Mai Văn Phấn cách
tân nương theo mọi nẻo đường:
Nhìn nhanh các thời kỳ,
dễ thấy tác giả đi vào đường lối cách tân rất tự nhiên và thoải mái. Từ năm
1999 (với trường ca Người cùng thời) đến 2003 (tập Vách nước),
thúc bách thay đổi thi pháp truyền thống của anh đã may mắn được cộng hưởng với
môi trường chính trị, văn hóa và văn học Việt Nam và quốc tế. Thế hệ Mai Văn
Phấn và kế tiếp có thiên thời - địa lợi. Chỉ còn ở tài năng cá nhân mà thôi.
Những dịp vinh danh các
nhà cách tân mới, âu cũng nên tái giải thích giá trị các cách tân gia tiền bối…
Cách tân văn nghệ phải từ yêu cầu của cả xã hội. Cách tân thơ còn cần sự đồng
hành của cải cách ngôn ngữ và được các điều kiện văn hóa chấp nhận. Văn chương
là của chung thiên hạ. Không bao giờ và không ở đâu, chữ nghĩa được là ý muốn
của một cộng đồng cách biệt, hay một nhóm văn sĩ riêng lẻ. Các trào lưu văn
nghệ luôn thoát thai từ những biến động văn minh, văn hóa.
Thơ Việt đã có một số
minh họa: Đó là sự hình thành và phát triển rực rỡ của cuộc cách mạng Thơ
mới 1932-1945; Đó sự ra đời của dòng thơ tự do từ đầu thời kháng Pháp 1945
với những tên tuổi cách tân đầu tiên so với thơ tiền chiến (dù ít ỏi về số
lượng và chất lượng) và sau đó đã trở thành biểu tượng - Trần Mai Ninh, Hữu
Loan, Nguyễn Đình Thi - rồi chuyển tiếp sang 1954 bằng Nhóm Sáng tạo với
Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa qua các thành tựu ổn cố; Đó là dòng thơ Tân hình
thức Việt với lý thuyết và thực hành gây tác động ít nhiều đáng kể từ ngoài
nước tới trong nước ở thập niên qua… Và lịch sử sáng tạo thi ca Việt Nam từng
có một trang kỳ dị với một loạt các nhà cách tân là hệ quả của một tư trào văn
nghệ: đó là Trần Dần, là Lê Đạt, là Đặng Đình Hưng, là Hoàng Cầm. Dù chịu ảnh
hưởng hay không, có thể nói hầu hết các tác giả thơ ở mọi phong cách cùng thời
hay sau đó, cũng đã nhìn ra ý nghĩa nghệ thuật của vấn đề. Chúng tôi cho rằng
cả hai nhân vật chính của cuộc hội ngộ hôm nay - Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn -
cũng nằm trong số đó!
Có chữ “kỳ dị” ở trên là
bởi cuộc cải cách và hiện đại hóa văn chương ở miền Bắc từ sau 1954 là không tự
nhiên với biến cố Nhân văn - Giai phẩm, đúng như Đỗ Lai Thúy mới rồi nói
về xuất xứ cách tân ở Lê Đạt: “…do các ông cách li với xã hội, rơi vào sự cô
đơn, dồn tới một là cách mạng (trong thơ) hai là chết.” Có lẽ sinh ra trong
cưỡng bức, không ít sáng tạo ngôn ngữ của Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng đã
là các thí nghiệm bất tử. Và có thể mãi là các thí nghiệm văn học, ở mức văn
bản, chưa thành phẩm ngay cả với phê bình học thuật. Chúng tôi cảm tưởng, chỉ
Hoàng Cầm tìm được điểm dừng. Đến như Thanh Tâm Tuyền, lĩnh hội đầy đủ các điều
kiện thiên thời -địa lợi - nhân tài như thế, cũng chỉ có được dòng thơ tự do
“hũ nút” của mình trôi trong các năm 1956-64 và trên không quá một phong cách;
ngưng viết hàng chục năm và khi viết lại đã trở về truyền thống với phong thái
riêng. Cho tới nay, có thể hiểu rằng, công lao “tột đỉnh” ở các sáng tạo của
Trần Dần, Đặng Đình Hưng và Dương Tường không chỉ là cách-tân-được-gì, mà còn
là không- thể-cách-tân-được-gì; Tức là đã phác họa ra một số giới hạn
trên trong hành trình biến đổi thi ca Việt.
Đọc Mai Văn Phấn gần 15
năm, nhưng chỉ hơn ba năm nay, chúng tôi mới tin mình đúng khi đặt thi sĩ ở ngoài danh sách các tác giả song hành giữa
nghệ thuật truyền thống và nghệ thuật hiện đại. Nhiều, rất nhiều nhà thơ Việt
Nam đã rạng rỡ ở phong cách song hành, và chỉ ở phong cách này: Hồ Dzếnh và
Đồng Đức Bốn; Hữu Thỉnh và Trần Mộng Tú; Tô Thùy Yên và Lê Đạt; Nguyễn Trọng
Tạo và Phạm Phú Hải; Nguyễn Duy và Nguyễn Bình Phương; Bích Khê và Tam Lệ… Chỉ
bằng tâm thức muốn xô lề phá lối, là gượng như Phạm Tiến Duật đã từng trong ít năm,
là bấp bênh như Dư Thị Hoàn trong ba, bốn năm trước, là “sát thi” như Đỗ Trung
Quân đang làm. Là hao phí chất lãng mạn trí thức mà hiện thực, da diết mà nhị
nguyên hiếm có, như Bằng Việt gần đây. Với Việt Phương, kẻ hậu sinh cứ tiếc: sự
trở về truyền thống nguyên sơ trong thực tiễn thô ráp đã không nên chuyện ở một
người từng đạp tung cửa đi tìm và đã đến hiện đại. Phạm Đình Ân có nguồn thơ
dân tộc sinh ra đã thành hiện tại, nên tiến thoái chầm chậm. Cũng nên khu biệt
những cách nhìn khác: Truyền thống mà không hoặc ít Hiện đại, ngay với những
tác giả đã kinh điển hay rất mới; ví như Đoàn Văn Cừ và Trương Nam Hương, Phạm
Thiên Thư và Thanh Nam, Huy Thông và Hà Thượng
Nhân… Hiện đại mà ít
Truyền thống, như Nguyễn Vỹ và Như Huy, Lê Thị Thấm Vân và Nguyễn Hoàng Tranh…
Thế mới biết, đến cùng, nghệ thuật là sự chao lệch giữa hai bàn cân Truyền
thống - Hiện đại. Mọi khuynh hướng và thi cảm, mọi hình thức và nội dung, chỉ
là những quả cân lớn bé, những xô lệch của bàn tay nhân sinh hay của mặt bàn
thời thế!
Thơ Mai Văn Phấn mang
tải những-thi-pháp ẩn hiện trong khi cách tân. Nghệ thuật biểu đạt không hẳn
nhiều tượng trưng ít siêu thực, nhưng quyết không là hiện thực hay lãng mạn đơn
tuyến. “[Tập thơ] Hôm sau là hiện thực giả định trong khi Và đột
nhiên gió thổi là hiện thực tâm tưởng” (Dương Kiều Minh). Tân cổ điển? Cũng
là cách gọi cho rất nhiều tác giả khác mà các khái niệm của lý thuyết thơ Việt
chưa theo kịp: Phùng Khắc Bắc, Thi Hoàng, Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn Thị Ánh
Huỳnh... Nhưng Trần Nhuận Minh và Tuyết Nga; Nguyễn Bình Phương và Lê Văn Ngăn,
thì hẳn là tân cổ điển rồi. Ở Mai Văn Phấn, lượng trí huệ của thi ca, tức cái
trực giác của thi sĩ, đã dấu hiện thực và lãng mạn nằm nghỉ nơi tầng dưới của
ngôn ngữ. (Xem tiếp mục IV.4. Vấn đề thi pháp…)
Trừ một ít bài hơi
“quậy” trong tập Hôm sau (như Bài học, Chỉ là giấc mơ, Hội
chứng từ một tin đồn…), khi phá cách Mai Văn Phấn thường cố công vừa phá
vừa lập, ngay tại chỗ. Và người đọc không kịp nhận ra. Ở các lần đọc sau
cũng thế, nếu không đổi cách đọc. Bút thuật vừa phá vừa lập này, chúng
tôi lờ mờ thấy rằng, ai biến hóa được thì sẽ thành thi hào, như Nguyễn Du và Hồ
Xuân Hương. Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát: thi bá; bởi nhị vị tiên sinh phá dữ
dội và mê mải quá, nhiều khi để lại những hoang vu trong lòng người đọc. Hoàng
Hưng thành quả, thi sĩ phá vừa phải, nhiều khi không buồn phá, cứ xây nhiều cái
mới cạnh thứ cũ đang đổ nát. Nữ sĩ Dư Thị Hoàn không chịu, người toan đòi phá
banh, “gót chân” mải “nện xuống dữ dằn”, mà không đưa tay xây cất
khiến các vệt thơ hậu hiện đại tạo nên một công trường.
Cách mạng, cải cách,
cách tân, đổi mới văn nghệ thường được xét theo cặp phạm trù nội dung và hình
thức. Ở một số tác giả “khó”, nên chăng thêm cặp phạm trù láng giềng: nội tại
và ngoại hình. Và sẽ có nhiều tập hợp: Như trước, trong nội dung có hình thức.
Nay, trong nội tại có cả nội dung và hình thức; trong nội dung có cả nội tại và
ngoại hình… Đọc Mai Văn Phấn, chúng tôi cứ như đang loay hoay với một con xúc
xắc!
Trước khi tới từng mặt
của thi pháp, bút pháp, thủ pháp theo các sáng tác cụ thể, mong tiếp cận đặc
điểm tìm tòi ở Mai Văn Phấn, chúng ta nhìn lại một điểm son dư luận trên gương
mặt văn học đang được thị sát.
Chúng tôi chưa được đọc
một bài viết nào về thơ Mai Văn Phấn tỏ các phản ứng quyết liệt như đã và đang
từng với đa số các tác giả mở đường khác. Đây còn là một tác giả hiếm có của
văn đàn Việt hiện thời: đứng chắc trong dòng chính thống về tư cách văn nghệ
sĩ, đĩnh đạc về nhân thân, mà vẫn “tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc” theo
các trào lưu tân thời nhất. “Từ tốn, cẩn trọng với một nền tảng xúc cảm có bề
dày, bề rộng, Mai Văn Phấn vẫn giành được cảm tình của bạn đọc tại thời điểm
trong chính bản thân anh đang diễn ra một ‘cuộc cách mạng’ “. [ii] (Khánh Phương)
Chúng tôi thử đưa ra một
số lý do:
Một là, nhà thơ đã tạo
động dưới nền móng, không khiêu khích về hình thức trên gần hết các tiêu chí dễ
thấy của thơ. Ngay với một ít bài có đôi ba yếu tố dễ tạo phản cảm (như câu: “Đạo
mạo chỉnh lại con c... trong túi quần nơi hội họp” – Bài học) cũng không là
hồn vía của trường thơ này. Cái nền tảng đó là môi trường thơ, đời sống thơ, và
đạo thơ.
Hai là, sáng tạo của Mai
Văn Phấn tới gốc cả nội dung lẫn tư duy nghệ thuật, nhưng không qua các vấn nạn
thời cuộc Việt Nam (như ở Nguyễn Đức Tùng và Trần Tiến Dũng), ngôn ngữ không
đột biến (Nguyễn Quốc Chánh và Trần Quang Quý), ý thức không gấp gáp (Hoàng
Hưng và Inrasara), không khiêu khích văn hóa truyền thống (Vi Thùy Linh và Nhóm
Mở miệng), không phá tan hình thức (Dương Tường và Nguyễn Thúy Hằng),
không luận lý chay (Nguyễn Hữu Hồng Minh và Như Huy)… Các so sánh đó chỉ
để thấy độ trung dung về cách thể hiện và hiệu quả thay đổi từ thơ Mai Văn
Phấn.
Ba, đây là loại thơ tâm
linh, dễ đọc từng câu đoạn mà khó hiểu bao quát, và chắc chắn không là loại thơ
để hiểu, thậm chí cũng không để cảm. Để giác ngộ chăng? Có
lẽ nhờ thế, ai không thấy hợp, khó bề phê phán.
Bốn là các đơn vị của
thơ hầu như không thay đổi so với quan niệm quen thuộc: đa số câu thơ có ngữ
pháp bình thường; hình ảnh gần gũi; nhịp thơ dễ, nhẹ; cấu trúc bài thơ và đoạn
thơ là tuyến tính; từ vựng phổ thông, giọng điệu không gây hấn.
III.2. Thơ hậu hiện đại
của Mai Văn Phấn với phương pháp phê bình:
Lối thơ cách tân của tác
giả này đòi hỏi nhiều phương thức lý giải khác nhau. Với hai tập mới nhất, khó
đọc nhất là Hôm sau (mang đậm sắc hậu hiện đại) và Bầu trời không mái
che, nếu như được dùng phê bình giải cấu trúc (thi pháp học văn hóa)[iii] thì có lẽ sẽ hiệu quả nhất chăng?
Dưới đây, chúng ta dần dần thấy hai tập thơ có nhiều điểm lọt vào tầm ngắm của
phương pháp luận được xem là “trước cuối cùng” trong lý luận văn học thế giới
và Việt Nam. Với hai tập này, tính nội tại của thơ không còn cố định, kết cấu
nghệ thuật được buông lỏng. Tác giả luôn loay hoay vượt qua những hạn chế của văn
chương truyền thống để đi tới văn hóa phổ cập khi chú ý cảm thức và
tâm linh. Dù nhiều lúc cần “lách rào” để không lệ thuộc vào hệ thẩm mỹ cổ điển
và vươn tới “giá trị tiêu dùng”, Mai Văn Phấn không hề thách thức văn hóa dân
tộc, tập tục truyền thống, mà trái lại đã chuyển chúng sang cách đón nhận mới,
nghệ thuật và bài bản.
Tiện dịp xin biện biệt
một điều có thể là nhầm lẫn trong dư luận, về bản chất và mục đích sáng tạo của
hai hiện tượng là Nhóm Mở miệng và Vi Thùy Linh. Ở một diễn đàn khác,
chúng tôi đã có lần nói về Nhóm Mở miệng như là hiện-tượng-văn-hóa trong
văn học và thực hiện bằng thơ. Nay, bổ sung: Vi Thùy Linh là hiện-tượng-văn-hóa
có tính văn chương, có chất thơ ở cấp độ cao. Và, lối thơ cách tân của Mai Văn
Phấn mang cốt cách văn hóa. Khi đón nhận các tác giả này, nên xem diễn ngôn văn
học là các liên văn bản. Chẳng nên - mà cũng không thể - “đọc” từng bài thơ,
từng câu thơ, từng ý thơ như nhiều người đã làm với Vi Thùy Linh, nhất là với
Bùi Chát và Lý Đợi. Với Mai Văn Phấn ở hai tập thơ mới, và với không ít các tay
bút hậu hiện đại khác, loằng ngoằng nhất là Đặng Thân, vì không là
hiện-tượng-văn-hóa thì sẽ không cần cách đón nhận phi văn chương như thế. (Xem
tiếp IV.4.2.)
III.3. Những cảm nhận
rời:
III.3.1.
Giọng thơ Mai Văn Phấn,
ngay ở một số ít bài bạo nhất, cũng trung dung về thái độ mà không nhân nhượng về mỹ cảm. Hình ảnh tràn ngập vẫn không phóng
dật. Gợi cái đa diện trong vũ trụ để nhắm các nét tinh vi của đời sống.
III.3.2.
Với ba tác phẩm mới
nhất, đây là loại thơ để đọc khi không còn việc gì hơn là đọc thơ. Không hẳn
bởi “cái chia rẽ một bên tâm hồn tác giả, một bên những người đọc.” (Chế Lan
Viên)
III.3.3.
