Mai Văn Phấn: Ra đi sau TIẾNG --- KẸT --- CỬA (phê bình) - Inrasara
Mai Văn Phấn: Ra đi sau TIẾNG --- KẸT --- CỬA

Inrasara
Con người luôn chịu tác động bởi hoàn cảnh: môi trường tự
nhiên, gia đình và xã hội, nền giáo dục, tiếng nói, các cuốn sách đã đọc… Chúng
như thứ lực lượng vừa hữu hình vừa vô hình khuôn định ta, khó lòng trốn thoát.
Rồi, chính ta trở thành một lực lượng khuôn định lại mình, và kẻ khác. Như cuộc
sống trong kho: ta vừa là kẻ cư trú, đồng thời là kẻ giữ kho. Dù của nả trong
ấy không là bao, chưa là bao, ta cứ giữ rịt nó.
Nhưng một phần bản chất của cuộc sống là phiêu lưu, phiêu
lưu tìm cái mới, lạ. Trong suốt lịch sử nhân loại, từ cộng đồng giữ kho ấy,
không kể xiết con người xé rào vượt ra ngoài khuôn định. Khai vỡ vào miền vô
định. Rồi từ trùng khơi xa lạ đầy bất trắc, họ chở về quê hương bao của cải. Để
nhập kho.
Trong các loài thường xuyên xé rào ấy, thi sĩ là một.
Trong nền thơ chúng ta hôm nay, không ít kẻ đã xé rào ra
đi như thế. Mai Văn Phấn là một.
*
Hiếm nhà thơ nào hôm nay dứt áo với quá khứ vừa đau đớn,
nhọc nhằn vừa khó khăn như Mai Văn Phấn. Bỏ làm thơ trong thời gian dài, mãi
năm 37 tuổi anh mới xuất hiện trở lại. Các tập thơ: Giọt nắng (1992), Gọi
xanh (1995), Cầu nguyện ban mai (1997), Nghi lễ nhận tên
(1999), trường ca Người cùng thời (1999); các giải thưởng: Giải Nguyễn
Bỉnh Khiêm (Hải Phòng) liên tục những năm 1991, 1993, 1994, 1995, Giải thơ báo Người
Hà Nội (1994), Giải thơ báo Văn nghệ (1995)… đủ cho anh một tên
tuổi, dọn cho anh một chỗ ngồi đường hoàng trên chiếu văn. Những tưởng anh “yên
bề” vị trí, nhưng không!
Nhìn lùi lại, Mai Văn Phấn vỡ ra rằng nó như một thiếu
khuyết, nó vẫn chưa nói được tiếng nói của hôm nay. Chối bỏ nó, anh muốn tìm ra
giọng điệu của anh, của chính thế hệ anh.
Sau thành tựu của Thơ Mới, thơ Việt tiếp bước bằng nhóm
Xuân Thu Nhã Tập, thơ hiện thực xã hội chủ nghĩa, thơ của nhóm Sáng Tạo ở miền
Nam…[1] Còn
hôm nay, và cả ngày mai nữa? Thi ca Việt Nam đang đứng ở đâu, và sẽ về đâu?
Không một nhà thơ ý thức nào không đặt ra câu hỏi đó với mình. Bằng bản năng
thi sĩ, Mai Văn Phấn dự cảm “mùa thu” vừa rớt lại, mùa xuân đang tới, và “mùa
hạ rất gần”:
Đừng hát nữa lời ca thành thán khí
("Mùa hạ rất gần")
Và anh ra đi.
Ngay ở trường ca Người cùng thời, [2] chúng
ta thấy anh đã khăn gói cho công cuộc khai mở nhọc nhằn kia. Bằng mày mò trộn
lẫn nhiều thể thơ: thơ xuôi, tự do, lục bát và cả… vè nữa! Đậm nổi hơn khi qua Vách
nước.[3] Nhưng
ngôn ngữ thơ anh vẫn còn loay hoay bao lấm láp màu đất đồng quê, rơm rạ:
lưỡi cày, sá cày, mùi ruộng ải, tiếng cuốc, chiếc sừng
trâu, phận hoa bìm, dấu chân liềm hái, mắt rạ rơm, lưỡi cỏ, thớ đất…
Mai Văn Phấn như kẻ ra đi mà vẫn còn ngoái lại, như thể
nuối tiếc cái quen thân. Nó là một phần máu thịt anh, một góc đời anh. Không dễ
gì bứt ra một sớm một chiều.
