Mai Văn Phấn và hình ảnh “con dê” đầy biến ảo - Mai Văn Phấn y su cabra prudentísima (phê bình - ensayo) - Víctor Rodríguez Núñez
Mai Văn Phấn và hình ảnh
“con dê” đầy biến ảo

Nhà
thơ Víctor Rodríguez Núñez
Maivanphan.com: Lúc sinh thời, cố dịch giả, họa sĩ Phạm Long Quận (1963-
2019) đã dịch gần 200 bài thơ của tôi sang tiếng Tây Ban Nha. Từ cuối năm 2019,
nhà thơ Víctor Rodríguez Núñez (Hoa Kỳ - Cuba) đã dành thời gian biên tập; đồng
thời, ông đã cùng dịch giả Katherine M. Hedeen (Hoa Kỳ - Cuba) dịch thêm 3
chương trường ca “Thời tái chế” của tôi từ bản tiếng Anh của Lê Đình Nhất-Lang,
do Susan Blanshard biên tập. Víctor Rodríguez Núñez đã tập hợp những bài thơ
tiếng Tây Ban Nha này thành tuyển tập và đặt tiêu đề “Esto dijo una cabra” (“Lời
con dê”). Tuyển tập thơ gồm 4 phần: I - "La flor velada" (Hoa giấu
mặt), II - "Ojos sesgados" (Con mắt nghiêng), III - "A techo
descubierto" (Bầu trời không mái che), IV - "La edad de la
basura" (Thời tái chế). Tuyển tập thơ “Esto dijo una cabra” (“Lời con dê”)
dự kiến ấn hành vào cuối năm 2021 tại Hoa Kỳ và Tây Ban Nha. Nay xin gửi tới
các bạn yêu thơ bài viết “Mai Văn Phấn và hình ảnh “con dê” đầy biến ảo – Mai
Văn Phấn y su cabra prudentísima” của nhà thơ, nhà phê bình văn học, dịch giả Víctor
Rodríguez Núñez qua bản dịch của Hoàng Thị Kim Thoa.
Xin kính cẩn thắp nén tâm hương tưởng nhớ và biết ơn cố dịch giả, họa sĩ Phạm
Long Quận!
Trân trọng cảm ơn các nhà thơ-dịch giả Víctor Rodríguez Núñez, Lê Đình
Nhất-Lang, Susan Blanshard, Katherine M. Hedeen đã dành nhiều thời gian và tâm
huyết dịch thơ của tôi sang tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha!
Trân trọng!
Mai Văn Phấn
Mai Văn Phấn và hình ảnh
“con dê” đầy biến ảo
Víctor Rodríguez Núñez
Hoàng Thị Kim Thoa dịch từ
tiếng Tây Ban Nha
“Dê núi luôn tìm về núi”. Đó là câu tục ngữ cổ xưa tiếng Tây Ban Nha có
nguồn gốc từ đời sống thôn quê trước Thời đại Lý tính (ngay trước Thời kỳ Khai
sáng – ND). Ý nghĩa nổi bật nhất của câu tục ngữ ấy là, chúng ta rõ ràng không
thể trốn tránh được hoàn cảnh của bản thân, không chỉ có gốc gác mà còn cả số
phận. “Con dê” trong thơ của Mai Văn Phấn (Ninh Bình, đồng bằng sông Hồng, miền
bắc Việt Nam, 1955) mong muốn được trả tự do, không bị “hóa kiếp” để có thể
“tìm về núi” (“Lời con dê”). Đó là một phép ẩn dụ mạnh mẽ trong thế giới chúng
ta, nó đặt ra câu hỏi về quyền ngụy biện của con người trước thiên nhiên và tội
ác tàn bạo thời hiện đại. Đúng vậy, có một thứ gì đó thật hoang dại và bất khả
quy đang thách thức khả năng con người, nền văn minh bị gọi sai tên và được bộc
lộ ngay từ thời điểm đầu tiên. Bất kỳ sự tương đồng nào với cơn ác mộng của thế
giới mà đại dịch Covid19 đang gây ra với mức tăng lịch sử và hơn ba triệu người
đã chết, tính đến thời điểm hiện nay, đó hoàn toàn không phải là sự trùng hợp.