Trừ tập Hôm sau,
thơ Mai Văn Phấn tưởng cổ mà tân; nhưng là cái tân không
tạo sang chấn. Khác hẳn nhiều nhà cách tân khác cùng thế hệ, như Nguyễn Quang
Thiều ở hai điều: hình tượng thơ và văn xuôi hóa thơ. Chắc chắn có lớp độc giả
không ưng, thậm chí ghét, thơ Mai Văn Phấn giai đoạn từ sau năm 2000. Hình như
các độc giả đó chỉ lầu bầu thôi; chứ không “la rủa tru tréo” như với các tác
giả khác. Mà muốn lầu bầu với thơ Mai Văn Phấn cũng không dễ, như đã nói. Thật
tình, chúng tôi đang hồi hộp trong Hội thảo, giới
hàn lâm-khoa bảng sẽ
“lầu bầu” ra sao?
III.3.4.
Chất
chân quê trong thơ Mai Văn Phấn không qua sự kiện, tự sự thẳng thớ, tình
cảm trực tiếp mà qua hình ảnh, người, vật độc lập. Thiên nhiên đồng quê cụ thể
lại siêu nhiên. Cùng Phùng Cung, Nguyễn Duy, Nguyễn Quang Thiều, Đồng Đức Bốn;
Mai Văn Phấn là người làm thơ hiện đại hóa theo kiểu riêng vẻ chân quê trong
thơ Việt Nam.
III.3.5.
Trong thơ đương đại Việt có những cặp bài trùng, như Nguyên Sa và Thanh Tâm
Tuyền; Mai Văn Phấn và Nguyễn Quang Thiều... với cái khác nhau trong thi pháp
và thi cảm, khiến cách nói này được nghiệm đúng: “Trời đã sinh ra Tuyền
và còn sinh ra Sa!”; “Trời đã sinh ra Thiều và còn sinh ra Phấn!”
III.3.6.
Có tác giả hợp với nhà thẩm thơ hơn cả; có tác giả hợp với nhà phê bình hơn cả;
lại có loại chỉ hợp với nhà lý luận. Nguyễn Tất Nhiên, Phan Thị Thanh Nhàn là
loại thứ nhất. Nguyễn Đức Mậu, Thanh Thảo là loại thứ hai. Huy Cận, Xuân Diệu
thì là cả thứ nhất lẫn thứ hai. Loại thứ ba thuộc về các tác giả có sáng tác
thí nghiệm, như đã nêu. Chúng tôi vẫn chưa biết Mai Văn Phấn là loại nào?
III.3.7.
Thật ra câu thơ thứ hai nên là câu kết! Nó chỉ không nên được viết ra
ngay lập tức mà thôi. Bằng không, câu thứ hai (thật sự) và các câu sau đó, sẽ
không ra nổi. Nhưng khác với đại đa số đồng nghiệp, Mai Văn Phấn là dạng nhà
thơ không cần mẹo luật này. Anh thường ít có các câu kết đóng đinh độc giả,
theo kiểu thơ Đường luật hay thơ nói chung. Trong thời kỳ truyền thống và tiền
hiện đại của mình, tác giả cũng làm được một số ít bài có kết nổi trội, nhất là
với loại có “cốt truyện”, hay chủ điểm cụ thể: “Ai như là Tám Bính?/ Tắm
bằng nước mắt Ông” (Nguyên Hồng vào nhà thờ), “Hoa uống cạn nước
mắt với mồ hôi/ Chim có về bới tóc tôi mà làm tổ?” (Lời người trồng
hoa). Điều này, trong cách đọc thông thường, bị coi là nhược điểm. Chắc vì thế
họ Mai sớm đi tìm các lối ngả khác, hợp hơn?
Tất
cả, đúng ra là 26/27 bài, ở tập Hôm sau, đi theo cung cách hậu hiện đại.
(Bài Giấc mơ vô tận không theo cách đó, nhưng vì “có công” mang tải câu thơ
tựa sách cho tập thơ sẽ ra vào năm sau là Bầu trời không mái che nên
được chiếu cố chăng?!) Vì thế kết của mỗi bài thơ theo kiểu gì cũng được. Nếu
là siêu độc giả, mỗi chúng ta có bổn phận và quyền lợi làm một câu kết cho mình
và độc lập với cái kết của văn bản (chứ không phải của tác giả.) Chúng tôi thấy
4 bài Vẫn trấn tĩnh tiễn khách ra ngõ, Bài học, Sống hồn nhiên
và Giả thuyết cho buổi sáng hôm sau có câu kết phải nói là bất ngờ, đáng
danh làm kết. Nhưng không phải là cái bất ngờ bất khả thế của những cái kết
trong thơ bình thường. Chẳng hạn, khi Mai Văn Phấn đi ngủ, hay lên hẳn Văn Miếu
(Hà Nội) vài ngày tham dự Ngày thơ Việt Nam 2011, hậu hiện đại như Dư
Thị Hoàn hay truyền thống như Trần Quốc Minh đều có thể thừa cơ làm một cái kết
xứng danh Dư Thị Hoàn, xứng danh Trần Quốc Minh. Điều kiện hậu hiện đại đã sai
khiến tác giả “chết” những khi cần “chết”, đã điều hành trò chơi văn bản bị xâm
thực bởi các diễn ngôn văn hóa có thể trái ngược nhau, các hình thức văn học có
thể mâu thuẫn nhau. Nếu liên văn bản (tưởng tượng) đó được thực hiện bởi các liên-tác-giả
cùng hệ thống thì, trên thực tế, các nhà phê bình theo trường phái Roland
Barthes sẽ dễ tháo gỡ văn bản hơn.
Còn
hai tập Và
đột nhiên gió thổi và Bầu trời không mái che thì không có các “bài thơ” theo
nghĩa thông thường. Ngay các bài lẻ ở Và đột nhiên gió thổi cũng là các
đoạn rời trong một tập hợp thơ. Bầu trời không mái che đã cho khái niệm
“bài thơ” thăng thiên, nói gì đến kết với luận! (Xem tiếp mục IV.8. Nói
riêng về ba tập thơ mới nhất)
III.3.8.
Đồng ý với Khánh Phương,
từ khởi đầu đến năm 2000, tạm lấy mốc với tập Vách nước, Mai Văn Phấn là
“nhà thơ ‘dễ đọc’, dễ gây thiện cảm”. Và đúng như Dương Kiều Minh đã khái quát:
“Hình thức thể hiện trong giai đoạn này, từ nhịp điệu, kết cấu bài thơ... chưa
vượt ngoài những hình thức giá trị ổn định của thơ Việt Nam nửa sau thế kỷ XX.”.
Nhưng cho phép chúng tôi được phản biện, không hưởng ứng với Dương Kiều
Minh về nhiều trích dẫn thơ được đánh giá hơi cao trong bài. (Phụ lục – 1)
Vì sao trong thời kỳ này
“những ý tưởng, hình ảnh lạ” của tác giả chỉ mới “tạo nên sự độc đáo nhất
định”? Như các câu “Đem hồn ta rót cho hồng chân mây” (Rượu xuân); “Hồn
mình dựa chốn mong manh/ Rồi hư danh ấy cũng thành hư không” (Kinh cầu ban
mai) đều chỉ thấy chữ, thấy cảnh. Không thấy hồn người! Hay “Tán lá hiện
ngôi nhà bình yên/ Phía sau nằm úp một con thuyền/ Lá rụng khi dòng xanh tưởng
cạn/ Con thuyền phía ấy lật mình lên” (Chiếc lá): về ý có phát hiện, một quan
hệ thiên nhiên thú vị (lá và thuyền) trong nhân sinh (nhà), nhưng diễn đạt vụng
và vội (ở chữ “lật”). Câu chót suýt bị thành… vè! Gần đây Nguyễn Thế
Hoàng Linh thường theo cách này trong tâm trạng hài tếu.
Đó là vì trong phép
truyền thống các ý, các hình thường nếu không được tu từ đặc sắc thì phải với
bút pháp lọc lựa khổ công. Như không ít người làm thơ khác, Mai Văn Phấn, trong
thời kỳ đó, có một sở đoản là… ứ chịu dừng ở đỉnh. Chúng tôi tin rằng, tác giả
với tài cao như thế dư biết đó là “đỉnh”, nhưng lại tưởng sau là “đỉnh” sẽ là
“đỉnh” nữa. Thưa không! Thuật làm thơ phương Đông khó là ở điểm dừng, ở chỗ bỏ
đi. Bùi Giáng thường làm thơ ngắn, rất nhiều câu chữ là là mặt đất, thậm chí
thô lậu, bên cạnh các câu chữ thăng thiên. (Sở trường này khiến tiên sinh, trên
thực tế, đã không thể làm nổi một bài thơ dài, một trường ca nào chăng?)
Ở bài Qua hoàng hôn, Mai
Văn Phấn đã tạo đỉnh ngay ở câu đầu tiên“Hoàng hôn như một cửa chùa”,
rồi lại “thừa thắng xông lên” câu thứ hai “Hư không trên ngón tay vừa đi qua”
không được như đỉnh, lại đòi làm đỉnh. Cứ thế, cả bài thơ đi xuống trong sự
loay hoay tìm từ lập ý. Tản mát, xao xác, để rồi cả bài thơ nằm dài ra ở câu
chót: “Cho ta về lại luân hồi kiếp sau.” Tiếc! Nếu biết cấu tứ hơn, Qua
hoàng hôn có đủ các điều kiện để là một thi phẩm đặc sắc.
Còn bài Rượu xuân,
so với mặt bằng thơ, kể cả lúc này, cũng là một bài thơ khá. Nhiều điểm hiển lộ
các chỗ mạnh yếu của tác giả để từ đó thành tựu trong các thời kỳ sau. Đọc đến
câu “Bầu trời tựa cái chén không”, chúng tôi rùng mình. Đỉnh! Dù trước
đó có hai, ba cái nhấp nhô khác (“Nỗi buồn cầm cũng nhẹ tênh/ Buông vào đáy
nước rùng mình đậu tăm”). Đến đây, xin được kể một giai thoại dường như gia
đình nào cũng có: Thằng con bà chị gái tôi, hồi 5 tuổi, một sáng chủ nhật, ngủ
dậy tè ẩu xong bèn vươn vai trước cửa nhà sát mép Hồ Tây, rồi bỗng kêu to:
“Trời như một cái vung lớn…” Nghe thấy, mẹ nó sợ quá, ngỡ con mình sắp hóa thần
đồng; hớt hải ôm lấy con và vội bị miệng nó lại. Thế là thằng bé nghiễm nhiên
trở thành VIP của cả nhà cả họ suốt vài năm! Chúng tôi thường đem
cái-bịt-miệng-của-người-mẹ trước một ông Trạng con tưởng tượng để rèn thơ mình,
để đọc thơ người. Nhà thơ là trẻ thơ. Thi thoảng “phụt” ra dăm chữ vài ý của
trời. Làm thơ may mắn là biết tự bịt mình sau mỗi ý, chữ trời cho. Thi sĩ của
chúng ta, trong bài thơ đang nói, đã không may khi làm nhòa đỉnh đi bởi câu kế,
“Đem hồn ta rót cho hồng chân mây”, đầy những tu từ mòn vẹt và có phần
khiên cưỡng.
Thế đấy! Mai Văn Phấn
không là chủ nhân của các câu thơ, đoạn thơ hút hồn theo nghĩa đơn tuyến. Các
bài hay và khá của thi sĩ đều là những mạng đan xen trên một phông văn hóa ổn
cố bằng loại ngôn ngữ giản dị, chiêm nghiệm. Khó mà tìm được bài nào hoàn hảo ở
lộ trình đầu của người thơ này, nhưng từ các sự chưa hoàn hảo đã ló rạng tiềm
năng cho một cách viết khác. Hoàn toàn khác!
IV. Các vấn đề riêng
trong thơ Mai Văn Phấn:
IV.1. Những bài thơ tiêu
biểu:
Nếu buộc phải coi đơn vị
là “bài thơ” theo cấu trúc bình thường, chúng tôi thấy, tất cả các bài thơ làm
nên tên tuổi Mai Văn Phấn đều thuộc giai đoạn cuối, trong hai tập Và đột
nhiên gió thổi và Hôm sau. Dùng lại lời Hoài Thanh về Nguyễn Đình
Thi, có thể nói: Các bài thơ hay của Mai Văn Phấn không nhiều, nhưng những bài
thơ không hay cũng không nhiều.
Các bài tiêu biểu: Vẫn
trấn tĩnh tiễn khách ra ngõ, Tắm đầu năm, Ghi ở Vạn Lý Trường Thành,
Gió thổi, Sống hồn nhiên, Bài học, Chuyện còn dài.
Những bài này xứng mặt
trong các bài thơ điển hình của trào lưu văn học hậu hiện đại Việt Nam. Ở đây
dùng các chữ “điển hình”, “tiêu biểu”. Bởi phải nói sòng phẳng rằng, chưa thể
(và không biết đến bao giờ?) có khái niệm “hay” trong dư luận cho một tác phẩm
cách tân mang phong cách hậu hiện đại. Không chỉ với văn học Việt, mà ở bất kỳ
nền văn học nào, ngay cả các quốc gia sản sinh ra trào lưu này. Với phong cách
hiện đại, và nhất là với các trào lưu trước đó, dù sao tiêu chí “hay” dễ được
đồng thuận hơn.
Chúng tôi đã thú vị đi
thú vị lại trước các bài bình, lời bàn của Bão Vũ (Tắm đầu năm), Lê Vũ (Bài học). Ba nhà thẩm thơ Đặng Văn Sinh, Đặng Thân và Nguyễn Hoàng Đức đưa
ra ba diễn giải Ghi ở Vạn Lý Trường Thành đều đắc ý…
Và đây là lời bình của
chúng tôi với bài Gió thổi:
Mai Văn Phấn vẫn còn
nhiều rung động của tuổi yêu với hình ảnh "Con sâu đo em đu lên
người anh". Câu kết đã làm nên chuyện: "nhưng tất cả ngọn cây
đều bạt về một phía." Thi sĩ người Nga Joseph Brodsky là bậc thày của
thủ pháp, tạm gọi là, hình ảnh lớn đứng trên vai các hình ảnh nhỏ. Gió thổi có
nhiều hình ảnh nhỏ đỡ một hình ảnh lớn là vậy. Đó là một thủ pháp khó trong thơ
ca Tây phương; tạo vẻ đẹp giản dị, bất ngờ, lại... dân chủ! Khác thơ Đông phương,
thường tụ vào một hình tượng chủ, mang nặng tình ý, tư tưởng - tất cả dệt nên
một cái khá mông lung gọi là tứ. Có tứ thơ, với gia giảm tu từ, qua các âm
điệu, sắp xếp câu chữ thì sẽ cấu tứ được thành bài thơ. Độ lớn của hình ảnh trung
tâm không phải vì nó lớn thật sự, tuyệt đối mà lớn tương đối, nhờ nhiều điều
nâng nó lên. “Tất cả ngọn cây đều bạt về một phía" đã được tôn lên
từ "hôn nhau trong hành lang hẹp", "Con sâu đo em đu
lên", “thác đổ đều đều…" Thủ pháp này làm cho triết lý
của thơ đến rất vô
tình, từ các sự tượng hình, mô tả. Bao năm nay thơ Nguyễn Đình Thi chinh phục
độc giả một cách nhẹ và dai có lẽ cũng nhờ vậy chăng?