*
“Cuộc chiến tinh thần cũng tàn khốc như trận đánh của bọn
đàn ông với nhau” – A. Rimbaud.[4] Mai
Văn Phấn cũng đã trải nghiệm cuộc chiến như thế, có lẽ. Đó là cuộc tương tranh
giữa quán tính và “không quán tính”, giữa tù đọng và chuyển dịch, đóng và mở,
trì níu mặt đất và phiêu lãng bầu trời… Giáp mặt “sự ù đặc hôm nay”, anh biết
tư tưởng, tâm hồn, thi ca chúng ta đang “ướp đông”, “đông cứng”, không hoặc có
rất ít dấu hiệu chuyển động:
Bức tường và cánh cửa vẫn đóng
("Dấu vết")
Ừ, thì có “mở”, nhưng mở hờ, hay giả vờ mở. Hoặc đã mở,
nhưng tư duy thơ chúng ta vẫn đóng; nữa: nó mới he hé thôi mà ta cứ ngỡ/yên tâm
là đã mở to lắm rồi. Hệ quả: thơ hôm nay mới cục cựa chứ chưa chuyển động, mới
rón rén tam cấp cách tân chứ chưa dám bước những bước vạm vỡ về phía trước! Nỗi
cục cựa, rón rén có mặt khắp: ở tôi, ở anh, ở tất cả chúng ta. Nhất là ở chính
Mai Văn Phấn. Một cảnh tỉnh đầy tính trí thức:
Trong hốc lặng
tôi
im trôi với bao người.
("Im trôi")
Im trôi với tư duy thơ cũ, thi pháp mòn cũ. Đồng lõa mà
im trôi.
Nhà thơ sinh nơi một làng quê nghèo ven biển, đang sống
và làm việc trong một thành phố còn chưa phát triển này như đang mặc tấm áo
chật, vừa chật vừa ướt nên, rất khó cởi bỏ. Chính tấm áo làm thành định phận
của anh, và cả thơ anh. Anh mơ một lần được nghe rền vang tiếng kẹt cửa! Tập
thơ bắt đầu bằng bài: "TIẾNG ––– KẸT ––– CỬA".
tiếng kẹt cửa réo vang
mở con đường.
Trong thế hệ anh, giữa bao kẻ dừng lại với vòng hoa cũ,
Mai Văn Phấn dám tìm/đối mặt thách thức: “được quyền nghĩ những điều đã ước”,
vạch “nhịp điệu vẽ lối đi”, “đợi mùa”, cả “ước phục sinh”.
Và, đây kia đã thấy thơ anh vặn mình khởi động trước
TIẾNG ––– KẸT ––– CỬA.
Không phải vô cớ, mở xuất hiện dày đặc trong Vách
nước: cánh cửa bật mở, mở cổng, mở vòm ngực rộng, ngực
ai mở lớn, mở toang ngực, mở con đường, đất mở, đất
hoang vừa mở, dấu giày mở, mở cơn lốc, cờ phướn mở,
gói bọc được mở ra, tay mở những bờ mùa, trẻ con mở viện
bảo tàng, lời vô nghĩa mở ra tưởng tượng …Cả các hạn từ hàm nghĩa tương
đương: nở bung, bật tung, bung rã, cửa phá bung, vỡ, bùng vỡ…
Mỗi nhà thơ luôn bị ám ảnh, dằn vặt bởi một số từ, có khi
chỉ vài từ. Lặp đi lặp lại, từ bài này sang bài khác, tập này qua tập khác. Ở
Mai Văn Phấn, là: cửa, mở, vỡ...
*
Có CỬA (cửa, khe cửa, kẹt cửa, cánh cửa… ), có đóng mới
có mở.
Mai Văn Phấn đã nhọc mệt lên đường.
Và anh liên tục gõ.
Với thái độ của vị cao tăng mà thiền sư Lâm Tế (?) đã
nhạo báng: Mai Văn Phấn miệt mài gõ từng nhà một, cả “gõ cửa căn nhà một hành
khất khác đi xa”[5]: những
Hiện thực và Hiện thực huyền ảo, Siêu thực hay Tượng trưng, cả trường Thơ
Trương nở hay Hậu hiện đại…. Tội nghiệp cho anh (và cho cả chúng ta): luôn thân
phận hành khất trong cuộc đời, trong tích luỹ tiệm tiến tri thức, trải nghiệm
lại con đường mòn thiên hạ đã qua. Đó là định mệnh của nền thơ chúng ta, xưa
nay. Mỉa rằng đó là thứ đám mây mù của bạt ngàn trào lưu văn chương Tây phương
đã chết đuối tận chân trời nào xưa lắm, thì không gì dễ hơn. Ở góc nhìn nào đó,
những đám mây kia vẫn làm nên phù sa cần thiết cho dòng sông thi ca chúng ta!!!
Làm như chúng ta chưa từng học Đường luật trễ gần 300 năm, học Trường Lãng mạn
và Hiện thực Pháp muộn đến cả thế kỉ!
Thi ca chúng ta phải thế, nếu không muốn: bệnh!
"Nhịp điệu vẽ lối đi" (phần 1, Vách nước)
vừa là di chứng một tiếng nói mê sảng của kẻ còn mắc kẹt dưới những đổ vỡ và
thất vọng của/với xung quanh, đồng thời ghi nhận một cựa mình quẫy đạp giữa
đống gạch vụn. Sau cuộc chiến, người ta thấy la liệt những: phong kín, mê
sảng, tái sinh, phục sinh, vong linh, kí ức, trí nhớ, huyệt mộ, u mê, hốc mắt,
oan khiên, sám hối, mặt trời mù, thác loạn, quánh đặc, nỗi kiếp côn trùng…
Ở đó loáng thoáng dấu chân của những kẻ đồng hành vừa đi qua: của Trần Tiến
Dũng, … chẳng hạn. Nhưng, không sao cả!
