Đọc bài thơ “Thu đến" của Mai Văn Phấn (bình thơ) - Tuệ Mỹ

Tuệ Mỹ

 

 

 
Tác giả Tuệ Mỹ

 

 

 

 

Đọc bài thơ “Thu đến” của Mai Văn Phấn

 

 

 

 

Thu đến


Chiếc lá kia rơi

Mặt đất sẽ trũng xuống

Vọng tiếng chuông xua mây đen

 

Nắng sẽ hanh hao

Heo may run ngõ nhỏ

Sách mới thơm hơi trẻ thơ

Mía ngọt trào lên ngọn

 

Những con sâu nhẫn nại tết vệt trứng óng ả quanh gốc cây già

Chú bê non chạm lưỡi mềm mặt cỏ

 

Chiếc lá ấy rơi

Biết có ai được may mắn đến gần

Thời khắc mùa thu về đích.

 

(Rút từ tập thơ “Bầu trời không mái che”. Nxb. Hội nhà văn, 2010)

Mai Văn Phấn

              

  


Lời bình của tác giả Tuệ Mỹ:

 

Tôi thả từng bước nhỏ trên con đường quen thuộc về nhà. Nghe dưới chân mình tiếng lá khô. Khăn voan quấn hờ. Gió... Thấy cái lạnh dìu dịu len lỏi... Mở trang sách, tôi gặp bài thơ “Thu đến” của Mai Văn Phấn.

 

Lúc ấy dường như tôi đã đứng lại bên đường để nhìn “Chiếc lá kia rơi”. Lá rơi vào mùa thu. Viết về mùa thu, có thi sĩ nào mà không nhắc đến lá. “Em không nghe mùa thu/ Lá thu rơi xào xạc”( Lưu Trọng Lư), “Em có nghe mùa thu mưa bay lá đổ”… Nhà thơ Mai Văn Phấn cũng nói về lá rơi nhưng ông nói cách khác: “Mặt đất sẽ trũng xuống”. Một cách nói rất sáng tạo, gây ấn tượng mạnh về sức nặng và sức mạnh của mùa thu. Điều lạ kỳ ở đây là, chiếc lá rơi khi mùa thu đến sẽ làm mặt đất “trũng xuống”. Câu thơ làm người đọc tưởng tượng chiếc lá chạm vào mặt đất có sức “công phá” như một nhát cuốc, mũi thuổng, lưỡi búa, lưỡi mai… Hình ảnh khá bạo liệt ấy ngay lập tức được nhà thơ phủ ngập trong không gian thu: “Vọng tiếng chuông xua mây đen”. Âm thanh ở đây “vọng”, nhưng lại lan xa, làm xao động mọi cảnh vật và đặc biệt nó đã “xua mây đen”. Lạ thật! Thường thì gió xua mây chứ sao lại là “tiếng chuông”? Cái lạ lùng trong cách “xua mây” chỉ thấy trong thơ Mai Văn Phấn. Có phải lúc lắng lòng tận hưởng cái huyền diệu của mùa thu, nhà thơ dường như còn nghe cả tiếng vọng tâm linh từ “tiếng chuông” (chuông chùa hay  chuông nhà thờ)? Tiếng thu trong thơ Mai Văn Phấn thật là huyền nhiệm!

              

Cũng lúc này, nhà thơ dẫn người đọc đến ngõ nhà ai để ngắm nhìn nắng “hanh hao”, và thưởng thức “Heo may run ngõ nhỏ”. Không biết heo may “run” khi đến ngõ nhỏ hay ngõ nhỏ “run” khi đón heo may? Dù chủ thể của “run” là gì đi chăng nữa thì chắc hẳn nó cũng được “truyền” bởi cái run rẩy của con tim thi sĩ khi thu đến. Phải, có thi sĩ nào mà không run rẩy khi đắm mình trong hương sắc mùa thu? Chẳng phải người ta đã từng nói thi nhân với mùa thu là tri kỉ? Từng ví thi sĩ với mùa thu là gió với hương, là quả với hạt, là gốc với ngọn, là hình với bóng…, một biểu tượng kép là gì?