IV.2. Thơ Mai Văn Phấn
với “những câu thơ hay”:
Nhà
thơ của các câu thơ hay - đó là một đề tài sôi động, nhất là với thơ phương
Đông, trong đó có Việt Nam. Với thơ được hiện đại hóa, đơn vị câu thơ khó có vẻ
đẹp ổn định. Sự thẩm thơ trên câu cũng hoang mang theo. Lê Đạt, Hoàng Cầm,
thậm chí không cách tân như Phùng Quán, có nhiều câu được cho là để
đời, trộm nghĩ cũng có
phần nhờ “ăn theo” tên tác giả. (Nói vui tí tẹo, xin các cụ tha tội: Nếu cũng
như câu thơ đó là của Lê Văn Đạt hay Hoàng Thị Cầm chửa chắc mấy
ai đã chịu thẩm chịu thấm?) Với Trần Dần thì khác: Những câu được ca tụng thực
ra mang dáng vóc tư tưởng trong khổ thơ ngắn. Và chính người cũng sinh hạ cả
một đường thơ mini đó thôi! Vấn đề “câu thơ hay” quả là bất định, trong đó các
yếu tố như tác giả (và nhân thân), xuất xứ (tình thế), và nhất là quán tính
thẩm mỹ của dư luận đã lấn át tính văn chương.
Chúng tôi tin rằng, các
tay phê bình, điểm thơ Mai Văn Phấn phải hơn một lần gặp khó khi chọn câu thơ
điển hình, xuất thần. Đây là một tác giả hoàn toàn không dễ xơi với các phê
bình gia lười nhác quen dùng tài hoa và kiến văn để nếm một thìa canh phán cả
bàn tiệc. Những bài thơ hay ở Mai Văn Phấn, và các tác giả tương tự, là sự kết
hợp không những hài hòa ở từng câu lẻ mà – quan trọng - được xây cất trên một
tầng nào đó. Gọi được tên của cái tầng đó ra, là mong muốn của tham luận này
hòa chung cả cuộc Hội thảo.
Như
nói trên, cây viết này hầu như không hạ xuống, những câu thơ tuyệt bút, riêng
rẽ và yên vị. Trong thời kỳ đầu, nhà thơ cũng có các câu thơ đứng được. Nhưng
lại có dáng chông chênh. Sang thời kỳ cách tân, thi thoảng anh cho ra các câu
được độc giả cảm phục: nhà thơ Nguyễn Thánh Ngã từng thốt lên “hằng đời người
mới có” với câu “Những ngọn thác câm lặng đang đổ xuống rất mạnh”; còn
chủ bút tạp chí Thi Bình, nhà thơ Hàn Quốc Ko Hyeong Ryeol đánh giá câu “Ngọn đèn lặng phắc
càng tỏ” trong bài Tắm đầu năm “dường như tiêu biểu cho phong cách thơ Mai Văn Phấn”. Ngẫm
kỹ sẽ thấy hai câu đó cũng chỉ có sức khi sống
trong toàn văn bản; không chỉ trong bài, đoạn đó mà cả tập thơ, trường
thơ Mai Văn Phấn. Khác hẳn với lối tu từ truyền thống, những câu “hằng đời
người mới có” thường bỏ bài thơ ra ở riêng!
Cũng
vậy, Nguyễn Hoàng Đức muốn rằng tác giả này cần phải thêm các “phương ngôn
cứng”, vì “độc giả nhớ về nhà thơ nào đó lại phải ghi dấu ở câu nào hết sức cụ
thể.” Có nhẽ đâu thế! Bởi đã đi qua cách làm thơ cần các câu thơ hay và độc
lập, không biết nhà thơ của chúng ta có trở về “tắm lại lần hai”, sau tác phẩm
mới nhất Bầu trời không mái che? Bởi chính nó làm nên phong cách thơ Mai
Văn Phấn đang thành quả ở giai đoạn thơ cách tân của mình. Bởi với tinh thần
hậu hiện đại, những câu thơ gây choáng, những cách làm thơ thôi xao Giả Đảo đã
không còn thích hợp. Nói đâu xa, đến như Nguyễn Quang Thiều cận cổ điển, hiện
đại rồi hậu hiện đại, cũng khó có thể đáp ứng yêu cầu của Nguyễn Hoàng Đức?
Chúng tôi có trong tay, trong mắt những câu cứng cáp của nhà cách tân đầu bảng
thơ Việt đương đại đó. Rất nhiều. Mà không sao có nổi trong… đầu! Thêm bằng
chứng nữa: chúng tôi nhìn nhận, về phong cách hậu hiện đại ở hải ngoại, đi tiền
phong là Ngu Yên, còn tạo ảnh hưởng nhất phải là Nguyễn Hoàng Nam, đến mức Đỗ
Kh. – người có tác động rõ rệt đến các tác giả hậu hiện đại trong nước - thường
gọi kẻ trẻ hơn mình một con giáp là “thầy”. Lăng-xê dông dài để hỏi một câu:
Liệu có ai nhớ nổi một “câu thơ hay” của Nguyễn Hoàng Nam?
Chính Mai Văn Phấn tuyên
ngôn trong nhiều tiểu luận, trả lời phỏng vấn, gần giống trao đổi sau đây cùng
chúng tôi tháng trước: “Thực ra những câu thơ hay, tuyệt bút giờ đây không phải
là cái đích của những tác giả cách tân. Sự khác biệt giữa hệ thống thơ ‘cũ’ và
‘mới’ chính là vậy. Hệ thống thơ cũ tập trung vào các điểm chói sáng; trong khi
hệ thống mới chủ yếu thiết lập từ trường thơ. Nếu cứ đòi hỏi các ‘câu thơ hay’
thì chưa thoát khỏi vòng kim cô của quan niệm truyền thống”. Còn Nguyễn
Đức Tùng, cũng trong vòng chia sẻ này, đẩy vấn đề xa hơn: “Tuy nhiên nếu
‘phương ngôn cứng’ suy rộng là các điểm thi pháp sáng chói, các khúc quanh và
nơi tập trung thẩm mỹ” thì sao? Vâng, một thách đố cho những tác giả
muốn mở lối đi về giữa hai, ba thi pháp. Họa có Trần Dần mới nhiều “phương ngôn
cứng” trong một bàn tay mà hai mặt trái phải đều có cái gọi là thơ!
Nhưng nói gì thì cũng
không qua mặt được sở trường sở đoản. Văn chương Mai Văn Phấn nói chung không
thuộc tạng tinh sắc ở các sang chấn cô đọng, ở các thi tứ lập ngôn. Có lẽ tự
biết mình, người thơ này đã không chiêm bái hào quang có được chút ít trong “miếu
đường” lãng mạn pha hiện thực, để rồi anh đã “đi về những hướng sao rơi”.
Và cũng khác với Nguyễn Hoàng Đức, chúng tôi lại mong họ Mai chỉ nên thâm canh
trên cánh đồng thơ. Không giống với Nguyễn Quang Thiều; truyện, ký sự, kịch bản
có thể sẽ không chào đón Mai Văn Phấn! Tiểu luận thơ thì OK! Mà ngay trong cái
thể loại không có tính thể loại ấy, nhà thơ của chúng ta cũng vẫn hơn người ở
các luận cứ nền gốc, trong khi các ví dụ, dẫn chứng thường tản mạn, và đôi khi
để hớ. Phạm Khải đã tinh tường chỉ ra ở cách làm thơ truyền
thống tiêu biểu có một hạn chế mà đa số chúng ta ít nhiều mắc phải: “Tô Hà là
người rất có ý thức tạo dựng toàn bài bắt đầu từ việc tạo dựng nên những câu
thơ hay. Phương thức sáng tạo ‘phát một’ theo kiểu súng trường của anh đã khiến
cho mỗi câu thơ là một ý, chúng có đích để đến, bởi vậy mà chúng thường tách
bạch, đổ bóng, hắt bóng xuống nhau chứ không mấy khi ‘bén rễ’ sang ‘đất’ của
nhau.”
Chúng tôi không chúc Mai
Văn Phấn có nhiều “câu thơ hay”, nếu như xâm phạm đến cái hay trong cả trường
thơ của mình! Vẫn có những chàng trai không đẹp với chiếc răng khểnh… Vẫn có
những cô gái không duyên với cái núm đồng tiền…
IV.3. Nội dung, tư
tưởng:
Có thể hình dung được
phần nào nội dung và tư tưởng thơ Mai Văn Phấn qua tên các tác phẩm đã xuất
bản: Giọt nắng (1992), Gọi xanh (1995), Cầu nguyện ban
mai (1997), Nghi lễ nhận tên (1999), Trường ca Người cùng
thời (1999), Vách nước (2003), Hôm sau (2009), Và đột
nhiên gió thổi (2009), Bầu trời không mái che (2010).
Khi đặt các cuốn sách đó
lên chiếc bàn ba chân của thơ ca thế giới trong tương quan với tư tưởng của mỗi
nền văn minh, chúng ta sẽ thấy nhà thơ này vẻ như nghiêng về văn hóa Ấn Độ - ở
đó đạo giáo, tâm linh là nền tảng của tư duy, trong khi văn minh Tây
phương thuộc về triết luận, và Trung Quốc là của đạo đức. Do ảnh hưởng ở mức
quyết định của thơ Trung Hoa, thơ Việt ít có sự bất ngờ rành mạch ở tư tưởng.
Trong quan niệm làm thơ, người mình không chuộng sự biến thiên ở ý tưởng thông
qua chi tiết, mà tỉ mỉ tạo động với tu từ bằng một vài quan niệm sống đã thành
đạo lý. Không thuần Việt trăm phần trăm như thế, ý niệm tâm linh đã như sợi
chỉ đỏ chạy dọc hồn thơ Mai Văn Phấn! Giai đoạn gần đây đã bừng sáng trong
tập Bầu trời không mái che. Còn ở thời kỳ đầu nó cũng lấp lóe trên cả
những chủ đề đời thường: “Biết ơn sợi tóc trên đầu/ Buộc ta vào những nhiệm
màu khói sương” (Bâng quơ), hay rõ rệt trong các chủ đề tôn giáo, tâm linh
ở bài Qua hoàng hôn.
Ngoại lệ duy nhất về nội
dung có thời cuộc là trường ca Người cùng thời đan xen nhiều chủ đề và
đối tượng khi tác giả truy tìm vấn nạn từ các xã hội và các nền văn minh, trong
đó có hai cuộc đại chiến thế giới của thế kỷ 20, nhưng hướng giải quyết lại
thuộc về nền văn minh tâm học của tương lai. Nhân sinh quan và thế giới quan
của tác giả được tuyên bố rõ trong chương cuối của trường ca: “Đã hé
mở cánh cửa nền văn minh tâm học, những linh hồn tâm hồn có đủ lương năng,
lương tri rời thể xác tìm nhau. Vượt gấp nhiều lần tốc độ ánh sáng, trái tim
hiền lành rung động các vì sao.” (Xem tiếp mục IV. 9. Thơ Mai Văn
Phấn và vấn đề trường ca)
Cũng gần thế, Trần Nhuận
Minh có một hướng khác với khuynh hướng hiện thực XHCN, bằng loại thơ, và
nhất là tổ khúc, trường ca luận đề. Có lẽ cảm quan tâm linh đã góp phần làm một
nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam thời chống Mỹ và xây dựng CNXH vượt lên
chính mình và cả thời đại. Hướng này vẫn đồng hành với những gì nhà thơ phục vụ
lâu nay trên nền thơ mang cảm hứng sử thi và nội dung chủ nghĩa anh hùng cách
mạng.
Thơ Mai Văn Phấn rất ít
thời thế, càng không có các chủ đề chính trị, sự kiện thời sự. Ở giai đoạn sau,
có thể xem đây là loại thơ không đề tài (trừ đề tài muôn thuở và căn bản là
tình yêu đôi lứa). Thơ này rất gần nghệ thuật phương Đông ở chỗ tư tưởng qua tả
cảnh, nhưng lại xa phương Đông ở cảm xúc sầu đau. Mai Văn Phấn không làm ra thứ
thơ để đọc xong thấy đau đớn, da diết vì buồn. Kể cả ở thời kỳ đầu với các bài
sát tim gần máu nhất, chúng tôi như không thấy bài nào của anh khiến người đọc
đổ lệ theo nghĩa đen cùng nghĩa bóng. Chất thiền thi đã vượt thắng nỗi sầu thi nhân
chăng? Tiêu chuẩn quen thuộc - cái buồn sầu chính là hồn vía trong một bài thơ
- không tìm được đất sống ở nhà thơ này!
Trong những gì chúng tôi
được đọc, nhất là ở bản thảo Thơ tuyển Mai Văn Phấn (dự tính ra vào
tháng 4/2011 này), tuyệt không có bài nào về chiến tranh? Bài duy nhất về đề
tài hậu chiến là Mười nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc. Là người lính từ
trước mốc lịch sử 1975 và phục vụ trong quân ngũ 8 năm, nhà thơ có tác phẩm
xuất bản kể từ 1992 (Giọt nắng). Kể như anh đã “kinh qua” thời kỳ Đổi mới
từ 1986. Phải chăng đó là một trong các lý do để bút pháp truyền thống và hiện
thực XHCN ở thời kỳ đầu không thả neo lâu được? Câu hỏi này chỉ có thể dành cho
Mai Văn Phấn. Dù ngẫu nhiên hay chủ đích, sự nhổ neo đã là động thái đúng và
dứt khoát, về tư duy và cảm hứng sáng tạo. Không thế, chắc là nhân vật chính
trong Hội thảo hôm nay không là Mai Văn Phấn!
Chủ thể của tự ý thức,
cái tôi trữ tình trong thơ Mai Văn Phấn, không phải là cái tôi công dân, cái
tôi sử thi, hay cái tôi riêng tư. Mà là cái tôi nhân sinh. Nhà
thơ chuyển từ quan niệm thơ là nỗi lòng mình, mục đích khiến cảm động lòng
người đến thái độ coi thơ là cách lập ngôn, làm thơ là thực hiện đạo sống. Hai
đối tượng chính đã lập trình dòng thơ này là con người và thiên nhiên, đến mức
tác giả không nén được, phải tuyên bố bằng câu kết của trường ca Người cùng thời:
“Khắp nẻo không gian đã giãn ra cho tiếng trẻ con đồng thanh trong lớp/ Muôn
năm con người! Muôn năm thiên nhiên!”
Với Mai Văn Phấn, thêm
một kinh nghiệm nữa trong việc làm thơ: điều đầu tiên không phải là luyện chữ;
mà là luyện tâm.
IV.4. Vấn đề thi pháp và
thơ Mai Văn Phấn:
IV.4.1.
Không kể được âm thầm
viết từ trước bởi các thi sĩ đứng đầu Nhóm Nhân văn - Giai phẩm và một
vài thi hữu gần gũi, sau Đổi mới 1986 cho đến tận 2011 này, cả trong lẫn ngoài
Việt Nam, đã và đang bung nở nhiều loại thơ khác hẳn với những gì gọi là thơ
trước đó. Sẽ không quá lời khi cho rằng, với mỗi nhóm tác giả, thậm chí mỗi tác
giả, có một loại-thi-ca-mới xuất hiện! Có những loại nằm vào các khuôn viên hay
ở đường biên các trào lưu văn chương trước đó hay đương thời. Có không ít loại
không hoặc chưa định danh được, mà thi ca Mai Văn Phấn là một.
Không ít bài phê bình
(Nguyễn Hoàng Đức, Nguyễn Việt Chiến, Đặng Văn Sinh - Phụ lục) và cả các
tuyên bố của tác giả đã đóng đai một số khuynh hướng thơ quen thuộc trong lý
luận thi ca Việt Nam và thế giới lên thơ Mai Văn Phấn. Tác giả đã tự lý giải: “Vong
thân tức một cuộc cách mạng trong thi pháp, sự tái sinh/lột xác để đến với một
chân trời khác. Sau khi vượt thoát khỏi hệ mỹ cảm cũ, năm 2009 tôi in hai tập
thơ với hai phong cách, khuynh huớng khác nhau. Hôm sau là hướng triển
khai phong cách hậu-hiện đại kiểu Việt Nam. Và đột nhiên gió thổi thuộc
cổ-điển-mới. Đến Bầu trời không mái che, tôi không còn bận tâm về khuynh
hướng, chủ thuyết. (…)”[iv]
Đồng ý, dù không hoàn
toàn. Nhưng khó mà phản biện những gì chưa chia sẻ. Bởi tính đa phong cách từ
sản phẩm ngôn ngữ trữ tình này, chúng tôi sẽ gợi ý cách nhìn khác hoặc bổ sung.