Đây chính là điểm hạt nhân của tác phẩm có sức nặng này, và của thơ ca Việt Nam
đương đại, nơi có sự dung hòa giữa truyền thống và cách tân, giữa tôn giáo và ràng
buộc, giữa lý tưởng và cảm xúc, giữa hình ảnh và nhịp điệu.
Thơ Mai Văn
Phấn không mộc mạc, mà nó kết tinh từ những mối quan tâm tới thiên nhiên, xã
hội và hệ tư tưởng, trong đó đặt ra các giả định dưới cái nhìn phê phán. Phần
đầu tập thơ, có tên “Hoa giấu mặt”, chủ thể cho rằng sự chiêm nghiệm không hề
bị động mà phải chủ động (“Đêm đầu năm” – tên bài thơ của MVP - ND). Quá trình
này bắt đầu từ một hình ảnh cụ thể (“Chân bấm đất”), tuy nhiên cái trừu tượng vẫn
tồn tại tương đối độc lập (“Giống tiếng pha-lê vỡ”). Thế giới là một kết cấu
của những mối quan hệ trong sự đổi mới liên tục ("Đứa trẻ", "Sương"),
nơi không có biên giới giữa mơ và thực ("Tỉnh thức", "Đàn
dơi"), và cho thấy một sự thống nhất cần thiết ("Ngày mùa”, “Chạng
vạng”). Đặc trưng thể hiện ở phần cuối bằng đoạn đối thoại với tính chất riêng
biệt ("Còn ngủ"), thậm chí có thể đạt đến sự hợp nhất ("Thưởng
trà"). Theo dòng chảy thời gian của nhân loại, có thể thấy những bài thơ
này như đang than thở về sự mất mát ("Thắp hương cha") và cái chết
("Ngày giỗ cha"), ca tụng sự khêu gợi như một lẽ tự nhiên và không mang
cảm giác tội lỗi ("Miếng dưa hấu", "Chạng vạng" ) và thể
hiện một tín ngưỡng tôn giáo cơ bản ("Giờ nguyện",
"Sát-na", "Phật tính").
Ở đây tôi
không có ý “bóc tách” những bài thơ trữ tình của Mai Văn Phấn, mà chỉ muốn
chứng minh cho sự say mê của tôi với tư cách một người đọc. Trong phần
"Hoa giấu mặt", thơ không được hiểu là một thực thể nhân tạo
("Tắm xong") và đọc bài thơ còn như được hít hà hương thơm của hoa
("Hoa mận trắng"). Nhưng không phải tất cả đều rõ ràng, có những
khoảnh khắc mà ta không thể hiểu được ý nghĩa của thiên nhiên (“Tiếng cá
quẫy”). Đôi khi ta đứng trước một bài thơ của hiện hữu (“Mưa bụi”), của hiện
tại (“Vẫn trẻ thơ”), của nơi ấy và ngay lúc ấy (“Phố nhỏ”). Và cả lúc nào đó ta
đứng trước một bài thơ của thực tại (“Sáng nay”) được viết lên phía sau của
dòng chảy thời gian đã trôi qua (“Ngày mới”). Lời thơ không bó buộc với những
dấu vết của trải nghiệm ("Tự do") và bao gồm cả trí tưởng tượng
("Thanh minh"). Thêm vào đó, cái khéo léo (“Hoa lồng đèn”, “Đơn
giản”) còn song hành với cái dịu dàng (“Đám mây bông”), cái duyên dáng (“Khai
phóng”) đi đôi với sự mỉa mai (“Xem ruồi bay”). Về lý thuyết và thực tiễn, thơ
ông đã khẳng định sức sáng tạo với dấu chấm lửng ("Khúc cảm",
"Hơi thở nhẹ") và hình ảnh ("Cụ già", "Nửa đêm tỉnh
dậy").
