'Thời tái chế' - thời con người là nô lệ của đồ vật (phê bình) - Diễm Hương
'Thời tái chế' - thời con người là nô lệ của đồ
vật

Diễm Hương
“Thời
tái chế” khẳng định dấu ấn thi pháp độc đáo trong sự kết hợp hài hòa với những
suy niệm về quá trình mục rữa của thế giới hiện đại.
“Thời
tái chế” - tập thơ mới nhất của Mai Văn Phấn (nhà thơ được giải thưởng văn học
Cikada 2017 của Thụy Điển) - mới được xuất bản song ngữ, với phần dịch sang
tiếng Anh bởi Nhat-Lang Le và Susan Blanshard. Cuốn sách phản ánh một hiện
thực, một nghịch lý của đời sống hôm nay. Các cuộc cách mạng công nghiệp (được
coi là mốc phát triển của nhân loại) thường khiến cho con người ngày càng sở
hữu nhiều đồ vật hơn; điều đó khiến con người có thêm đặc quyền: quyền vứt bỏ
đồ vật. Nhưng trong “Thời tái chế”, câu chuyện diễn ra ở chiều ngược lại: Con
người bị đồ vật bỏ rơi; hoặc có thể nói con người bị biến thành đồ vật.
“Thời
tái chế” thuộc thể loại trường ca nhưng lại được trình bày như một tiểu thuyết
ngắn. Tác phẩm chia làm chín chương, lần lượt có các tiêu đề như sau: Điểm
nhìn, Thẫm đỏ, Sân khấu, Lối rẽ, Đồ tể, Đối thoại, Mô hình, Giấc mơ, Kết nối.
Thông qua đó, nhà thơ cho thấy sự biến hóa đa dạng trong bút pháp qua từng
chương.
Khi tiến
hành trò chơi giữa các hình thức qua mỗi chương như thế, Mai Văn Phấn dường như
đã thiết lập được một cấu trúc tương tự truyện khung (frame story). Nhưng ở
đây, không phải là truyện lồng trong truyện mà là thể loại lồng trong thể loại.
Tập
trường ca ôm lấy kết cấu tiểu thuyết trong chín chương, mỗi chương lại ôm lấy
kết cấu truyện ngắn trong từng phân đoạn, truyện ngắn trong từng phần đoạn đến
lượt nó lại như vòng tròn nhỏ nhất trong chuỗi vòng đồng tâm ôm lấy cái hạt cốt
lõi, nguyên sơ nhất là thơ ca. Từ chương mở đầu đến chương kết thúc của “Thời
tái chế” như một hành trình đi từ sự mơ hồ của thơ đến sự sáng rõ của văn xuôi.
Các
chương đầu miên man trong những hình ảnh vừa trừu tượng, vừa cụ thể, khiến ta
không thể tìm được mối nối giữa các sự kiện tưởng chừng dễ nắm bắt - có phần
nào gợi nhớ đến hình thức thơ văn xuôi. Nhưng đến chương 3 tác giả tường thuật
một vở kịch nhân sinh từ lúc đêm diễn chuẩn bị bắt đầu đến khi màn nhung đã
buông xuống; bằng những câu ngắn gọn, nhịp điệu nhanh, miêu tả chi tiết nhưng
từ ngữ giản dị. Chương này phần nào mang hơi hướm của kĩ thuật viết kịch bản
phim: chỉ thuật lại những gì mắt thấy tai nghe, không đi sâu vào nội tâm nhưng
thông qua hành động, tâm tư của nhân vật sẽ được bộc lộ.
Chương 4
kể câu chuyện về một người con gái chờ đợi người yêu đi mãi không về lại mang
dáng dấp của một truyện ngắn. Phần mở đầu tường thuật lại câu chuyện với bước
nhảy thời gian nhanh chóng chỉ trong hai câu ngắn gọn khiến ta liên tưởng đến
cách kể của truyện cổ tích: “Người con gái ấy chờ đợi người con trai ra đi và
mãi không về. Chị đã thành một bà lão già nua, run rẩy”. Phần tiếp theo là đối
thoại giữa đôi tình nhân về tự do và lí tưởng. Phần kết lại mang tính sử thi
với hình ảnh biểu tượng về con thuyền lật úp.
Chương 5
kể những câu chuyện về bảy (loại) người đồ tể khác nhau. Họ được định hình qua
những tình huống biến họ thành phi nhân, rồi từ đó, họ như bị đóng băng thành
một mẫu vật tiêu biểu để trưng bày vào đúng thời điểm chữ được viết xuống. Nghệ
thuật nắm bắt khoảnh khắc, biến cái cụ thể thành cái tiêu biểu trong dung lượng
câu chuyện vỏn vẹn chừng trăm chữ ở chương này khiến ta nhớ đến thể loại truyện
cực ngắn.
Chương 6
được viết dưới hình thức năm mẩu đối thoại tựa một vở kịch. Chương 8 và 9 lại
là một cái kết trọn vẹn khi quy hồi về tự sự trữ tình như chương 1 và 2, một
cấu trúc vòng tròn cho thấy vạn vật tự nhiên và cả con người, cho dù có bị suy
hóa và băng hoại đến đâu, cuối cùng cũng sẽ tìm được điểm cân bằng.
Mai Văn
Phấn được xem là gương mặt thơ ca tiêu biểu của Việt Nam trong 20 năm qua bởi
những nỗ lực cách tân không mệt mỏi. Ông là nhà thơ có ý thức học hỏi những nền
thơ ca hiện đại đi trước, sẵn sàng thu nạp kỹ thuật của các trường phái, triết
thuyết để thử nghiệm làm mới, làm khác biệt tác phẩm của mình.
Thơ ông
nghiêng về lý trí, điêu luyện về dùng chữ, tân kỳ trong áp dụng các kỹ thuật
trường phái thơ ca khác nhau; xử lý hài hòa giữa thành tựu thơ ca truyền thống
và sự cách tân hiện đại. Mai Văn Phấn đang hướng đến một giọng thơ dựa trên
thẩm mỹ quan cá nhân độc lập. Cảm quan thơ ca của ông chỉ ra tính bất khả xâm
phạm của đời sống.
(Nguồn:
Zing.vn)