IV.4.2. Thi pháp văn chương,
nhất là thơ, chỉ viên mãn khi có những liên mạng nào đó trong hay ngoài hệ
thống với văn hóa của ngôn ngữ mà nền văn chương đó sử dụng. Tức là
không thể có thứ thi pháp hoàn thiện để mà toàn cầu hóa; bởi vì chẳng thể nào
có văn hóa toàn cầu. Giản dị là không hề có ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết)
chung cho nhân loại. Mọi nỗ lực trong văn minh, huyền thoại, lịch sử hay trên
thực tế (với Quốc tế ngữ Esperanto) là lý tưởng nhân văn cần có nhưng không thể
có.
Trong số các tác giả mà
giới phê bình báo chí thường gọi chung là “trẻ và hậu Đổi mới”, Nguyễn Lương
Ngọc, Phan Huyền Thư, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải đã làm lạ hoặc chuyển
biến một mặt nào đó ở ngôn từ và ý niệm. Thay đổi thi pháp tổng thể, Mai Văn
Phấn, Nguyễn Quang Thiều; và dữ dội hơn về cấu trúc thể loại và diễn ngôn là Đỗ
Kh., Nguyễn Đức Tùng, Nguyễn Quốc Chánh, Đinh Linh, Nguyễn Đình Chính, Đặng
Thân, đã “cách tân” thơ. Hai chữ này ở đây có thể khác về nội hàm như
trên một số báo chí. Dương Tường đã phân biệt ở một hiện tượng: “Thơ
Vi Thùy Linh có cái vẻ mạnh mẽ của nó, song để nói là cách tân thì e là chưa.”
Trong tham luận, chúng tôi tạm gọi “cách tân” nặng về hình thức, “đổi mới”
nghiêng về nội dung, dù ở hầu hết các tác giả thành đạt thì tuy hai là một.
Trong trẻo, Anh Ngọc đổi mới cái thật của hiện thực chiến tranh và đời
sống; Cảnh tỉnh, Nguyễn Duy đổi mới cái thiện của một xã hội hậu chiến;
Bão táp, Phùng Quán đổi mới cái chân của nhân sinh, của thời đại. Sông
núi thi ca Việt Nam thế kỷ qua có những đỉnh cao một mình một cõi vút trời
xanh, không bằng sự cách tân hay đổi mới, không ràng buộc truyền thống hay hiện
đại: Quang Dũng và Nguyễn Tất Nhiên; Thâm Tâm và Nguyễn Đức Sơn… đã đưa hơi thở
đương thời tới mai sau bằng cái thi ca kỳ khôi không thể nào thay thế.
Với Mai Văn Phấn, chúng
tôi muốn mượn cách nói đắc địa: “cách tân (văn học) từ cách
tâm.” Và đề nghị không như thế cho trường hợp Vi Thùy Linh và nhất
là cho Nhóm Mở miệng, như Hoàng Hưng[v] từng làm, bởi ở các thi sĩ đó sự
cách tâm nằm trong ý nghĩa cách tân về văn hóa bằng phương tiện văn
học (xem mục III.2.) Khi Hoàng Hưng viết, “Vi Thùy Linh chẳng hạn
gây chấn động nhờ cảm hứng bạo liệt, tuôn trào của người đàn bà yêu một thứ
tình khát dục không cần kiềm chế hay giấu giếm, là tiếng nói chân thực của một
bộ phận lớp trẻ thời chuyển tiếp hai thiên kỷ”, thì đó là văn hóa; Còn “[Vi
Thùy Linh] chưa mới bao nhiêu về thể điệu, cấu trúc, từ pháp, cú pháp”: đó là
văn học!
Trong các hiện tượng về
quan hệ văn hóa trong văn học đương đại ở một-nửa-thế-giới Việt - người phụ nữ,
người yêu, người vợ, người mẹ Việt – có sự công phá trong thái độ ở Lê Thị Thấm
Vân; sự ẩn sâu ở Xuân Quỳnh; độ nhuần nhụy văn chương ở Nhã Ca, Phan Huyền Thư.
Với thơ Mai Văn Phấn, người tình nữ là yếu nhân không chỉ ở đối tượng trữ tình.
Trong giai đoạn cách tân của tác giả, chủ thể trữ tình nhòa đi nhờ nghệ thuật giải
trung tâm. Cái tôi trữ tình - mặt trời sáng tạo trong các phong cách tiền hiện
đại và hiện đại - bây giờ chỉ là mặt trời hoàng hôn. Nhân vật “Anh” là anh của
ước lệ sót lại. “Em” cũng vậy. Liệu có bất ngờ không khi chúng tôi so sánh, rằng
thiên nhiên và tâm linh Việt ở hai tập Và đột nhiên gió thổi và Bầu trời
không mái che có vai trò như thời cuộc và đời sống thường nhật của nửa nước
Việt Nam ở các thập niên 70-80 của thế kỷ trước trong thi ca Xuân Quỳnh? Nhân
vật người tình của Mai Văn Phấn trong diễn ngôn hiện đại không khác lắm, về
Việt tính, với nhân vật người yêu của Xuân Quỳnh ở ngôn ngữ lãng mạn và hiện thực
XHCN. Khác về cấp độ phổ cập hóa ở toàn cõi Việt Nam và thế giới hóa: Ở tác giả
đầu, Việt tính của ái tình nam nữ nằm sâu trong văn hóa, trong tâm linh Việt;
với tác giả sau: người con gái Việt mang một văn-hóa-yêu đặc thù ở miền Bắc
Việt Nam thời hòa bình và thời chiến tranh chống Mỹ. Cùng trang lứa và thời đại
với nữ sĩ, trong số các tác giả (mà tất cả đều là nữ) đã viết thành công về đề
tài phụ nữ, về nữ quyền và tình yêu, chưa nói đến tính nghệ thuật (hay
dở), thì Ý Nhi có thơ cao về tính văn học (học thuật), Dư Thị Hoàn có
thơ xã hội hơn về văn hóa nữ quyền (nghề nghiệp). Nhưng thơ Xuân Quỳnh
đã là đại biểu Số 1 cho phong cách diễn ngôn thời đại mà nay đã bị vượt qua về
văn học, về thi pháp. Vì sao nó sẽ mãi còn được xã hội hóa, được ở vị trí tiêu
biểu trong văn học Việt Nam? Vì tính văn hóa thời cuộc mà dòng
thơ Xuân Quỳnh từng tận
lực tận tâm chuyên chở. Cái tôi ở thơ của nữ sĩ đầu là cái Tôi
phụ nữ miền Bắc Việt Nam; với hai nữ sĩ sau không vậy: đó là những cái tôi văn
học. Có nhiều dòng thơ Việt như thế, đã vòng qua thi pháp để vượt lên thi pháp,
nhưng không phải dòng nào cũng trở nên đại diện văn học.
Để rõ hơn mối liên hệ
văn hóa với thi pháp văn chương của thơ Mai Văn Phấn, chúng tôi thử phụ họa
bằng các tác giả văn xuôi hiện đại Việt Nam quan trọng nhất.
Vũ Trọng Phụng, qua tiểu
thuyết và ký sự, đã tạo những cơn bão cách mạng về văn hóa (và ít nhiều
về tư
tưởng) trên sân cỏ văn học và
báo chí đương thời. Các lỗ hổng về nghệ thuật thể hiện được khỏa lấp bởi sự dấn
thân không khoan nhượng về nội dung cùng đẳng cấp khác biệt ở phương pháp sáng
tạo thể loại và phong cách ngôn ngữ. Vũ tiên sinh đã văn chương hóa và báo chí
hóa được một khối lớn trong văn hóa Việt.
Nguyễn Huy Thiệp - một
dòng văn đã cuồn cuộn chảy, và sẽ còn chảy lâu nữa, trong lòng độc giả. Bình
nguyên văn hóa Việt đã làm màu mỡ cho dòng sông Nguyễn Huy Thiệp! Ngay
cả ở nơi nào đó trong hay ngoài bình nguyên, để đọc văn chương ấy người ta cũng
có thể không cần ngước lên, cúi xuống những ngọn núi, các vực sâu của xã hội,
chính trị Việt đương thời. Thi pháp văn xuôi Nguyễn Huy Thiệp, trên thực
tế, đã và đang làm nên giáo trình của một trường-phái-văn-học Việt
không-mang-tên Nguyễn Huy Thiệp. Sông văn Nguyễn Huy Thiệp không đổ ra biển
được cho đúng vòng luân hồi thiên địa trong Việt Nam (tạm chưa tính ngoài thiên
hạ), có lẽ vì thiếu sức đẩy bất tận của chất tiểu thuyết chăng? Tiếc mà không
làm gì được. Văn hóa Việt lỡ một cơ hội có tính thế kỷ!
Nguyễn Khải là một nhà-văn-của-chế-độ
trước khi là thư-ký-của-thời-đại. Tiểu thuyết, truyện, ký là phương tiện trời
cho, thời đại tặng và chế độ giao phó cho bàn tay và khối óc ấy. Làm văn
chương, Nguyễn Khải phải giấu đi trái tim - nơi chứa chất hồn vía văn hóa
Việt mà ông không thể không bày tỏ. Yếu tố văn hóa trong người-văn này đã làm
phẳng đi những gì của thời cuộc, thời thế và bao trùm là của chính trị Việt Nam
lúc đó. Văn hóa đã hiện đại hóa văn học Nguyễn Khải! Phương pháp sáng tác hiện
thực XHCN đã được chắp cánh bởi tất cả những gì nhà văn có: bàn tay, khối óc và
trái tim. Cho đến cuốn hồi ký cuối đời - văn bản cuối cùng - đó vẫn là một liên
văn bản của toàn hệ thống con người, văn chương, văn học và văn hóa
mang tên Nguyễn Khải. Về
học thuật, nhà văn đã vô thức cập nhật vào bút pháp của mình một vài cách biểu
hiện của các trường phái khác hiện thực XHCN, khác Marxism.
Nam Cao là một tác giả
văn xuôi Việt hiện đại mà chúng tôi cho là lớn lao, là có một không hai như một
văn sĩ tạo ra văn phái nguyên chất và thuần túy. Bất kể nhân thân
và tác phẩm của người, giai đoạn trước trong dòng hiện thực phê phán, giai đoạn
sau thuộc về đường lối văn học cách mạng. Văn hóa và tất cả những gì
khác mà Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Khải, Nguyễn Huy Thiệp lăm lăm trên tay, người
đã cho trước vào các trang văn trước khi hạ bút. Có thể nói, văn học và văn
hóa Việt thêm một lần bị trúng đạn, và một Lỗ-Tấn-của-Việt-Nam như thế đã
không thể xuất hiện!
Thời cuộc Việt Nam và
cao vọng chính trị đã từng làm yếu đi một dòng văn chương đang sắp sửa trở
thành bộ phận quyết định của nền văn học Việt đương thời với cha đẻ là một tác
gia văn xuôi thực sự làm cách mạng văn hóa bằng văn học và báo
chí: Nhất Linh! Khuynh hướng lãng mạn và hiện thực tiền chiến của Tự Lực Văn
Đoàn đã được xây dựng trên một công trường văn hóa Việt ngổn ngang các tòa
nhà phong kiến
- thực dân, các nguyên
vật liệu Trung Hoa - Pháp… Văn Nhất Linh vượt xa hơn thế so với các tác giả
cùng văn phái bằng bút pháp chính luận chưa hoàn thiện của mình. Nhưng dòng văn
của ông không thể đi trước thời gian.
Văn minh, và nhất là văn
hóa vùng đất mới, trong đó có nền báo chí khai phóng miền Nam Việt Nam, đã
là cửa biển cho nhiều dòng sông văn học truyền thống đổ về: Bình Nguyên
Lộc và Sơn Nam. Thi pháp không tân kỳ nhưng tươi mạnh, hai dòng văn học này đã
thành kinh điển nhờ Việt tính khỏe khoắn và bao dung mang sắc thái văn hóa
phương Nam.
Không thể trở thành kinh
điển, bởi còn nhiều pha tạp gấp gối cả về văn hóa (Âu - Mỹ) lẫn văn
chương (ảnh hưởng từ các trào lưu văn học, tư tưởng, lối sống Pháp - Mỹ),
Túy Hồng và Mai Thảo; Nguyễn Thị Hoàng và Thanh Tâm Tuyền; Dương Nghiễm Mậu và
Thảo Trường; v.v… và v.v… nhìn chung không ai vượt trội hơn ai, bằng tiểu
thuyết, truyện dài, truyện ngắn đã diễn tả chính xác tâm thức và gương mặt giới
trẻ, văn nghệ sĩ, trí thức và thị dân Sài Gòn - đô thị miền Nam Việt Nam sau
hòa bình 1954 và trong cuộc chiến 1965-1975. Cho đến nay, cùng với thơ, văn
xuôi tiếng Việt lần đầu, và có lẽ là chót, tìm được các diễn đàn tự do, hỗn
loạn và phóng túng đến thế với hầu hết các nhóm phái, trào lưu văn học đại diện
cho mọi giai tầng xã hội. Nhưng khác với thơ, hệ văn xuôi miền Nam nói trên
không có được sự chuẩn bị văn hóa cần thiết và tương xứng với các phong
cách hiện đại, các chủ nghĩa mới lạ của văn chương và tư tưởng thế giới
mà nó được hay bị ảnh hưởng.
IV.4.3. Có thể gọi thơ Mai Văn
Phấn là một hình thức ngôn ngữ biểu đạt và trần thuật các trạng-thái-thơ, chứ
không hẳn là cảm xúc thơ. Có lẽ vì thế Đặng Thân đã đặt tên cho thứ thơ trong Hôm
sau là thơ robot.
IV.4.4. Thơ Mai Văn Phấn có
biểu hiện không mạnh mà đều đặn của chủ nghĩa tượng trưng Pháp: cảm quan trực
giác, không lý giải; tương hòa giữa con người và sự vật, thiên nhiên; thế giới
quan về cái bóng tượng trưng của vũ trụ đích thực; đề tài nhỏ, đời thường không
gắn với xã hội… Vô tình hay chủ ý, về cảm hứng Mai Văn Phấn đã chuyển từ “thi
sĩ của lòng” trong thời kỳ sáng tác đầu thành “thi sĩ của linh hồn” để
“đánh thức cái thế giới im lìm đương nằm ngủ ở trong lòng nhân loại (…) thực
hiện một cuộc trở về (….) với tấm lòng khi đất trời khai lập”, đúng
như Tuyên ngôn tượng trưng 1946 của Nhóm Dạ
đài / Trần Dần.
IV.4.5. “Cách mạng trong thi
pháp” - nếu có thực như mong muốn của tác giả - ở thơ Mai Văn Phấn, phải
nói là rất chắc cờ: Dùng các thi pháp có tính thể nghiệm nhưng là làm thơ thật,
không phải thứ thơ thử nghiệm; Sinh ra các sản phẩm người thích người không,
nhưng ít ai có thể không gọi nó là thơ. Về thái độ, thơ này thiếu vẻ cực đoan
thường có của những gì thuộc về khai phá.
IV.4.6. Liệu có đúng, như Nguyễn Việt Chiến nhận xét, “từ
trữ-tình-cổ-điển” Mai Văn Phấn ‘bay’ thẳng một mạch vào hậu-hiện-đại”? Nếu
kể theo trường phái, chúng tôi thấy, giai đoạn hiện đại của cây viết này có hai
cột mốc là trường ca Người cùng thời (1999) và Vách nước (2003).