Với “Con mắt
nghiêng”, phần hai trong tuyển tập này của Mai Văn Phấn, có sự liền mạch nhiều
hơn là ngắt quãng. Một thế giới vượt ra cả bên ngoài và độc lập với ý thức của
chủ thể thơ được công nhận và phát triển từ sự mâu thuẫn (10, 43). Và thế giới
đó tự thể hiện chính nó, bài thơ dẫn dắt một cách khách quan với chất liệu nói
lên tính chất tuyệt đối (65). Tuy nhiên, sự khiêm tốn của cái tôi trữ tình
không phải là sự giấu kín hoàn toàn, nó tồn tại và len lỏi trong một diễn biến
tự nhiên (5), chủ động chiêm nghiệm lại một lần nữa (91). Như câu thơ 88:
"Trời tối/ Con chuột và tôi/ Băng qua đường", ở đây, hành động của
chủ thể thơ là công cụ tri thức, nó bộc lộ những mối quan hệ tiềm ẩn của bản
thể (44, 71, 80). Điều này có thể thấy trong câu thơ của bài số 9: "Con
bướm đậu/ Hạt mưa/ Tập vỗ cánh." Ở đây, nhà thơ của chúng ta sử dụng phép
ẩn dụ (56), dấu chấm lửng (23) giúp lời thơ trở nên đầy đủ hơn, tinh tế hơn.
Đây cũng đều là những bài thơ ba câu, nhưng lần này lại không có tiêu đề mà chỉ
được đánh số. Tôi cần phải nhấn mạnh rằng đây không phải thơ haiku, mà nó thể
hiện một phong cách khác trong nền thơ Việt Nam.
Các tác phẩm
thơ ca xuất hiện ở Việt Nam trong thời kỳ lệ thuộc vào Trung Hoa, kéo dài từ
năm 111 trước Công nguyên đến năm 939 sau Công nguyên. Mặc dù người ta sử dụng
tiếng Trung, nhưng các nhà thơ Việt Nam lại thành công trong việc thể hiện theo
cách riêng, trình hiện cái khác biệt của họ. Sau khi giành được độc lập, trải
qua thời kỳ phong kiến và các cuộc nội chiến, đánh bại cuộc xâm lược của quân
Nguyên, đất nước mở rộng về phía nam và giành được thống nhất. Năm 1282, ngôn
ngữ quốc gia được hình thành, theo đó tiếng Việt bản ngữ được thể hiện bằng các
ký tự cổ điển của Trung Hoa, gọi là Chữ Nôm ("chữ viết của phương
Nam"). Ngôn ngữ mẹ đẻ này phát triển toàn diện vào thế kỷ 15 với tác phẩm
của thi hào Nguyễn Trãi (1380-1442). Chữ Nôm do Vua Lê Thánh Tông (1442-1497),
người đã lập ra Trường đại học đầu tiên ở Việt Nam. Tại đây đã cho ra đời những
tuyển tập thơ nổi tiếng bằng chữ Nôm, vốn là ngôn ngữ chính của Việt Nam cho
đến thế kỷ 19. Các nhà thơ viết cả chữ Hán và chữ quốc ngữ, trong số đó có
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), Đặng Trần Côn (tác giả trường ca "Chinh phụ
ngâm", 1741), Nguyễn Du (1765-1820, người viết tác phẩm thơ nổi tiếng
"Truyện Kiều"), và nữ sĩ đáng nể phục Hồ Xuân Hương (1772-1822).
Năm 1883, một
hiệp ước được ký kết giữa Việt Nam và Pháp đánh dấu sự kết thúc nền độc lập
trong nước. Vào đầu thế kỷ 20, việc sử dụng bảng chữ cái La Mã đã được áp dụng.
Hệ thống chữ viết mới này được gọi là chữ “quốc ngữ”, cùng với sự tiếp xúc với
các tư tưởng và thi pháp phương Tây đã đặt một dấu mốc cho nền thi ca Việt Nam.
Bắt đầu từ những năm 1930, thơ mới bằng chữ quốc ngữ chiếm ưu thế trên văn đàn.