Để đi hết cuộc hành trình, anh đã không thể khác!
*
Khác với thế hệ nhà thơ khuynh hướng cách tân cùng thời:
nếu Trần Tiến Dũng rời Khối động, Hiện, hành hương về miền sông
nước Tây Nam bộ, tái khám phá kí ức tuổi thơ trong Bầu trời lông gà lông vịt [6], thứ
kí ức khả năng cứu vớt linh hồn thi sĩ giữa sôi động rậm rịt của thường nhật
Sài Gòn hiện đại; hay Nguyễn Quang Thiều “trốn lo âu về lại cánh đồng”, cày xới
tiềm thức và liên tục vỡ hoang trên mảnh đất quê hương để tìm Nhịp điệu châu
thổ mới [7]; Mai
Văn Phấn không chạy trốn, không hành khất nữa, anh đóng cửa nhốt mình trong
thành phố lặng (lần đầu đến Hải Phòng vào mùa xuân năm 2002, ấn tượng đậm nhất
của tôi về nó: ít náo nhiệt và thiếu sôi động!). Và như vị cao tăng kia, anh
bắt đầu thực hành công án do chính anh tự tạo. "Mười bài tập mùa xuân" ghi nhận nỗ lực không
mệt mỏi ấy.
Anh thực hiện công án-thơ trong bao lâu? Mười tháng? Mười
năm hay mười kiếp? Hoặc chỉ trong sát-na? Ở đây thời gian không còn là tiêu
chuẩn đo lường. Mười bài tập (Tập viết trước tờ giấy trắng? Tập bập bẹ A –
B – C hay tập nói lại ngôn ngữ thiêng liêng ban đầu?) không dấu phẩy dấu chấm,
không xuống dòng viết hoa. Mười bài như mười hơi thở, thở vào nội tâm ta và thở
ra vô cùng. Tất cả im bặt chỉ còn lại hơi thở có mặt, hơi thơ và hơi thở.
Mai Văn Phấn có chứng ngộ được gì không? Với tôi, ở một
mức đôï nào đó – có.
Đất rùng mình. Sông chảy. Ngàn vạn đọt mầm từ
thân thể nở bung.
( "Anh anh em em..." )
Đẹp hơn tưởng tượng
nơi đỉnh đầu thế giới
tiếng nổ gọn
bắt đầu vết nứt
ló rạng những tượng đài
câm lặng
đâu đó vang lên từng ý nghĩ.
("Không quán tính")
Sau tiếng ––– kẹt ––– cửa, Mai Văn Phấn bất chợt bắt gặp
giọng nói của mình: "Biến tấu con quạ" là bài thơ hay, mới. Không
mảy may dấu vết cử chỉ hay dáng điệu ở đây. Nhịp thơ đi nhanh, gấp, dứt khoát.
Hơi thơ khoẻ khoắn. Biến tấu giúp nhà thơ quyết toán phận hành khất: anh vừa
tìm được bản lai diện mục-thơ của/cho mình.
*
Mừng cho Mai Văn Phấn: miệt mài hành khất, tu tập, tìm gõ
– trong nỗi he hé kia, thơ anh đã vỡ tiếng, và anh đạp cửa bước ra ngoài! Vách
nước đánh dấu sự vỡ và đạp ấy. Còn sau đó? Anh có dũng mãnh thõng tay đi
vào chợ [thơ], thong dong giữa miền cuộc đời [thơ] không, thì chúng ta không
biết được. Hi vọng rằng, sau bao nhọc nhằn cơ khổ, anh không còn vướng víu
triền phược bởi những ẩn dụ (vẫn còn khá dày rậm trong Vách nước), những
lớp sơn tu từ tế vi hay to tát. Để thơ có thể đạt đến độ trong suốt của tư duy,
trực tiếp của hành ngôn, giản đơn của lời.
Bao giờ?…
dòng sông vừa chảy
vừa sinh nở.
("Đất mở")
I.R.S.R
Sàigòn, 17.03.2004.
(http://tienve.org)
__________________
[1]Riêng về các thi pháp có đóng góp cách tân trong thơ
Việt, nói khái quát thế. Bởi ở mỗi khuynh hướng có vài giọng thơ khác nhau,
đóng góp mức độ nhiều ít khác nhau.
[2]Mai Văn Phấn, Người cùng thời, Nxb. Hải Phòng,
1999.
[3]Mai Văn Phấn,Vách nước, Nxb. Hải Phòng, 2003.
[4]A. Rimbaud, Một mùa địa ngục, Huỳnh Phan Anh dịch,
Nxb. Văn học, Hà Nội, 1997, tr.88.
[5]Inrasara, Sinh nhật cây xương rồng, Nxb Văn Hoá
Dân Tộc, Hà Nội, 1997.
[6]Tên các tập thơ của Trần Tiến Dũng.
[7]Tên một tập thơ của Nguyễn Quang Thiều.