Có điều ở Vách nước, xảy ra chuyện các thi pháp… “tranh nhau làm tổ
trưởng”! Thiển nghĩ, đây là tác phẩm không chắc tay của nhà thơ khi chưa cầm
chịch được hai, ba phương pháp sáng tác trong một bài thơ. Để rồi, qua không ít
năm sau đó, anh đã thành đạt ở hậu hiện đại với Hôm sau (2009).
Được đọc và trao đổi gần
như từng loạt bài trong khi sáng tác và trong hai bản thảo song sinh, chúng tôi
mừng cho cảm hứng, mà tiếc cho sự ăn non của thi sĩ. Chỉ muốn chàng đẩy tới
cùng mạch hậu hiện đại sung sức. Hai năm trôi qua, mới thấy Mai Văn Phấn quả là
người viết thông minh, biết mình biết thơ! Nay nhìn lại, ba, bốn bài mà tác giả
từng cùng chúng tôi hỉ hả đã đan thành “mái che” của cái “bầu trời”
đó rồi.
IV.5. Vấn đề thể loại:
Không chỉ ở sáng tác, cả
trong lý luận và nghiên cứu, khoảng ba chục năm nay ở trên thế giới và chục năm
ở ViệtNam, thể loại đã trở thành nhân vật chính trong câu chuyện dài của
các vấn đề văn học. Và, đó không hẳn là hệ quả của điều kiện hậu hiện đại trong
văn hóa nghệ thuật; nếu không nói là ngược lại.
Thơ, và văn chương Việt
Nam nói chung, trong bao nhiêu thế hệ đã coi thể loại như “của giời ơi”! Số
lượng các nhà cách tân về thể loại chỉ trên dưới mười đầu ngón tay; chưa kể
chất lượng hoặc còn ở dạng lý thuyết: Phan Khôi (Thơ mới), Đặng Đình Hưng
(“Roman poem”) và Trần Dần (Thơ ý niệm, Thơ tiểu thuyết/hồi ký bè đệm),
Dương Tường (Thơ ngoài lời/Thơ âm-hình), Nguyễn Đăng Thường (Tân hình thức),
Nguyễn Thúy Hằng (Thơ “cảm giác/ấn tượng sự vật”), Nguyễn Hoàng Nam (Thơ đồ
họa), Đặng Thân (Thơ tự điển), Khải Minh (Thơ cấu)… Sau dấu “…” chắc
cũng chỉ còn một vài tên tuổi.
Cảm nhận được nhân
vật thể loại, hay chỉ cần đối thoại được với nó, đã có thể đưa đến các
chuyển động về mỹ học hay phương pháp sáng tác. Mai Văn Phấn là một trong các
nhà thơ như thế.
Không giống nhiều người
làm thơ khác, kể cả các vị tay nghề vững bậc nghiệp cao, Mai Văn Phấn, trong
quan sát của chúng tôi, ít khi bị dính bệnh nhầm-thể-loại. Đây là một
thiên phú với thi hào thi bá; và là may mắn với các thi nhân. Lý giải với bài
này thì thể lục bát, bài kia dạng tự do, đa phần là bất khả. Thường bằng linh
cảm. Người làm thơ bị nhầm thể loại cũng như kẻ bị lấy nhầm vợ nhầm chồng. Khó
mà sửa vợ cải chồng được; chỉ có thể lấy chồng cưới vợ lần sau; và sau nữa. Đa
số thi sĩ khó quay bút được khi cảm thấy thể loại thơ đang làm không hợp; chỉ
có thể sửa sai ở bài thơ sau, rồi sau nữa.
Trải qua hầu hết các thể
loại thơ, ở giai đoạn đầu Mai Văn Phấn tỏ ra chầm bập thể lục bát và tứ tuyệt.
Trong khuôn mẫu, các ý lời không toát được vẻ đặc sắc; người viết phải đi sang
thể loại thoải mái hơn mới nên sự. Các bài thơ tự do và thơ văn xuôi khi đó
chưa thật hấp dẫn, nhưng báo hiệu sự hơn người ở giai đoạn sau nếu thoát khỏi
phong cách lãng mạn và hiện thực đơn tuyến. Có lẽ vậy, trong một trả lời phỏng
vấn, nhà thơ nói về tương quan nội dung và hình thức rất thấu đáo.
Đã hơn một lần, chúng ta
được bảo rằng, để làm thơ Việt cần khởi thủy từ lục bát. Hẳn chỉ có Mai Thảo
lại xui: “Những người trẻ tuổi bắt đầu làm thơ nên bắt đầu ngay bằng thơ tự do.
Nghĩa là một bắt đầu mạnh bạo, đường hoàng, ở ngoài mọi kiến trúc tiền chế”.
Đúng với tinh thần “sáng tạo”, mà trật đường thơ Việt! Chúng tôi khó tin có
một nhà thơ Việt nào làm ngay và làm hay được bằng thơ tự do. Có thể họ làm rồi
vứt đi, hoặc không cho ra dưới ánh mặt trời. Thần đồng ba tuổi xanh Trần Đăng
Khoa tiếng ta chưa rành lục bát chảy ra từ sữa mẹ là chuẩn rồi; Thần đồng trung
niên Bùi Giáng Pháp ngữ Đức ngữ đủ thứ ngữ dày cả tấc thơ Đông Tây kim cổ thuộc
làu vạn dòng mà có dám lệch chuẩn khỏi lục bát đâu! Dường như chúng ta chưa
được đọc thơ niên luật, vần điệu của các “tổ sư” thơ tự do Việt như Trần Mai
Ninh, Hữu Loan, nhưng đã có chút kinh nghiệm với các vị khác là Văn Cao, Thanh
Tâm Tuyền, và ngay cả Trần Dần. Nhất là với Nguyên Sa, Nguyễn Đình Thi, Du Tử
Lê về lục bát. Đỗ Kh. - từ mươi năm trước có thể xem là “anh Hai quậy” về thơ
tự do - từng có thời kỳ đáng kể về lục bát. Để ý, sẽ thấy tính âm vần và chất
6-8 trong thơ hậu hiện đại của chàng. Không quậy ở diện mạo của thể loại, Mai Văn
Phấn vẫn ra khỏi cách viết và cách đọc tự sự và trữ tình thông lệ, nhờ kỹ thuật
chắc tay của thơ truyền thống, của lục bát.
Với loại thơ văn xuôi,
Mai Văn Phấn đã tạo dấu ấn riêng ở những nơi nào có thể: hơn chục bài thơ độc
lập trong giai đoạn truyền thống (Lúc mặt trời mọc, Hoa bằng lăng…)
và nhiều bài ở thời cách tân; nhiều trường đoạn trong một bài thơ dài (các
đoạn 6, 8, 16, 23… của Những bông hoa mùa thu); tất nhiên cả trong
trường ca (Chương VI: Cộng hưởng II; Chương VII: Mail cho em… trong Người
cùng thời).
Cũng như trường ca, thứ
“văn bản nặng” và thâm niên này của lịch sử thơ ca thế giới và Việt Nam luôn là
bến đỗ cho các tranh luận, khiến nhiều người vẫn khoan khoái khi đánh đồng việc
sáng tác thơ văn xuôi (điều bình thường) với sự thay đổi thi pháp, làm mới lạ
thơ (điều bất thường). Mai Văn Phấn có vẻ cũng ham làm mới thơ văn xuôi, như
anh tự đánh giá: “Khuynh hướng cách tân của tôi, là xóa nhòa ranh giới giữa
văn xuôi và thi ca. Tôi đã từng thử nghiệm thành công, viết nhiều bài có hình
thức văn xuôi, nhưng quyến rũ bạn đọc vào một không gian thơ rộng lớn và thậm
phồn.”[1]
Đánh giá phẩm chất của
thơ văn xuôi là một mạo hiểm cho các phê bình gia. Xin hãy thận trọng! Thường
là phải đọc loại thơ này trong cả không gian thơ của tác giả. Do còn nhiều chủ
đề khác của thơ Mai Văn Phấn khác biệt hơn, chúng tôi sẽ dừng lại ở ý “xóa
nhòa ranh giới giữa văn xuôi và thi ca”. Về điểm này, thơ Mai Văn Phấn và thơ
Nguyễn Quang Thiều là bầu bạn. Ngữ-pháp-thơ của Nguyễn Quang Thiều (nhiều ý thô
mộc; âm điệu quyện trong hình ảnh; chữ bị nuốt trong câu) có thể tìm thấy sự
đồng dạng ở thơ Dương Kiều Minh, Nguyễn Quyến, Vi Thùy Linh, Phan Hoàng… Mà
không ở thơ Đinh Thị Như Thúy và Mai Văn Phấn. Nhờ gián đoạn hơn về hình tượng
và khí thơ, với cách đọc cũ, thơ của nhị vị này dễ chấp nhận hơn 5 vị trước.
Khí thơ, từ xưa đã là một trong vài khái niệm chính của thơ Trung Hoa và thơ
Việt. Đã lâu rồi, nó ít được bàn đến. Giữa thời a còng, nhắc đến khí
thơ, nghe có vẻ ông lang quá! Nhưng nhân vật chính của buổi hôm nay lại là
người trọng khí thơ. Trước thềm Hội thảo Thi ca và Văn học Hàn Quốc - ASEAN
với chủ đề Sáng tạo của nhà thơ châu Á, tinh thần cho điểm đến)
2-7/12/2010 tại Seoul, Mai Văn Phấn đã phát biểu trên Tạp chí Thi Bình:
“Cách diễn đạt dứt khoát, tối giản, liên kết rời và xa nhau tạo cho thơ một hơi
thở mới, người phương Đông chúng ta quen gọi là ‘Khí’. Theo tôi, ‘Khí’ làm nên
cốt cách thi sĩ và phân biệt được các thế hệ thi ca.” Chúng tôi muốn thêm hai
điểm nữa dễ thấy trong thơ Mai Văn Phấn: Khí thơ rất cần cho các sáng tác dài
hơi, dung lượng lớn, như trường ca, thơ dài và loại hình tương tự (anh hùng ca,
sử thi, ngâm khúc, tổ khúc…); Khí thơ là một trong các yếu tố để giữ tính thể
loại bất biến trong khi san bằng biên giới thơ và văn xuôi.
IV.6. Tứ thơ:
Nói
chung, tứ thơ như không muốn hiển lộ ở thi ca Mai Văn Phấn! Các sáng tác ở giai
đoạn cách tân đã ủng hộ tác giả khi khỏa lấp được điều bị coi là nhược điểm đó.
Rất ít bài nổi trội về tứ; nếu là bài hay, thì ở đó tứ cũng bị lùi xuống hàng thứ.
Trong khi với phép làm thơ Việt, Trung Hoa, lao tâm khổ tứ nhất là… tứ thơ! Xét
đến cùng, hầu hết thi sĩ từ truyền thống cho đến hiện đại, đều là phu tứ.
Để cách tân, Lê Đạt đã biến mình thành “phu chữ”, nên thường gặp cảnh ngộ đi
ăn chữ về mất tứ! Trần Dần, điển hình của kẻ làm thơ luôn “cãi lại”
thi tứ. Phạm Tiến Duật mắt ham vui các ý hài sắc lẻm, hai tay giữ chặt thi tứ.
Hoàng Cầm về vụ này là tướng, từ bài tuyệt đỉnh đến bài chạm đáy. Cả 5 vị đều
là chủ nhân ông của thi tứ, gọi dạ bảo vâng được.
Chúng
tôi nghiệm thấy, lấy ngẫu nhiên 10 nhà thơ - đã thành danh hay chưa - có tới
quá bán mắc nan thi là trong một bài thơ có tới hai, thậm chí ba, tứ
thơ! Căn bệnh này không khó chữa lắm, nhưng khó phát hiện. Nếu biết mình mạnh ở
các thứ khác, thà cứ nhung nhăng giả vờ thơ như không tứ, nhiều khi lại ăn
tiền! Lại ở thơ hiện đại, tứ thơ huyền ảo vô cùng.
Ngay còn khi ở dòng thơ
lãng mạn pha hiện thực, lấy tu từ, lập ngôn, định tứ làm thi pháp, Mai Văn Phấn
cũng không có được nhiều bài thơ hay nhờ tứ. Như đã nói ở mục Những bài thơ
tiêu biểu với bài Gió thổi, tác giả có sở trường biến nhiều hình ảnh
rời lẻ thành tứ thơ, cho dù tập hợp các hình ảnh rời lẻ không tạo hình tượng thấu
suốt và độc nhất.
Trong quan niệm chung và
cũ, tứ của một bài thơ thường phải đi trên hai chân là ý tưởng trộn tình cảm và
hình tượng chủ đạo. Có tứ thơ rồi, với gia giảm tu từ, qua các âm điệu, sắp xếp
câu chữ thì sẽ cấu tứ được bài thơ. Phương cách kinh điển là vậy. Hiện đại hóa
thơ đã làm giảm thủ pháp này tăng thủ pháp khác. Ai càng thấy được sự ký sinh
giữa các thành phần của thi pháp, người đó càng dễ có thơ mới lạ, mà vẫn hay!
Chếp Lan Viên là bậc thầy của thủ pháp mà chúng tôi đã tạm gọi là chuyển
hình tượng thành tứ thơ. Tại sao thơ họ Chế luận lý, hiện đại thế mà ít bị
chê là Tây, đọc mãi vẫn bất ngờ? Ấy là nhờ thi bá đã biến hóa nhiều hình ảnh
chan chứa sắc màu đại chúng trong một tư duy khoa học nhất nguyên; tức là chun
chút áp đảo. (Đọc thơ Chế Lan Viên, nhiều câu, ý thấy tức anh ách mà vẫn phải
phục!) Trở lại cặp bài vừa trùng vừa trái Mai Văn Phấn - Nguyễn Quang Thiều.
Người thứ hai, khi tung mở các hình ảnh, đã đi theo hướng ngược lại với người
thứ nhất. Khó hình ảnh nào có thể đứng trên vai hình ảnh nào! Ngay với tác phẩm
nổi tiếng từ thập niên 90 thế kỷ trước cho đến hôm nay, tác giả đã tạo ấn tượng
“thơ dịch” với độc giả truyền thống ở Việt Nam trong khi bạn đọc Tây phương
hoan hỉ tiếp nhận. Nếu - một chữ “nếu” chắc không còn thời gian để xảy ra -
“học” được tư duy luận lý và có ngón tay thơ để rút ngắn ngữ-pháp-thơ như Chế
Lan Viên, thì Nguyễn Quang Thiều sẽ thành “thầy”. Bởi ở anh có một hệ hình ảnh
đặc Việt, có thật và nghệ thuật. Còn ở vị thầy hiện tại, các hình ảnh đó là của
thiên địa và không thật, đó là các tượng hình văn học. Đang câu chuyện về ba
nhà thơ ở thủ pháp hình ảnh nhỏ hình ảnh lớn, có thể ví von như sau: trong khi
Nguyễn Quang Thiều làm thơ bằng cả bàn tay với 5 ngón một lúc, Chế Lan Viên và
Mai Văn Phấn điều khiển thơ bằng cả bàn tay theo mỗi ngón của mình.
IV.7. Ngôn ngữ, hình
tượng thơ:
“Ghé môi vào miệng
thời gian/ Cho hơi thở mọc vô vàn cỏ non. (Tản mạn về cỏ)
Chúng ta đang bàn đến
một thi giới gần như không có vốn từ vựng riêng, lạ. Nếu lướt nhẹ trên vài câu vài
bài, tưởng đây là tay viết bình dân. Đọc thơ Mai Văn Phấn không phải tra tự
điển Việt-Việt! Không khó hiểu với từng bài lẻ nếu có được vốn tối thiểu của
luật câu cú tiếng Việt. Chẳng như với Bùi Giáng (suốt đời) và Du Tử Lê (thời
cách tân); Lê Đạt (thời cách tân mới là tác giả nặng kí) và Cao Đông Khánh
(tràn ngập); Phan Huyền Thư (thoang thoảng) và Nguyễn Quốc Chánh (tá lả)… Còn
không ít vị nữa, mà thượng đẳng kỳ ngôn ắt là Hoàng Xuân Sơn và Thường Quán!