Hoạt động thơ ca bị ảnh hưởng bởi chiến tranh thế giới lần thứ hai do cuộc xâm
lược của Nhật Bản, sự chiếm đóng của quân đội Trung Quốc và Anh. Nhưng càng về
sau, nó lại bùng lên mạnh mẽ, khi chữ quốc ngữ không chỉ phát triển thành ngôn
ngữ hiện đại mà còn trở thành linh hồn của người Việt. Hoạt động thi ca phát
triển mạnh giữa cuộc kháng chiến đẫm máu chống Pháp và Mỹ xâm lược (1955-1975).
Những bài thơ theo xu hướng hiện đại nhất của Mai Văn Phấn được xuất hiện
trong phần ba “Bầu trời không mái che” của tuyển tập thơ này. Dù vẫn nhắc lại
những thông điệp chính của những phần trước đấy, nhưng cái nhìn đã chuyển từ tự
nhiên sang nhân tạo ("Làng"), và những trật tự của thực tại cuối cùng
đã hợp nhất ("Không thể tin"). Dù không cần nhấn mạnh nhưng chắc chắn
ý thơ ám chỉ đến cuộc chiến tranh tàn khốc chống lại sự xâm lược của Pháp và Mỹ
qua các bài thơ "Biến tấu đêm mưa", "Mùa hạ rất gần",
"Biến tấu con quạ"... Điều đáng nói là không có một ý thơ nào lý
tưởng hóa quá khứ hay hiện tại, và ý nghĩa duy tâm cũng suy giảm đáng kể. Hơn
nữa, chủ thể thơ không bao giờ tự cho mình là anh hùng hay phản anh hùng. Điểm
nổi bật nhất là yếu tố phản biện xã hội, mang tính chất đạo đức hơn là chính
trị ("Bài học"), nhìn chung đều có giọng điệu sắc bén, có thể nói
kiểu Brechtian*: "Con gián và tôi từ giờ sòng phẳng" ("Chuyện
còn dài”).
Như tiêu đề của một trong những bài thơ đã nói đến, nhiệm vụ quan trọng
của nhà thơ là phải "Nhìn gần." Tức là phải có một tầm nhìn tách biệt
rõ ràng thế giới, đặt ra các quy ước xã hội và văn hóa thách thức bất kỳ quan
điểm nào có liên quan trong thực tế. Đặc biệt là tạo nên sự trỗi dậy mạnh mẽ
chống lại những nỗ lực đặt ra các hạn chế trong việc bộc lộ cảm xúc (“Chỉ là giấc
mơ”, “Biết thì sống”). Theo chủ thể thơ, phải nói ra nhiều điều, không như là
người câu cá “chất ngất những con cá đen/ Gió móc vào ông lưỡi câu có ngạnh” (“Giả
thiết cho buổi sáng hôm sau”). Để tôn vinh vai trò phản biện của một trí thức
và đối chọi với “Còn cậu hãy đứng đằng kia”, kiểu thơ đối thoại đã được sử
dụng. Bằng cách này, diễn ngôn thơ không còn là độc thoại mà đã vang lên những
giọng điệu khác ("Nghe em qua điện thoại").
Tuyển tập thơ
của Mai Văn Phấn kết thúc bằng ba chương trường ca thơ văn xuôi, có tiêu đề
“Thời tái chế”. Có thể nói đây là thể loại hiện đại nhất trong các tuyển tập vì
tồn tại một nét truyền thống theo thể thức này trong thơ ca Việt Nam vốn đã có
từ tác phẩm của Mạc Đĩnh Chi (1272-1346). Dòng sông đỏ máu cũng chảy qua những
áng thơ văn xuôi này mà Nguyễn Du (1766-1820) đã phân tích, so sánh những vùng
đất chết chóc với vùng đất sống. Ở đây yếu tố tâm linh được cô đọng, đặc tính
tôn giáo đồng nhất các loại hình khác nhau của dân tộc Việt Nam cũng được phân
biệt trong sự pha trộn với Nho giáo, Lão giáo và Phật giáo. Trong "Thẫm
đỏ", tác phẩm hào hùng nhất, cuộc chiến tranh giải phóng không được tập
trung nói đến mà chỉ "chiếm lại không gian dĩ vãng”. Không gian duy tâm
trong “Giấc mơ” không thể mãnh liệt hơn, chủ thể chỉ đi tìm kiếm cảm giác “hạnh
phúc như cá bơi trong biển hồ và chim chóc trên không”. Và trong "Kết
nối" - bài thơ văn xuôi đáng để nhắc tới bởi sự bất hòa vốn có với thời
hiện đại, con quái vật mà lý trí tạo ra đã được làm dịu đi. May mắn thay, thơ
ca khôi phục lại sự thống nhất, những mối quan hệ đã đánh mất, bằng cách cho
chúng ta thấy rằng “Bông cỏ may vô danh đã tạo được hiệu ứng domino, đẩy hàng
loạt quân cờ sụp đổ”.