             

Nhà thơ lại đưa tôi vào nhà ai để cùng “trẻ thơ” đón thu qua “Sách mới thơm hơi trẻ thơ”. Mùa thu cũng là mùa tựu trường mà! Hương thu vẫn còn đọng lại “thơm” từng trang “sách mới” của trẻ thơ. Và vườn nhà lúc vào thu cũng bừng sáng, sinh sôi: “Mía ngọt trào lên ngọn/Những con sâu nhẫn nại tết  vệt trứng óng ả…/ Chú bê non chạm lưỡi mềm mặt cỏ”. Lúc này, tôi nhắm mắt để tận hưởng hương “thơm” và vị “ngọt” của vườn thu lan tỏa. Nhắm mắt mà vẫn như “nhìn thấy” màu xanh cỏ non, cái “óng ả” của vệt trứng sâu, chú bê non đáng yêu hiện lên ở mỗi con chữ. Một bức tranh thu toàn bích, có hình ảnh đẹp, non tơ (lá rơi, cỏ mềm, mía ngọt, bê non, sách mới), có sắc màu tươi sáng, trang nhã: xanh (cỏ), vàng (lá), óng ả (vệt trứng sâu), lại có vị ngọt, hương thơm và đặc biệt có âm thanh tiếng chuông buông vào làm cho mùa thu vốn huyền diệu lại càng huyền diệu hơn. Thế đấy, ai bảo thu thì phải “sầu”, phải “đìu hiu”, “tiêu sơ”, “nức nở”… Riêng mùa thu trong thơ Mai Văn Phấn thì luôn căng tràn sự sống, ấm áp, tươi vui. Không chỉ “riêng” trong cái nhìn mà còn “riêng”, còn “mới” trong cách thể hiện nữa. Không chú trọng gieo vần như trong thơ truyền thống, nhưng nhà thơ chú trọng nhịp diệu câu thơ, khổ thơ để tạo ra sức lan tỏa của từng hình ảnh.

 

 Mai Văn Phấn cũng là người có duyên với mùa thu, tiết thu, hơi thu… Ông đã để lại trên từng chặng đường sáng tạo nhiều bài thơ về thu thật ấn tượng: “Thu về” (1992), “Cảm giác mùa thu” (1995), “Quả thu”, “Nỗi nhớ mùa thu”, “Ký sự mùa thu” (1997), “Đầu thu”, “Nhịp thu về”, “Quyền lực mùa thu” (1999), “Những bông hoa mùa thu” (2009), “Thu đến” (2010) và rất nhiều bài thơ 3 câu về mùa thu trong 2 tập thơ 3 câu “hoa giấu mặt” và “thả” xuất bản gần đây. Thơ Mai Văn Phấn theo khuynh hướng cách tân thi pháp nên mùa thu của ông trên mỗi chặng đường thơ dần được làm mới và hiện đại hơn. Và bài thơ “Thu đến”đã đạt tới độ chín, cho bạn đọc cảm giác nhà thơ đã tạo ra một thi pháp riêng biệt cao hơn mọi thủ pháp trước đây.

 

Bức tranh mùa thu đã được khép lại ở khổ thơ thứ ba của bài thơ nhưng nhà thơ lại dẫn dụ bạn đọc đứng trước suy ngẫm của ông về mùa thu ở khổ thơ cuối :

                                   

“Chiếc lá ấy rơi

Biết có ai được may mắn đến gần

Thời khắc mùa thu về đích:

 

Một lần nữa tác giả nhắc lại “Chiếc lá rơi” chỉ thay từ “kia” bằng từ “ấy”. Nếu ở khổ thơ đầu “Chiếc lá kia rơi” là lời thông tin mùa thu đến, thì “Chiếc lá ấy rơi” ở khổ thơ cuối là lời khẳng định bản sắc mùa thu. Mùa thu là thế đấy: tươi đẹp, ngọt ngào, quyến rũ…). Có phải theo cảm quan của nhà thơ thì đó là “Thời khắc mùa thu về đích”. Thu là “khoảng ngừng” kỳ diệu thuận cho tạo vật bừng sắc một lần chót trước khi đi vào khô hạc, héo úa... Các nhà thơ thường chớp lấy cái an lạc vĩnh hằng của trời đất để nương gửi sự an định tâm hồn mình. Vậy nên trong cảm quan của các nhà thơ, mùa thu là mùa đẹp nhất, huyền diệu nhất. Ai chớp lấy thời khắc này được xem là người may mắn. Mai Văn Phấn là người đã có được sự may mắn ấy.

 

Bình Định, 11/8/2016

T.M







Tranh của Họa sỹ Rafal Olbinski (Ba Lan)











BÀI KHÁC
1 2 3 4 

image advertisement
image advertisement
image advertisement




























Thiết kế bởi VNPT | Quản trị