Trong ý nghĩa ngôn ngữ
là công cụ, không là đối tượng, họ Mai không thuộc vào hàng ngũ "thi sĩ là
một người bình thường, nhưng mỗi ngày, vào buổi chiều, ông lại đem ngôn ngữ ra
khủng bố". (Paul Válery).
Và nếu từ điểm nhìn của
ký hiệu học, có thể thấy thơ ca Mai Văn Phấn ưu tiên quan hệ biểu tượng - ý
niệm; còn âm điệu, nhạc tính không là trọng. Anh luôn chuyển hình tượng thành
các trạng thái của ái tình và tâm thức linh nghiệm. Trạng thái, chứ không phải
tình cảm. Đọc thơ của người-đang-yêu này, thêm một lần ta hiểu hai chữ thanh
tân nơi tình yêu đôi lứa. Cống hiến mới của nhà thơ là đã thanh tân hóa cái địa
hạt tưởng
khô cũ, giáo điều: tâm
linh và siêu thoát.
“Ta ngồi nhập định
cùng hoa/
Thành chuông ai thỉnh
ngân nga cỏ mềm” (Qua hoàng hôn)
Chúng ta lo cho sở đoản
tạo ý niệm bằng lý lẽ dễ làm ra thứ phẩm của ngôn ngữ? Nhưng, với người cầm bút
tỉnh táo như vậy, đã và sẽ không gặp sản phẩm tệ dưới tên Mai Văn Phấn. Nói
thêm: đây còn là một thi nhân có khả năng tự biên tập. Điều mà không ít thi bá
cũng còn chưa có; Như với Bùi Giáng, mà chúng tôi từng đã tham luận. Xin được
nói mạnh rằng, phải tới một phần tư các ấn phẩm đã in, thơ là chính, của Bùi
tiên sinh là… tệ! Bù qua sớt lại, có tới một phần tư của chính phẩm còn lại đã
là tuyệt phẩm.
Ngoài thể văn xuôi đã
nói trên, Mai Văn Phấn khá thoải mái khi đưa khẩu ngữ vào thơ tự do. Anh không
tận dụng Ferdinand de Saussure trong “quyền khế ước” của ngôn ngữ ở xã hội thơ
ca, không đẩy tính võ đoán của câu chữ đến chân tường nghệ thuật; như nhiều
người lâu nay làm thơ mới lạ theo cách truyền thống hay hiện đại, trong đó có
các tác giả thành danh vừa nêu trên mà “phê” hơn cả với chúng tôi là Thường
Quán, là Hoàng Xuân Sơn. Hầu hết các bài trong tập Hôm sau là thế: “Vợ
lại bảo dù trí tuệ uyên bác/ nhưng chân tay ngại cử động/ cũng chẳng nghĩa lý
gì./ (…) Tôi vắt sợi dây qua xà nhà/ buộc một đầu vào chỏm tóc/ cả lúc
chăm chú đọc sách/ tay vẫn giật như culi kéo quạt” (Sống hồn nhiên). Phi lý
mà không cãi vợ được! Hóm! Hóm đến thế là cùng!
Có một chi tiết. Với thơ
Mai Văn Phấn, như hạt cát trong giày du khách đường trường. Vào thời vi tính,
ngôn ngữ văn chương bị/được các thuật ngữ kỹ thuật tham gia ào ạt hơn ở bất cứ
các thời khác. Xưa, trong Thơ mới đâu có nhiều “ô-tô”, “xà phòng”, “đánh dây
thép”? Dễ hiểu. Trong nền văn học a còng, cuộc sống đời thường có thể ra
vào thơ văn mà không cần visa. Chúng tôi vẫn muốn các thi sĩ đẳng cấp
cao – trong đó tất nhiên có Mai Văn Phấn – tùy từng bài thơ, câu thơ cụ thể mà
đòi hỏi thị thực nhập cảnh với những đối tượng mới của ngôn ngữ mà thơ tiếng ta
chưa sẵn sàng đón tiếp, ví như: ”con chuột”, “ngoài vùng phủ sóng”, “điện thoại
cầm tay”… (Ngay khi chúng tôi vừa viết đến đây, trên phongdiep.net 15/4/2011
có thơ với các câu thế này: “Bật máy nhảy lên mạng/
lướt sóng thăm khắp chốn tinh cầu (…) Ta lướt ‘Weo’ từ Đông sang Tây”)
Nhân chuyện hạt cát
trong giày du khách, sang chuyện khác, không chỉ về ngôn ngữ, hình tượng. Những
khi được chia sẻ với nhà thơ và để cùng răn nhau, chúng tôi thường dẫn câu của
người xưa: Người quân tử đi qua ruộng dưa, chớ ngừng cúi xuống sửa dây giày.
Trong cái “ruộng dưa” văn học mạng thơ nét, có quá nhiều thủ thuật rất
dễ dùng, chỉ cần sạch nước cản. Những người viết đã đeo thương hiệu nên tránh,
nếu các thủ thuật đó vô thưởng vô phạt. Như về sự ngần ngừ của chúng tôi với
tên tập thơ Bầu trời không mái che, sẽ nói ở phần sau…
IV.8. Nói riêng về ba
tập thơ mới nhất:
Đó là Hôm sau, Và
đột nhiên gió thổi, và Bầu trời không mái che.
IV.8.1. Cả ba tập thơ gần như
không bị quốc gia hóa bởi địa lý, xã hội, tâm lý Việt Nam. Chúng vẫn mang được
một số đặc tính dân tộc thuần Việt. Thậm chí, nếu dịch ra tiếng nước ngoài, bỏ
đi tên tác giả và một số rất ít tiểu tiết thuộc về thông tin, thì độc giả khó
có thể nhận ra đây là thơ của một người Việt Nam, đang
sống ở Việt Nam và làm
thơ cho người Việt Nam. Bạn không tin? Hãy thử nêu cho Hội thảo xem có những
tác giả nào tương tự? Chúng tôi dùng lại cách nói đã bị xem là nhàm, nhưng cần
thiết: thơ cách tân của Mai Văn Phấn có tính Việt và tính nhân loại.
Cả ba tập rất ít câu,
bài, khúc, đoạn định vị không gian và thời gian. Không có sự kiện xã hội, không
có vấn đề thường nhật. Chỉ có những gì xảy ra nơi nội tâm con người hòa cùng
thiên nhiên, vũ trụ…
Cả ba văn bản đều tự
trị, ngoài ý muốn của tác giả và độc giả, nếu nói theo chủ nghĩa cấu trúc.
Không tìm thấy một “trung tâm” nào của ba tập thơ. Rất nhiều bài thơ cho thấy
chẳng có một trung tâm nào ở đó. Các trang thơ không còn “kết thúc ở văn
chương” theo thế chân vạc chân -thiện - mỹ, mà là ở mặt phẳng văn hóa nói
chung, ở nhân sinh và sự sống muôn đời.
Nội dung ở hai tập Và
đột nhiên gió thổi và Bầu trời không mái che có lẽ đã khiến người
biên tập, nhà xuất bản nào lười biếng nhất hoàn toàn yên tâm! Tuyệt không có
các liên đới gì nhạy cảm, từ chính trị thời cuộc cho tới các chuyện “hot,
sex”… Cấu trúc của hai tập thơ cũng làm cho chúng trở thành một thứ thơ lạ,
không ít tác giả hiện nay vẫn đeo đuổi: Với tập Bầu trời không mái che
và bài thơ dài Những bông hoa mùa thu, bạn có thể đọc nhảy cóc từ đoạn
khúc, kể cả đọc ngược theo mỗi đoạn hay tiểu đoạn (được đánh dấu bằng kí hiệu
hoa thị * hay số thứ tự 1 đến 27). Đó cũng là một trong các cách đọc theo kiểu
phê bình hậu cấu trúc khi đảo lộn vị trí “ai cảm xúc ai”: văn bản thơ Mai Văn
Phấn sẽ cảm xúc bạn, thay vì bạn cảm xúc văn bản thơ Mai Văn Phấn.
Các ý sau đây đã quyết
định suy ngẫm của chúng tôi về giá trị chung của dòng thơ Mai Văn Phấn trong
mươi năm cách tân thi pháp: 1) Tập hợp này là một bộ “tiểu thuyết trường thiên”
bằng ngôn ngữ thơ ngợi ca nhân sinh và tình yêu. 2) Cần đọc đồng thời cả ba tập
khi muốn đánh giá toàn bộ về thơ của tác giả hay từng khúc đoạn, bài thơ lẻ. 3)
Ba tập thơ liên hoàn xứng đáng nhận được giải thưởng thơ nào đó của Việt Nam
cũng như trên thế giới.
IV.8.2. Hôm sau:
Trong một trao đổi, tác
giả giải thích: “Tên tập thơ Hôm sau, mang một hình thức bình thường về
thẩm mỹ, tưởng chừng không nhằm gây ấn tượng, nhưng lại mang nội hàm khác khi
mọi người đọc vào nội dung những bài cụ thể. Nó là Ngày hôm sau
của một Ngày trước đã vĩnh viễn ra đi, một lịch sử đã khép lại, một khao khát
giản đơn của Hôm sau như được thở, được yêu, được ăn uống.”
Hôm sau có không ít bài theo
dòng ý thức, nghiệm sinh (Quay theo mái nhà, Anh tôi, Biến tấu
con quạ, Hắn…). Chúng tôi không nghĩ là tác giả nhận ảnh hưởng trực tiếp từ
Ô Mai của Đặng Đình Hưng, nhưng thấy có gì đó gần gụi.
Dưới đây là bình bàn của
chúng tôi với Đặng Thân về bài phê bình tập Hôm sau, mang tên Mai
Văn Phấn
và công nghệ cách tân
thơ:
Dùng chữ “công nghệ”
là đúng với loại thơ đọc chữ tưởng như thôn quê, đến nghĩa
thì đô thị! Phan Nhiên Hạo từng có chữ “Chế tạo thơ” cho một tập thơ của
mình.Với lối hậu hiện đại, thơ không còn là “làm” nữa. Đó là công nghệ của tâm
hồn!
Chỉ ra loại thơ robot
và gọi tên cho từng loại robot ở tập thơ này là một phát kiến bất ngờ của ĐặngThân:
“Lần đầu tiên người đọc Việt Nam được đọc thơ robot, điều đặc biệt
là ngôn ngữ của chúng rất nghiêm trang.” Theo chúng tôi hiểu, lối viết lật
đật, vô cảm về giọng điệu và cú pháp (những câu có chủ ngữ cũng thành vô chủ)
đã từng có ở không ít tác giả trước và cùng Mai Văn Phấn. Không chỉ ở những tác
giả hậu hiện đại. Tập Gửi VB của Phan Thị Vàng Anh có giọng thơ khách
quan đến độ thờ ơ mà có nhà phê bình đã nêu. Chúng tôi còn thấy phong cách này
tương đối rõ ở Phạm Đình Ân trong giai đoạn đổi mới của anh ở vài năm qua.
Nhưng thành bút pháp thơ trạng thái với nhiều bài ổn định trong một tập thơ thì
Mai Văn Phấn là đầu tiên. Không cho giật cục ở mỗi con robot riêng lẻ như Mai
Văn Phấn, nhiều tác giả hậu hiện đại khác đã để cảm xúc không tới bến, vô lối
vô phương. Thi cảm này đạt đỉnh ở hai sáng tác thử nghiệm kiệt xuất của Đặng
Đình Hưng.
Lời bình nhiều bài (Vẫn
trấn tĩnh tiễn khách ra ngõ, Sống hồn nhiên, Anh tôi…)
rất tương xứng. Giá như bỏ bớt các “ông Tây” đi thì nội dung của bài phê bình
sẽ bay bổng. Nói thêm: Anh tôi là một bài thơ hay, theo cách vừa xa vừa
gần với thơ Việt hiện nay. Còn Sống hồn nhiên là bài thơ bản lề của bút
pháp cho cả tập. Như đã nói ở mục IV.7., kéo dài được sự hài hước trong suốt
cả bài thơ là một mạo hiểm: “Đung đưa một lúc cũng mỏi” được nâng cấp ở “vừa
tư duy vừa cầm dây giật”, đến “hàm tôi yếu và răng không còn sắc” tưởng
đã hài hết độ; nhưng vẫn còn: “tôi pha trà đem dâng cho cây”. Cung kính
và cà tửng kiểu nhà nho cuối cùng trong thời đại a còng. Một bài thơ có
kích thước thế giới, trong khẩu khí hậu hiện đại!
Âm mưu tạo sốc bằng vẻ
rối rít của logic của câu chót (“Những ai chưa chịu điên và đã chịu điên
đều
không nên đọc Hôm
sau”) dễ bị lộ, nhưng thế mới là made in Đặng Thân!
Tóm lại, bài phê bình có
nội dung lạ và đúng, trong tinh thần khai mở. Dẫn độ người đọc tới tác
phẩm, sự giới thiệu có phần ngỗ ngược, cực đoan. Nhưng thế mới đáng, với một
tập thơ rất dễ bị trượt qua của thị trường văn học Việt Nam lúc này!
IV.8.3. Và đột nhiên
gió thổi sẽ được bàn đến trong một dịp khác.
IV.8.4. Bầu trời
không mái che:
IV.8.4.1. Khi được đọc bản
thảo, chúng tôi vừa mừng vừa lo cho Mai Văn Phấn, vì nghĩ có lẽ đây là một tập
thơ “được ăn cả ngã về không”. Sau gần nửa năm sách ra lò, thì thấy tác giả đã
không… ngã!
Như một cuốn truyện hiện
đại với ngôn ngữ thi ca, tập Bầu trời không mái che là ẩn dụ văn chương
về từng
thời kỳ thành người và
làm người của cuộc đời người-nữ-Việt. Chương cuối Hình đám cỏ là một
cuộc liên hồi các đợt làm tình, để quay vòng về chương đầu Cửa mẫu.
Trong cái nhìn thể loại, chúng tôi đề nghị xem tập thơ này như một “trường ca
lớn” được ghép từ hai “trường ca nhỏ” là Cửa mẫu và Hình đám cỏ,
ở giữa là các đoạn thơ lẻ chung nội dung và phong cách. (Xem tiếp mục IV.9.
Thơ Mai Văn Phấn và vấn đề trường ca.) Hình thức này là mới mẻ trong thơ
Việt Nam. Một cách giản dị, có thể coi đây là tập sách gồm nhiều đoạn thơ dài,
nối lại và riêng rẽ, có thể đọc bất kỳ từ đâu. Chín “bài thơ” độc lập (phần II Mùa
trăng) dù có tựa đề, cũng không hẳn là các bài thơ theo nghĩa quen thuộc.
Về tứ thơ theo cách hiểu thông thường, chúng tôi ưng ba bài Đỉnh gió, Giai
điệu xuân và Mùa trăng – thể hiện sở trường của tác giả về bè thơ;
các bài còn lại hơi dễ dãi; như bài Thu đến, nếu kết thúc ở câu “Biết
có ai được may mắn đến gần” thì mới tạo tứ thơ hay. Tất nhiên, nếu đọc như là
một “trường ca” thì không thể vi phân như vậy, với từng câu từng đoạn.
Ý tưởng dùng thiên nhiên
làm đối tượng mô tả và cách thể hiện bằng tình yêu trên một sáng tác thơ dài
hơi thường có ở các tác gia lớn trên thế giới; như ba gương mặt của ba châu lục
là Rabindranath Tagore (Ấn Độ), Octavio Paz (Mexico), và Tomas
Tranströmer (Thụy Điển).