Những bài thơ dữ dội này của Mai Văn Phấn là kết quả của sự chăm chỉ quan
sát, mang đến cái nhìn khơi gợi và thích thú tột độ với tính chất riêng biệt
("Sự thật"). Một mặt, chủ nghĩa lãng mạn được tách biệt bằng cách làm
nổi bật lên, ví dụ như tầm quan trọng của cái nhỏ bé, nhưng có thể mang tính
quyết định ("Nắng mới"). Mặt khác, chủ nghĩa hiện thực lại được tách
biệt bằng cách dùng thơ làm biểu tượng chứ không phải là hiện thực, giả định
cho người đọc tham gia vào làm nổi bật thông điệp bị hàm ẩn ("Hoàng
hôn"). Với những thi pháp ấy, thơ ông không mất đi bản chất nổi loạn mà
còn như vùng lên để chống lại sự lãnh đạm của thiên nhiên đối với con người
("Đón giao thừa"), cất lên tiếng nói chống lại sự áp bức, đàn áp của
xã hội ("Nhật ký", "Hoa ở hội trường"). Thơ thậm chí không
lý tưởng hóa chính nó, có những thứ thoát ra, vượt qua đường biên ước định của
thơ và trí tuệ, bầy đặt ở chính chỗ cần nhận thức ("Xuân tràn"). Đó
là một lời thơ trữ tình giàu sức sống, bắt nguồn từ truyền thống mà không
truyền thống (“Vốc nước ấp lên mặt”) và luôn lấy cái đẹp làm mục tiêu (“Phía
trước”). Cuối cùng, tôi vô cùng cảm kích thấy thơ ông được dịch sang tiếng Tây
Ban Nha với hình ảnh “con dê” đầy biến
ảo của một thi sĩ xuất sắc trong thời đại chúng ta.
V.R.N
Mt. Vernon, tháng 1- tháng 5 /2021
__________
* Tính từ "Brechtian" được sử dụng cho những
ngữ cảnh mâu thuẫn xã hội, đặc biệt trong sân khấu và biểu diễn.

Vẻ đẹp Cuba
Mai Văn Phấn y su cabra
prudentísima
“La cabra siempre tira al monte”, reza el antiguo proverbio hispano,
seguramente de origen pastoril, anterior a la edad de la razón. En su significado
más noble, pone en evidencia que no es posible evadir nuestra condición, no
solo origen sino también destino. La cabra del poema de Mai Văn Phấn (Ninh Bình, delta del Río Rojo, norte de Vietnam, 1955)
pide que la dejen en libertad, que no la sacrifiquen y pueda volver a la
montaña (“Esto dijo una cabra”). Es una poderosa metáfora de nuestro mundo, que
pone en cuestión el
espurio derecho humano sobre la naturaleza y la violencia criminal de la
modernidad. Sí, hay algo salvaje que permanece irreductible, que desafía el
dominio humano, la mal llamada civilización, y se expresa en la primera
oportunidad. Cualquier semejanza con la pesadilla universal que representa la
pandemia del COVID19, con sus subidas históricas en el mercado de valores y sus
más de tres millones de muertos hasta la fecha, no es pura casualidad. Aquí
radica el núcleo de esta espléndida obra, tesoro de la poesía vietnamita de
nuestros días, donde se equilibran tradición y ruptura, religiosidad y
compromiso, idea y sentimiento, imagen
y ritmo.
La poesía de Mai Văn Phấn no es
pastoril sino resultado de prestar atención a la naturaleza, la sociedad y el
pensamiento, y esto no excluye sino presupone la mirada crítica. En “La
flor velada”, la primera sección de esta antología, el sujeto poético asume que
la contemplación no es pasiva sino activa (“Noche de Año Nuevo”). Este proceso
parte de lo concreto (“Con los pies clavados en la tierra”), pero lo abstracto
mantiene relativa independencia (“Como el sonido de cristales rotos”). El mundo
es un tejido de relaciones en renovación constante (“Retoños”, “La niebla”),
donde no hay fronteras entre la realidad y el sueño (“Despierto”, “Los
murciélagos”), y se manifiesta una unidad esencial (“La cosecha”, “El
crepúsculo”). La identidad se establece, en última instancia, por el diálogo
con la otredad (“Dormitando”), que puede incluso llegar a la fusión (“Beber
té”). En el orden humano, estos poemas lamentan la pérdida (“Padre incienso”) y
la muerte (“Aniversario de la muerte del padre”), celebran el erotismo como
natural y sin sentido de culpa (“Rodaja de sandía”, “Crepúsculo”) y expresan
una religiosidad fundamental (“Hora de rezar”, “Sat na”, “La naturaleza de
Buda”).
No me propongo aquí “deconstruir” estos poemas líricos Mai Văn Phấn, sino solo dar
testimonio de mi arrobamiento como lector. En los textos de “La flor velada”,
la poesía no es entendida como ente artificial (“Después del baño”) y la
lectura puede consistir en aspirar el aroma de las flores (“Flores blancas del
ciruelo”). Pero no todo está claro, hay momentos en que resulta imposible
entender el sentido de la naturaleza (“El sonido de los peces que colean”). A
veces, estamos ante una poesía del estar (“La llovizna”), del presente (“Aún
soy como un niño”), del aquí y del ahora (“Callejuela”). A veces, ante una
poesía del ser (“Esta mañana”), escrita al dorso del paso del tiempo (“Un nuevo
día”). Una lírica que no se limita a dar testimonio de la experiencia
(“Libertad”) y comprende la imaginación (“Día de difuntos”). Además, el ingenio
(“Las flores de linterna”, “Frágil”) se aviene con la ternura (“Nubes de
algodón”), la gracia (“Liberación”) se da la mano con la ironía (“Miro cómo
vuelan las moscas”). En teoría y práctica, se reafirma el poder creativo de la
elipsis (“Exclamación”, “Suspiro”) y de la imagen (“Una persona mayor”, “Me
despierto a medianoche”).
En “Ojos sesgados”, la segunda parte de esta antología de Mai Văn Phấn, hay más continuidad que
ruptura. Se reconoce un mundo fuera e independiente de la conciencia del sujeto
poético, que se desarrolla a partir de la contradicción (10, 43). Y ese mundo
se expresa por sí mismo, la poesía resulta de esta manera objetiva, la materia
que habla con absoluta propiedad (65). Sin embargo, la humildad del yo lírico
no implica su desaparición, existe e interviene en el curso natural (5), la
contemplación una vez más es activa (91). Como reza el poema 88: “Oscuridad /
El ratón y yo /Cruzamos la calle”. La
actividad del sujeto poético es una herramienta del conocimiento, que revela
las relaciones ocultas del ser (44, 71, 80). Se advierte en la maravilla del
poema 9: “La mariposa se posa / Una gota de lluvia / Aprende a volar”. Aquí
nuestro poeta emplea con redoblada maestría la metáfora (56), la elipsis (23),
y el lenguaje poético se hace más sintético, más depurado. Son también poemas
de tres versos, pero esta vez sin título, solo numerados. Vale aclarar que no
son haikús, sino otra manifestación, en este caso dentro de la poesía
vietnamita, del influjo de la poesía clásica china.
La poesía escrita surge en Vietnam durante el dominio de China, que se
extiende del año 111 ANE al 939 NE. Aunque usan el chino, los poetas
vietnamitas logran expresar su manera de ser, su alteridad. Después de ganar la
independencia, superar el período de feudalismo y luchas civiles, y derrotar la
invasión mongola, el país se expande hacia el sur y se unifica. En 1282 se crea
una lengua escrita nacional, donde el vietnamita vernáculo se representa con
caracteres del chino clásico, llamada chu nom (“la escritura del sur”).