Bỏ qua vấn đề thi pháp
(ngôn ngữ hay bút pháp; mỹ học cảm thụ hay nhạc tính…), nếu như thi phẩm này
đứng vững được, đó là nhờ điều mà chúng tôi xin được gọi lớn là “thi đạo”. Mục
đích của tập thơ như một lần chiêm nghiệm sự sống. Để đọc Bầu trời không mái
che, phải tạm quên đi các tiêu chuẩn quen thuộc về thơ, bài thơ, câu thơ,
dù mới nhìn qua tưởng đó là một tập thơ lắp ghép các bài thơ đơn điệu, các đoạn
thơ
nhàn nhạt. Để nắm bắt
thi đạo đó, bạn cũng có thể không cần “đọc hết” từng câu, đoạn, chương; nhưng
bắt buộc phải “thở” được trong khí quyển của tập thơ. Bởi đó là không gian nghệ
thuật.
Dễ tìm thấy ở bất kỳ đâu
trong tập thơ những câu, đoạn gần như vô nghĩa lý như: “Mơ giăng cỏ muợt/
Vồng
ngực săn chắc/ Hơi thở
nồng nã đất đai/ Chạm nhau nghe đất đi xa/ Con đường ngủ yên cây lá/ Đang thức
giấc che chở/ Ghì níu gót chân” (Nhịp V, Hình đám cỏ)
Với cảm hứng chủ đạo về
một niềm tin sống và yêu, sự đơn nhịp về ý và tứ của toàn tập thơ hoặc ở các
tiểu đoạn, chữ nghĩa và nội hàm tầm tầm như không có đáng nói, lối dẫn các chi
tiết, sự việc phi hiện thực, các sự đơn giản, rời rạc của thiên nhiên… - Tất cả
đã khiến chúng tôi mạnh dạn gọi đây chính là một loại “tiểu kinh thi”. Vâng, kinh-thi-tình-ái.
Nếu như chỉ cần tiệm cận được điều đó thôi, Mai Văn Phấn sẽ thành một nhà
thơ kinh điển, kiểu Tagore vậy! Như đã dẫn trong mục IV.4. về thi pháp,
nhà thơ đã thổ lộ trong một trả lời phỏng vấn: “Đấy là cách tôi tìm về cội
nguồn thi ca cho cảm xúc trôi chảy tự nhiên và tìm cách nói hồn nhiên,
tối giản, trong trẻo nhất.”
Có lẽ tính đơn nhịp đồng
điệu đã làm nên một thứ thơ mới, đọc cũng được mà không đọc cũng chẳng sao, đối
với các độc giả cần thơ như một phương tiện nhận thức hay cảm xúc.
Không, tác giả cần ở bạn linh cảm. Bởi thơ này là tâm thức.
Chúng tôi cho rằng, đây là rào cản của loại thơ này với không ít độc giả coi
thơ chỉ là văn chương, là văn học.
Nói về nhịp điệu của thơ
tự do, Bầu trời không mái che đạt mức tưởng như không-tự-do! Các đường
gợn giữa văn xuôi và thơ lặn xuống. Các nhấp nhô từ văn nói đến văn viết trở
nên bằng phẳng. Không nhiều người viết đương đại làm được thế, như Mai Văn
Phấn.
IV.8.4.2. Tên tập thơ, với
chúng tôi, độc mà chưa đắt. Nói hết nhẽ, vui tình văn hữu thôi. Không có gì
nghiêm trang nghiêm trọng! Bầu trời không mái che là hay với tên bài
thơ, tên một chương trong trường ca, một đoạn khúc trong tập thơ... Hoặc hay ở
thời 5-6 năm trước, khi Mai Văn Phấn đang loay hoay tìm thi pháp. Giả sử rút
lại chỉ là Bầu trời: sai chủ ý, nhưng xét ra hợp với uy tín và chất
lượng thơ của tác giả lúc này, và hợp với phong cách của cả tập thơ hơn. Các
chữ “không mái che” mới nghe thì lạ, lập dị. Nhìn lại thấy nó
thành cái mái che
cả bầu trời thơ Mai Văn Phấn! Lan man, chúng tôi nhớ đến hai tập sách khác mà
việc làm sách theo hướng khác lạ có vài điều gần gũi…
Tựa sách Người (tập chân dung của nhà báo Nguyễn Quang
Thiều) quả có cái ngất ngưởng, trơ trọi và kiêu hãnh “cây thông đứng giữa trời
mà reo” của Uy Viễn Tướng công. Nhưng chúng tôi nghĩ sẽ không có sự sau: Tập
thơ Người của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều! Có vẻ như phạm luật ngôn ngữ
thơ, sai lệ chữ nghĩa bìa sách thơ? Xin gợi ý cho tập thơ tưởng tượng của nhà
thơ này, hay của nhà thơ khác: Những người. Và mạn phép cho cả tập chân
dung đang có: Tuyển tập chân dung nhân vật mang tên Những người của
nhà thơ - nhà báo Nguyễn Quang Thiều. Sẽ là hay và đẹp với thi sĩ. Đúng hay
không, chửa dám chắc.
Việc “dát vàng sách thơ” Phim đôi - Tình tự chậm của
Vi Thùy Linh được dư luận quan tâm trong tháng qua. Với những gì đang có về nhân
thân, nhân cách, văn cách, nghệ thuật thi ca của chủ nhân cuốn sách, chúng
tôi thấy chuyện này OK!
Còn nếu sang một giai đoạn sáng tác khác, khúc quanh thành tựu khác, ví như
được Nobel văn chương chẳng hạn, thì việc dát-vàng-thơ của nữ sĩ sẽ không còn
giá trị tự thân. Cũng vậy, với Trần Dần ở tập Thơ (2008) từng thoát thai
từ “đất nâu và đêm đen”, nhà xuất bản Đà Nẵng đã không là kẻ mờ màu khi cho
sinh hạ một ấn phẩm với hình thức hay, đẹp và đúng dường thế! Cũng vậy, cả với
một tuyển tập nào đó của thơ Tố Hữu. Ở hai nhân vật này, trong mỗi thẩm mỹ văn
chương riêng, tên tác giả đã là vàng ngoài bìa, thi ca đã là vàng trong sách.
IV.8.4.3. Cửa mẫu là một liên khúc
9 đoạn thơ như một câu chuyện không cốt truyện, không nhân vật, lấy đạo Mẫu làm
thể tài, làm hình tượng thơ. Trong thơ Việt Nam hiện đại, không kể rất ít các
bài thơ ngắn, “nhỏ” dùng đạo Mẫu như một đề tài xã hội, sinh hoạt, hình như
chưa thấy sáng tác nào có nội dung nghệ thuật cao trong một thể loại “lớn” như
Mai Văn Phấn đã làm? Tư tưởng đạo giáo và tín ngưỡng dân gian của vấn đề không
được khai thác; trong khi đó thần tượng Mẫu (Mẹ) với thiên chức sinh sản, che
chở con người đã được thi vị hóa. Điểm sáng tạo ở đây về tư tưởng tâm linh là
sự sinh, sự sống của nhân loại cũng được sinh sôi và bao bọc của người Mẹ Cả
khác – đó là thiên nhiên, vũ trụ. Trong niềm tin và tín ngưỡng đó, người Mẹ
Việt là nguồn, là trung tâm của người con, người cha nên đã được toàn quyền ước
muốn, giải thoát khỏi những định kiến mà cuộc sống thực sự ràng buộc họ.
Về cấu trúc, nhịp thơ,
nhất là về thể loại biểu hiện (trữ tình trong tự sự), Cửa mẫu hoàn toàn
có thể xem như một “trường ca” thu nhỏ, nếu như tác giả kéo dài và tăng cảm xúc
ở 9 tiểu khúc đang có. Loại hình thơ-dài-có-tính-trường-ca của thơ hiện đại
Việt đã có những ví dụ lừng danh như Em ơi - Hà Nội phố (Phan Vũ).
Khi làm chương đầu cho
tập thơ – đúng ra là tập “kinh tình yêu bằng thơ” - ý nghĩa nhân sinh và
tư tưởng
của Cửa mẫu mới
được xuất hiện. Còn khi in riêng, như ở Tạp chí Văn nghệ quân đội số 35
- 8/2010, hay trên một số trang mạng, bài thơ tương đối dài đó đã thể
hiện tầm vóc tâm linh của nó. Tặng thưởng năm 2010 của Tạp chí Văn nghệ quân
đội đã trao cho một thi phẩm giá trị như thế!
IV.8.4.4. Đỉnh gió có thể xem là một bài
thơ độc lập trở về chất lãng mạn cổ điển trong cảm xúc hiện đại với thái độ nhi
nhiên. Nhi nhiên là nguyên thủy của thơ. Sau Cửa mẫu, đây là bài
thơ lẻ, đẹp nhất tập thơ. Dùng phê bình trường phái hình thức Gasparov và Jarkho, chúng ta thử đọc bài thơ để thấy
cách viết mới nhất của tác giả.
Ở cấp độ 1: Tư tưởng,
hình tượng: Đoạn đầu tốt; đoạn cuối: rất tốt. Toàn bài “nhất trí cao” trong nội
dung nhân tính. Hình ảnh dù nhiều, nhưng cần thiết cho một trận-làm-tình tơi
bời giang san! Sang cấp độ 2: Phong cách (ngôn từ, chữ nghĩa): Đoạn giữa cũng
đạt; đoạn cuối: hơi làm dáng, trở lại sở trường của tác giả mà ở đây thành sở
đoản. Đáng lẽ đoạn cuối sẽ tốt về tứ: sự tản mạn của tu từ (“Mắt quắc sáng
áp lực đại bàng xoải rộng”), sinh ra nghĩa mới, tứ thơ lỏng đi.
Khiến cho bút pháp bị mắc căn bệnh chung là lộn xộn giữa lãng mạn, hiện đại,
hậu hiện đại (xem mục IV.4.6.) Trong cấp độ 3: Âm điệu, nhịp thơ: đạt;
toàn bài mang nhịp điệu nội tại, theo hơi thở của cặp tình nhân đang yêu. Câu
thơ đọc lên trôi mượt, dù nghe khô. Tính khách quan của thơ cao.
IV.9. Thơ Mai Văn Phấn
trong vấn đề trường ca:
“Mình lại đang
viết một cái dài dài, chắc không phải trường ca, cũng chẳng là tập hợp thơ,
nhưng sẽ rất riêng và có cái gì...” Tâm sự của Thi Hoàng - tay bút đã làm mới và lạ cho thơ và
trường ca Việt chiết trung và đằm thắm ở mức đầu bảng kể từ thời hậu chiến 1986
- đã nôm na hóa điều chủ chốt để những sáng tác văn vần có dung lượng lớn trở
nên hiện đại. Đó là tính bất định của thể loại văn học lâu nay mang tên chung
là trường ca.
Trong cuốn sách[2]
đang được làm bằng
“những nỗ lực tìm hiểu khái quát các ‘hiện tượng trường ca’ từng xuất hiện
trong lịch sử văn học Việt Nam”, với ước vọng “lục khảo và hệ thống hóa có quy mô
lớn lần đầu tiên về các hiện tượng trường ca” (Trần Thiện Khanh), chúng tôi quan tâm đến Mai Văn
Phấn như một tác giả trường ca và thơ-dài-có-tính-trường-ca, với các nét riêng
biệt của nội dung và cảm hứng tâm linh. Ở đây chỉ nêu một số điểm gần gũi nhất
với cả dòng thơ của tác giả, nhất là ở hai tập hợp thơ đã nói.
Mai Văn Phấn thuộc vào
phong thổ nghệ thuật thành phố Cảng - một đất trời sản sinh “trường phái thơ
Hải Phòng”, trong đó có dòng trường ca đặc sắc với khoảng 30 tác giả. Nhưng Hải
Phòng tính ở thơ và trường ca của tay viết này không hề bị địa phương hóa,
cũng như đã không bị dân tộc hóa quá đặc thù Việt như đã nêu trên.
Phê bình riêng hoặc đầy
đủ về trường ca Người cùng thời (1999) - cho đến nay là văn bản duy nhất
của tác giả ở thể loại trường ca theo cách đánh giá chuẩn tắc chế ngự đường
hướng sáng tác và phê bình lý luận trường ca Việt - chúng tôi thấy có hai bài
của Phạm Quang Trung và Dương Kiều Minh với nhiều ý kiến xác đáng bao quát và
cụ thể (Phụ lục 8. và 9.)
Xin có một số nhận xét
bổ sung và mới như sau.
Nằm trong cách viết
tương đối phổ biến so với mươi năm trước ở mạch tự sự và suy tưởng, bằng 10
chương hồi với 7539 chữ, Người cùng thời là một trường ca đáng kể trong
dòng trường ca Việt Nam hiện đại và đương đại. Ngoài giá trị lớn nhất đóng góp
trong dòng trường ca Việt là mang chở nội dung nhân sinh muôn đời và thời sự cụ
thể của thời đại trong tâm thức của chủ nghĩa nhân văn tưởng như đang bị lãng
quên tại khúc rẽ hậu hiện đại, với riêng Mai Văn Phấn trường ca Người cùng
thời như cuộc tổng duyệt các hình thức thể hiện và ngôn ngữ thơ. Cảm hứng
sử thi đã trào dâng; hồn dân tộc Việt qua các biểu tượng và truyền thống được
bay bổng. Và hai điều này luôn là “quân chủ lực” của hầu hết các vị “tướng lĩnh
trong quân khu” trường ca Việt, mà tham luận khác[3] chúng tôi đã đề nghị coi là một
“trường phái” trong thơ Việt. Nguồn phù sa của dòng sử thi hiện đại trong thời
kỳ thứ ba 1954-1986 của lịch sử trường ca Việt được bồi đắp khởi đầu có thể kể
tới Thái Giang, và được dạt dào trong suốt năm tháng chiến tranh chống Mỹ từ
Thu Bồn và Nguyễn Khoa Điềm; Hữu Thỉnh và Thanh Thảo; Trần Mạnh Hảo và Nguyễn
Đức Mậu… rồi thời hậu chiến và thời hiện đại với Thi Hoàng và Hoàng Trần Cương;
Trần Anh Thái và Nguyễn Quang Thiều… cùng rất nhiều tác giả đã có những tác
phẩm nặng kí mà chưa được dư luận để tâm thích đáng như Nguyễn Hoàng Đức và Nguyễn Thụy Kha; Lê Vĩnh Tài và Vũ Xuân Tửu…
Trong hai cảm hứng chủ
đạo đó, tác giả Người cùng thời có góp phần nhưng không nổi bật. Anh
chọn một giọng điệu trung dung. Không chỉ ngợi ca một chiều các giá trị nhân
loại và dân tộc, tác giả phê phán và đề nghị cải cách như một nhà nhân văn hiện
đại. Không làm một nhà văn hóa hậu hiện đại đay nghiến và diễu cợt thời thế ở
các mặt trái hiển nhiên của nó, Mai Văn Phấn du ca trong day dứt. Theo kiểu
Trịnh Công Sơn. Khác Phạm Duy. Đây là một biểu hiện để độc giả hiểu rằng, sang
giai đoạn hậu hiện đại tác giả này không có các chủ đề cộng đồng, xã hội hay
dân tộc, như nhiều tác giả trường ca hậu hiện đại khác ở trong và ngoài Việt
Nam.
Không hợp với tư duy
luận lý, và đặc biệt – như là một sở đoản của ngôn ngữ thi ca Mai Văn Phấn –
không “đẻ” ra các con tự, cú pháp, mệnh đề chính luận của riêng mình (xa như
Chế Lan Viên, Trần Dần; gần như Nguyễn Hoàng Đức, Trần Anh Thái), nên tác giả Người
cùng thời đã thiếu (và chắc là không có) giọng điệu tương hợp với các cụm
đề tài thời thế và thời sự bao trùm nhân loại đã được tầm nhìn cao rộng và trái
tim nhân bản mang đến. Thi sĩ ở trường ca của chúng ta như một công trình sư
hơn là một nhà xây dựng! Các tựa đề, câu thơ, đoạn thơ nào dính đến các đại tự
sự đều mang được tinh thần Mai Văn Phấn, và thiếu diện mạo Mai Văn Phấn. Cũng
chính trong Người cùng thời, ở một số tiểu khúc riêng lẻ, có cảm hứng và
nội dung ngẫu hứng, nhà thơ như thoát khỏi cái “áo giáp” sử thi, đại tự sự mà
tung tăng trần mình trong cảm giác lãng mạn và hồn nhiên ở hai đề tài làm nên
thi nghiệp: tình yêu và thiên nhiên.