Esta lengua propia alcanza su pleno desarrollo en el siglo XV con la obra del
poeta Nguyễn Trai (1380-1442). El chu nom es institucionalizado por el
emperador Le Thanh Tong (1442-1497), quien funda la primera academia de artes
de Vietnam. Esta institución divulga importantes colecciones de poesía en chu
nom, que hasta el siglo XIX es el idioma principal de Vietnam. Poetas
relevantes que escribieron tanto en chino como en chu nom son, entre
otros muchos, Nguyễn Binh Khiem (1491-1585), Dang Tran Con (autor del “Lamento
de la mujer del guerrero”, 1741), Nguyễn Du (1765-1820, a quien se debe “La
historia de Kieu”), y la admirable poetisa Ho Xuan Huong (1772-1822).
En 1883 se firma un tratado entre el reino de Vietnam y Francia que
marca el final de la independencia del país. A principios del siglo XX, por
decisión de los colonialistas franceses, se impone el uso del alfabeto romano.
Este nuevo sistema de escritura, denominado quoc ngu (“la lengua
nacional”), junto al contacto con ideas y poéticas occidentales, marca la
poesía vietnamita. A partir de la década de 1930, la nueva poesía en quoc
ngu domina la escena. La actividad poética sufre con la Segunda Guerra
Mundial, la invasión de Japón, la Revolución de Viet Minh y la ocupación
militar china e inglesa. Pero después resurge con fuerza, cuando el quoc ngu
no solo desarrolla un vocabulario moderno sino que se convierte en el alma
vietnamita. Y florece en medio de la cruenta guerra de resistencia contra los
ocupantes franceses y estadounidenses (1955-1975). Si le preguntan a Mai Văn Phấn quiénes son los cinco
poetas vietnamitas más influyentes del siglo XX, dirá que Tản Đà (1889-1939),
Hàn Mặc Tử (1912-1940), Nguyễn Bính (1918-1966), Chế Lan Viên (1920-1989) y el
poeta revolucionario hoy injustamente olvidado Tố Hữu (1920-2002).
Los poemas en apariencia más modernos de Mai Văn Phấn son los reunidos en la tercera parte de esta antología, “A
techo descubierto”. Aunque se reiteran los principales mensajes de su poesía
anterior, la mirada se mueve de lo natural a lo artificial (“La aldea”), y
estos órdenes de la realidad al cabo se funden (“Increíble”). Y sin énfasis
pero con firmeza, se alude la devastadora guerra contra las ocupaciones
francesa y estadounidense (“Variaciones en la noche lluviosa”, “El verano está
muy cerca”, “Las variaciones del cuervo”). Vale destacar que ninguno de estos
textos idealiza el pasado ni el presente, y su sentido utópico resulta
sumamente atenuado. Además, el sujeto poético nunca se presenta a sí mismo como
héroe ni como antihéroe. La nota más destacada es la crítica social, que
resulta más ética que política (“La lección”), y tiene por lo general un tono
agudo, podría decirse que brechtiano: “La cucaracha y yo a partir de ahora
somos uno” (“La historia más larga aún”). Son blancos de la crítica, entre
otras lacras sociales, la burocracia (“Notas en la Gran Muralla”) y la
corrupción (“Síndrome del rumor”).
La tarea fundamental de un poeta debe ser,
como postula el título de uno de estos textos, “Mirar de cerca”. Es decir,
ofrecer una visión que desfamiliarice el mundo, que ponga en tela de juicio las
convenciones sociales y culturales, que rete toda perspectiva interesada de la
realidad. En particular, se produce una ardiente rebelión contra los intentos
de poner límites a la expresión (“Sólo un sueño”, “Saber es sobrevivir”). Según
el sujeto poético, hay que decir las cosas, no ser ese pescador que “Apila los
pescados negros. / El viento les enganchó los anzuelos en la garganta”
(“Sinopsis para la mañana siguiente”). Para honrar el papel crítico del
intelectual, y enfrentarse al “Y tú vete por ahí”, se recurre a la poesía
dialógica. De esta manera, el discurso poético deja de ser un monólogo, y se
abre a otras voces (“Te escuché por el teléfono”). En este singular dialogismo
la realidad y el lenguaje se trenzan, y se reconoce “La sobrecarga del circuito
soterrado antiguo lleno de cepa mística” (“Los cantos de cosecha”). Así las
cosas, por momentos esta poesía presenta rasgos comunes con la tradición
hispanoamericana de poesía coloquial y neo-vanguardista (“El verano está muy
cerca”). Lo cierto es que el lirismo nunca decae (“El ritmo del otoño”) ni la
imagen deja de brillar ni el ritmo de afinarse.
La antología de Mai Văn Phấn
concluye con una serie de tres poemas en prosa, bajo el título “La edad de la
basura”. Se podría decir que son los más modernos del conjunto si no fuera
porque existe una tradición de esta forma en la poesía vietnamita que se
remonta a la obra de Mac Dinh Chi (1272-1346). También por estos textos corre
el río de sangre que, en la poesía de Nguyễn Du (1766-1820), divide la tierra
de la muerte de la tierra de la vida. Aquí la espiritualidad se condensa, se da
rienda suelta a la religiosidad sincrética que distingue al pueblo vietnamita,
mezcla de confusionismo, taoísmo y budismo. En “Rojo profundo”, la pieza
más épica, no se glorifica la guerra de liberación, sino que solo “se recupera
el espacio del pasado”. El sentido utópico en “El sueño” no puede ser más
elemental, solo se busca ser “feliz y libre como los peces en el mar y los
pájaros en el aire”. Y en “La continuidad”, un texto sin dudas memorable, se
denuncia la alienación inherente a la modernidad, ese monstruo que produce la
razón. Por fortuna, la poesía restablece la unidad, las relaciones perdidas, al
mostrarnos que “la flor anónima de vetiver ha creado un efecto dominó,
provocando el colapso de una serie de piezas de ajedrez”.
Estos formidables poemas de Mai
Văn Phấn son resultado del estar atento, ofrecen una mirada curiosa y
radicalmente interesada en la otredad (“Verdad”). Por un lado, se
apartan del romanticismo al destacar, verbigracia, la importancia de lo
pequeño, que puede resultar determinante (“El sol nuevo”). Por otro lado, se
apartan del realismo al asumir la poesía como representación y no como realidad,
al suponer un lector participante por el predominio del mensaje implícito (“El
crepúsculo”). Con estas renuncias la poesía no pierde su esencial rebeldía, se
alza contra la indiferencia de la naturaleza ante la humanidad (“En la
ceremonia del Año Nuevo Lunar”), levanta la voz contra la opresión y la
represión social (“Se escribe en los diarios”, “Unidad en la sala”). Incluso, la poesía no se idealiza a sí misma,
hay cosas que se le escapan y la sabiduría está en reconocerlo (“Con la energía
de la primavera”). Se trata de una
lírica vigorosa, afincada en la tradición pero no tradicional (“El agua de la
aldea junta objetos”), y que siempre asume la belleza como meta (“Más
adelante”). En fin, celebro la entrada en
lengua castellana, con su cabra prudentísima, de este poeta notable de nuestro
tiempo.
Víctor Rodríguez Núñez
Mt. Vernon, enero-mayo de 2021
Víctor Rodríguez Núñez
Poeta cubano nacido en La Habana, en 1955. Ha publicado diecisiete libros de poesía, casi todos premiados y reeditados, siendo los más recientes desde un granero rojo (Premio Alfons El Magnànim, Hiperión, 2013), despegue (Premio Fundación Loewe, Visor, 2016), el cuaderno de la rata almizclera (Buenos Aires Poetry, 2017), enseguida [o la gota de sangre en el nivel] (RIL-Ærea, 2018) y la luna según masao vicente (Espacio Hudson, 2021). Han aparecido antologías de su obra en diez países de lengua española, y en traducción al alemán, árabe, chino, francés, hebreo, inglés, macedonio, serbio, sueco y vietnamita. Es además periodista, crítico, traductor y profesor de literatura hispanoamericana en Kenyon College, Estados Unidos.