Khi cần đến với các chủ
đề lịch sử và xã hội, quốc gia hay cộng đồng loài người, trong tư tưởng nhân
văn rộng lớn, nhân sinh muôn đời, hẳn người đọc chỉ muốn Mai Văn Phấn nghiêng
theo các đỉnh Tagore hay Paz, hơn là xuôi về các dòng Hugo hay Evtushenko.
Nếu chạy tiếp theo vệt Người
cùng thời, chúng tôi đoán rằng, anh sẽ không hơn các trường ca gia khác, mà
buồn hơn: sẽ thua chính mình. May thay cho thơ Mai Văn Phấn, cho thơ và trường
ca Việt Nam. Chữ “nếu” đã không xảy ra! Nỗi buồn đã không có! Chúng ta đang
vui, đang thấy: Mạch văn bản có sức chứa lớn Mai Văn Phấn vẫn chảy, như đã chảy
vào hai tập thơ Và đột nhiên gió thổi và Bầu trời không mái che.
Biết tự “bịt” mình ở thể trường ca chuẩn tắc với cảm hứng sử thi trong cấu trúc
chương hồi, đó là một chuyển biến thông minh và dứt khoát của tác giả không chỉ
ở sáng tạo trong thể loại, mà còn ở quan niệm sinh tử của một kẻ làm thơ với
câu hỏi đầu tiên và cuối cùng “Thơ là gì?”.
Có một nghịch lý nảy ra
khi chúng tôi đi tìm các lý do cách tân ở thơ và trường ca Mai Văn Phấn. Nếu
đồng ý với nhận định thú vị rằng, “Trong loại hình trữ tình, xu hướng cách tân
ở thơ bình thường có lúc tỏ ra cực đoan và nhiều bài không thể đọc thì ở trường
ca, những cách tân tỏ ra hợp lí hơn”[4] (Diêu Lan Phương), chúng ta tưởng
mảng trường ca sẽ là nơi Mai Văn Phấn thâm canh và canh tân sau Người cùng
thời.
Cuối cùng, để nhận dạng
thơ Mai Văn Phấn trong hướng trường ca chính tắc hay các sáng tác dung lượng
lớn, xin nói nhanh về thơ-dài-có-tính-trường-ca - một luận điểm mới
trong thơ và trường ca Việt Nam được đề nghị ở cuốn sách nói trên.
Như đã công bố trên một
số trang mạng, cập nhật đến 15/4/2012, khảo cứu của chúng tôi cho thấy, từ thời
Thơ mới tới nay, có khoảng 401 tác giả Việt Nam đã viết ít nhất một trường ca
hoặc một bài thơ-dài-có-tính-trường-ca, trong đó có 291 tác giả trường ca và
110 tác giả thơ-dài-có-tính-trường-ca, với tổng số khoảng 976 tác phẩm.
Với độc giả chưa đọc bài
Tác giả và tác phẩm trường ca Việt Nam, có thể
hình dung như sau: Tác giả Mai Văn Phấn (với trường ca Người cùng thời) nằm
trong con số 291 tác giả trường ca. Còn trong 110 tác giả chỉ làm thơ-dài-có-tính-trường-ca,
có các tên tuổi lớn như Chế Lan Viên, Tố Hữu, Thanh Tâm Tuyền, Hữu Loan, Tô
Thùy Yên; có những nhà thơ nổi danh như Trần Vàng Sao, Lưu Quang Vũ, Nguyễn
Xuân Thiệp, Bùi Chí Vinh, Dương Kiều Minh, Vi Thùy Linh; và có những thi sĩ nổi
bật trong phạm vi riêng như Tam Lệ, Nguyễn Thị Thanh Bình, Lê Nghĩa Quang Tuấn,
Nguyễn Thế Hoàng Linh, Lê Ngân Hằng; đặc biệt có nhà thơ Trịnh Sơn mới xuất
hiện ba năm nay với những sáng tác dài hơi giá trị.
Hai tập thơ mới của Mai
Văn Phấn được kết cấu như tổ khúc thơ, và đã có 3 bài đi vào danh
sách thơ-dài-có-tính-trường-ca của chúng tôi. Đó là: Những bông hoa mùa thu,
Cửa mẫu, và Hình đám cỏ.
Như thế, sau hơn 10 năm,
từ trường ca chuẩn tắc về cảm hứng sử thi, thể tài nhân văn, phương thức tự
sự cùng trữ tình và cấu trúc chương hồi, Mai Văn Phấn đã có sáng tạo trong
thể loại marathon của văn vần Việt Nam khi sinh ra cho trường ca Người
cùng thời hai người-em, góp phần, có lẽ quyết định, đi đến Hội thảo hôm
nay.
V. Tạm kết:
Tham vọng nhận chân thơ
Mai Văn Phấn của chúng tôi không phải chỉ ở các tiêu chuẩn nhị nguyên đối lập
(hay-dở, mới-cũ, hiện đại-truyền thống, cách tân-cổ điển, v.v…) mà là vấn đề hệ
thống và phân định.
Hiểu rằng, mỗi tác giả,
tác phẩm là một chữ, một câu trong bài-thơ-chung của nghệ thuật thi ca, chúng
tôi muốn được bình bàn mỗi tác giả của dòng-thơ-cần-giải-thích-giá-trị như
những liên-tác-giả. Luận về tác giả này cũng là ít nhiều bàn đến tác
giả khác, hay chuỗi tác giả khác, trong hoặc ngoài hệ hình. Không chỉ ở quan hệ
trong nghệ thuật thi ca; quyết định là ở các liên kết về văn-hóa-của-thi-ca.
Hiện nay, chúng tôi có
danh sách dòng-thơ-cần-giải-thích-giá-trị gồm 35 tác giả, đó là: Chân Phương,
Đinh Thị Như Thúy, Khế Iêm, Hoàng Xuân Sơn, Lê An Thế, Lê Đình Nhất Lang, Lê
Ngân Hằng, Lê Văn Ngăn, Lưu Mêlan, Mai Văn Phấn, Ngô Tự Lập, Ngu Yên, Nguyễn
Đình Chính, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Đức Tùng, Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Quang
Thiều, Nguyễn Thị Ánh Huỳnh, Nhã Ca, Phan Nhiên Hạo, Phạm Phú Hải, Tam Lệ, Thi
Vũ, Trần Khiêm, Trần Huyền Trân, Trần Thiên Thị, Trịnh Sơn, Thường Quán, Trần
Nhuận Minh, Trần Tiến Dũng, Tuyết Nga, Uyên Nguyên, Văn Cao, Vương Ngọc Minh,
và Yến Lan.
Với chúng tôi, đó là
những thi sĩ đã/đang/sẽ góp phần tạo nên hình thể thi ca Việt hiện đại, bằng
những bút pháp có một không hai của mình, và đa số ít được hoặc chưa được giới
phê bình và dư luận quan tâm tương xứng.
Ở ý nghĩa này, Mai Văn
Phấn là một trong những tác giả có một không hai, với sự cải cách đa phong cách
nhất và thuyết phục nhất của thơ Việt đầu thế kỷ 21.
Chúc mừng thi sĩ bằng Thơ
tuyển Mai Văn Phấn - một thành phẩm mới của văn chương nước nhà - đã sung
mãn về sáng tạo, thân thuộc trên truyền thông, nay đang qua ngưỡng cửa của học
thuật và nghiên cứu!
Cám ơn Hội thảo đã đón
nhận tham luận của chúng tôi, và thể tất cho những gì sai sót.
Vancouver
(22/4/2011; Tu chỉnh 15/4/2012)
Đ.Q
(Thơ
Mai
Văn Phấn và Đồng Đức Bốn, khác biệt và thành công -
Kỷ yếu hội thảo thơ tại Hải Phòng, 15/ 5/ 2011, NXB
Hội
Nhà văn, 2011).
Chú thích:
[i] Đỗ Quyên: “Về một dòng thơ cần giải thích
giá trị - Trường hợp Tuyết Nga”, vannghesongcuulong.org
9/2/2009
[ii] Khánh Phương: “Mai Văn Phấn, từ bóng tối
của im lặng, đổ vỡ…”, Báo Thể thao & Văn hoá 6/2/2004; Thơ
tuyển Mai Văn Phấn, NXB Hội Nhà văn 2011
[iii]
Trần Đình Sử: “Toàn cảnh Thi pháp học”,
lythuyetvanhoc.wordpress.com 13/9/2010
[iv]
Nguyễn Hoàng Diệu Thủy:
“Có còn vong thân?”, Phỏng vấn Mai Văn
Phấn tienphong.vn 24/2/2011
[v]
Hoàng Hưng: “Thơ – Cách Tân Và Cách Tâm”, vanchuongviet.org
21/2/2011
[1]
Ko Hyeong Ryeol: “Sáng tạo, tinh thần cho điểm đến”, Poem
and Comment Magazine 12/2010,
Tuần báo Văn Nghệ Trẻ
số 1-2/2011 & cuabien.vn
[2] Đỗ Quyên: “400 tác giả trường ca Việt Nam”, vanvn.net
2/3/2012
[3]
Đỗ Quyên: Đến trường phái thơ Việt từ cảm thức hậu hiện đại Việt”;
Tạp chí Sông Hương số
257 tháng 7/2010, và tapchisonghuong.com.vn
30/7/2010
[4]
Diêu Lan Phương: “Trường ca từ 2000 đến nay: xoá bỏ khoảng cách sử thi để gần
gũi hơn với đời sống”, Tuần báo Văn Nghệ
Trẻ số 10,
5-6/3/2011 & vanhocquenha.vn
Phụ lục:
1. Dương Kiều Minh: “Mai Văn Phấn được
bạn đọc và đông đảo giới làm thơ quan tâm, có lẽ phải lấy mốc là giải nhì
(không có giải nhất) cuộc thi thơ Tuần báo Văn nghệ năm 1995 (…) Nhưng thực tế
sáng tạo, cách tân thơ của Mai Văn Phấn lại khác. Chính những bài thơ được trao
giải lại không đại diện cho thơ Mai Văn Phấn trong thời điểm này (…) đã làm
nhiều người hướng đến thơ anh theo đặc điểm những bài thơ được giải, chứ không
theo thực trạng sáng tạo của anh. Điều này là một trong những nguyên nhân tạo
ra sự nghi ngại của người trong giới đối với sự cách tân thơ của Mai Văn
Phấn... (“Lộ trình thơ Mai Văn Phấn – 1”,
vannghesongcuulong.org 24/8/2006)
2. Nguyễn Hoàng
Đức: “Phải nói, anh đã
thể nghiệm rất nhiều bút pháp thơ từ cổ điển đến các khuynh hướng thơ hiện đại
thế kỷ hai mươi và thơ văn xuôi. Tất cả đều được cày xới, chiêm nghiệm, chìm
đắm đến nhuần nhị.” (…) Mai Văn Phấn đã trưởng thành ngòi bút mỹ học.
(…) [Đ]iều chính yếu tôi muốn bàn luận với Mai Văn Phấn (…) rất cần
thiết phải có những phương ngôn “cứng”, càng nhiều càng tốt để chúng đóng dấu
thi ca cũng như tên tuổi nhà thơ vào trái tim bạn đọc.” (“Mai Văn Phấn, ngòi bút phiêu lưu giữa những biến cố của tâm
hồn”, vietimes.com.vn 13/09/2009)
3. Inrasara: “Không thể hiểu hết
nỗ lực của Mai Văn Phấn, nếu không đặt anh và sáng tác của anh vào môi trường
xã hội và môi trường thơ hiện đại miền Bắc. Không phải trong thời gian dài sự
sáng tạo và thưởng thức thơ ấy bị bó hẹp bởi khuôn phép hệ mĩ học hiện thực xã
hội chủ nghĩa mà, đúng hơn, bởi chính quan niệm mang tính phổ quát của người
làm thơ và người đọc thơ. (…) Mai Văn Phấn là một trong rất hiếm hoi thi sĩ tự
giải thoát được mình.” (“Mai Văn Phấn, kết thúc cho một khởi đầu”,
tienve.org 17/1/2009)
4. Đặng Thân: “Lần đầu tiên
người đọc Việt Nam được đọc thơ robot, điều đặc biệt là ngôn ngữ của
chúng rất nghiêm trang. (…) Anh lẳng lặng triển khai ý đồ nhồi ngôn từ
cho robot, bắt chúng LÀM THƠ cho ra dáng con người. (…) Những ý và tứ
thơ có khả năng kích động cực mạnh. (…) Thơ Mai Văn Phấn chan chứa cả
trời vô thức. (…) Ngôn ngữ thơ ấy chưa ai từng viết.” (Mai Văn Phấn
và công nghệ cách tân thơ”, talawas.org 25/10/2009)
5. Đặng Văn Sinh: “Cảm hứng chủ đạo của Bầu trời không mái che là
vũ trụ, nhân sinh và những dạng thức khác nhau của tình yêu được phát triển
trên cái nền cổ điển thông qua ngôn ngữ siêu thực. Ngôn ngữ siêu thực là một
đặc trưng của bút pháp Mai Văn Phấn. Nó biểu hiện ở dạng thức thơ không vần,
không nhịp điệu, không đăng đối và thường đảo ngược cấu trúc ngữ pháp. Tuy
nhiên chất siêu thực của Bầu trời không mái che không phủ nhận mà là
tiệm cận thế giới khách quan...” (“Mai Văn Phấn tìm về ngọn nguồn thi ca”,
vannghesongcuulong.org 9/3/2011)
6. Dương Kiều Minh: “Ở tập thơ Hôm
sau, mỗi bài thơ là một câu chuyện (…) Có người hỏi: Đấy là sắp đặt hay là
thơ? Lại có người hỏi:
Đấy là thơ hay là ngụ ngôn?” (Hiện thực giả định và hiện thực tâm tưởng…”,
vannghesongcuulong.org
30/9/2009 )
7. Lê Vũ: “Bầu trời
không mái che”, ba phần
chia biệt nhưng là một thể thống nhất trong cái nhìn đậm
màu sắc tâm linh của Mai
Văn Phấn về thế giới mà nổi lên là mối quan hệ giữa
thiên nhiên và người,
giữa động và tĩnh, giữa sinh và tử, giữa tình và dục. (“Đọc tập thơ “Bầu trời không mái che…”,
nguyentrongtao.org
10/02/2011)
8. Phạm Quang Trung: “Người ta có thể băn
khoăn (…) bản trường ca chưa hoàn toàn tới được cái điểm mà nghệ thuật tầm cao
cần tới, nhưng rõ ràng không một ai không cảm phục cái ý muốn của Mai Văn Phấn
nhằm chiếm lĩnh bề rộng và bề sâu của thực tại bằng nghệ thuật. Theo chỗ tôi
được biết thì dường như chưa một ai, ngay cả những nhà thơ giàu tiềm lực sáng
tạo, lại dám đặt ra trước ngòi bút mình một thách thức tương tự. (Về một đặc trưng của trường ca qua Người cùng thời,
pqtrung.com 25/10/1999)
9. Dương Kiều Minh: “Đặc trưng thơ Mai Văn
Phấn ở giai đoạn thứ hai tập trung ở trường ca Người cùng thời. Trường ca này
chứa đựng tất cả các hình thức thơ anh đã sáng tác trước đó, đồng thời cũng
xuất hiện ở một số chương những hình thức thơ mới, những cấu trúc câu, nhịp
điệu, ý tưởng khác biệt, những kết cấu mảng khối bị phá vỡ... “ (“Lộ trình thơ Mai Văn Phấn – 1”,
vannghesongcuulong.org 24/8/2006)