Nơi tụ hội ánh sáng
(Đọc tập thơ “Cánh trăng” của Đinh Trần Phương, Nxb Hội Nhà văn, 2014)
Nhà thơ Đinh Trần Phương
Mai Văn Phấn
Một
chiều mùa đông cách đây hai năm, tôi nhận được “Cánh trăng”, tập thơ đầu tay của tác giả Đinh Trần Phương. Nhớ lúc
ấy tôi đã mở hé từng trang, như người đọc “chạc” trong hiệu sách để giữ cho
cuốn sách luôn mới. Một cảm giác thanh tịnh, tinh khôi bỗng ùa vào tâm trí tôi.
Tựa như người trong căn phòng mùa đông với lò sưởi ấm, tôi đột ngột mở toang
cửa sổ. Ngoài kia là khí xuân mát lành, tiếng chim, suối chảy, ánh trăng, mưa
lất phất, gió nhẹ...
Tôi vẫn
giữ cách đọc “mở hé từng trang” tập thơ “Cánh
trăng” đến tận bây giờ. Mỗi lần tôi thường mở khoảng mươi trang, đọc vài ba
chục bài rồi khép lại, bởi thấy thế là vừa đủ cho một ngày, một nỗi niềm, cho
tâm trạng tôi khi ấy. Cách đọc tập thơ này cho tôi liên tưởng mình đi qua một cánh
cửa quay. Nếu coi mỗi trang của “Cánh
trăng” là một cánh cửa quay, thì lật mở bất kỳ trang thơ nào ta cũng có cảm
giác mình đang bước qua cánh cửa ấy. Đôi khi, vô tình gặp một bài thơ, tựa như
chỉ cần chạm hờ là cánh cửa đã nhẹ nhàng quay:
“Nỗi buồn của chiếc lá khô
tôi
mở xem
ánh
trăng”. (trang 84)
Bài thơ trên tựa ngọn tháp ba mặt, mà mỗi câu thơ là một
mặt của nó, một cấu trúc toàn bích. Trong chiếc lá khô kia cất giấu những bí mật của khoảnh khắc,
như nỗi buồn, bàn tay người mở xem, ánh trăng cùng vô vàn hình tướng mà người
đọc mặc sức tưởng tượng. Ba câu thơ liên tiếp tạo thành hơi thở chánh niệm,
nhiếp phục lại tâm ý, giúp ta cảm nhận được sự mầu nhiệm của giây phút hiện
tại. Ánh trăng nằm trong chiếc lá khô chờ người mở xem. Nỗi buồn của chiếc lá
khô lại là ánh trăng. Tôi thấy được sự huyền nhiệm của đời sống này khi biết
“mở xem” một chiếc lá khô. Ba câu thơ tựa ba vật dụng tối giản, ba viên đá cuội
để tôi tự do xoay đảo, nhìn phía nào cũng đẹp, vi diệu.
Tiếp theo, tôi lật lại trang 14 của cuốn sách, gặp bài thơ
này:
“Mỏi rã rời
cành
cây ấy
bông
hoa đầu đời”
Bài thơ cho thấy trọn vẹn sứ mệnh của cây. Nó bắt đầu
một chu trình từ lúc được ươm mầm, lớn lên, vượt qua những thử thách khắc
nghiệt của thời tiết, đến khi trổ bông
hoa đầu đời. Câu thơ đầu Mỏi rã rời đã khai mở một hành trình
cho cây. Trạng thái mỏi của nó làm
người đọc liên tưởng tới phận người, phận đời hơn là phận cây. Cánh cửa ấy mở rộng
để ta bước vào một mê lộ, mà ở đó ta tự chiêm nghiệm, tự nhận thức bản thân, và
cũng tự lựa chọn lối rẽ để đi tiếp.
Và lần thứ ba, trong bài viết nhỏ này, bạn đọc hãy cùng tôi
đến bên cánh cửa quay kia để nó quay ta vào một không gian khác:
“Chiếc bút chì gãy
rơi
trong hốc tường
màu
ruột đỏ thắm”.
Vật dụng này có thể đã nằm ở hốc tường kia từ rất lâu mà ai
đó đã bỏ quên. Ai và khi nào? Không quan trọng. Điều lạ ở đây là nhà thơ đã
nhìn thấy ruột của chiếc bút chì ấy có màu đỏ thắm. Loại màu này, tất nhiên
bình đẳng với những màu khác trong một hộp bút với đủ màu sắc. Nhưng ở đây, nó thắm
lên khi “cánh cửa” thơ của Đinh Trần Phương hé mở. Trong ánh xạ của màu đỏ thắm
này, nhà thơ đã để cho chiếc bút chì trong trạng thái bị gãy, giống như một
trái cam, trái dưa hấu vừa được bổ ra cho người đọc thấy được từng lớp vỏ mỏng,
nhân hạt, nước quả ngọt còn chảy ròng trên lưỡi dao sắc.
Tôi vừa lật mở “Cánh
trăng” gặp ba bài thơ, tựa ba lần chạm tay vào cánh cửa trong ba thời khắc,
tưởng tượng những vần thơ của Đinh Trần Phương đang xoay quanh trụ của cánh cửa
quay. Chiếc trụ ấy, giờ đây, chính là cái gáy sách vuông vắn trong lòng tay tôi
đang lưu giữ những ẩn mật của cõi nhân sinh, những nhiệm màu của thiên nhiên,
vũ trụ chờ được giải mã. Đó là những bông hoa thủy tiên màu trắng đang trôi
theo dòng suối nhỏ chạm được vào bóng trăng. Hay làn gió làm lay động bức rèm xuân cho ta nhìn thấy ánh sáng trong đó.
“Mưa xiên xiên
đọng
trên cánh lá
từng
giọt rơi”. (trang 27);
“Nắng đi vào trong hoa
rồi
quay trở lại
hoàng
hôn”. (trang 29);
“Mưa trong suốt
nhanh
hơn thường ngày
hoa
anh đào rơi” (trang 30);
“Cầm lên cánh hoa
thả
rơi
thêm
một lần nữa”. (trang 35).
Thơ Đinh Trần Phương giải mã thế giới bằng những ám thị, ảo
giác, dựa vào những xung động cá nhân trong tiểu vũ trụ của mình, để thấy được
sự chuyển dịch mang tính biện chứng của thiên nhiên, hài hòa trong đại vũ trụ.
Thủ pháp này đã rút ngắn khoảng cách giữa các vật thể trong một không gian lớn:
“Chân tay tôi dài ra
chạm
tới đầm vô hình
tiếng
ếch”. (trang 41);
“Gấp sách
đường
chân trời
hai
màu xanh lơ”. (trang 113).
Nhà thơ thường kết hợp sự khao khát của bản ngã với những
điều bình dị xảy ra trong đời sống hàng ngày, nhằm mang đến cho bạn đọc nhận
thức mới về một cá thể và thế giới:
“Sóng
mang
các chàng trai lên bờ
gần
bên cô gái ngồi đọc sách”. (trang 68);
“Đêm đông
tôi
nằm úp xuống
tiếng
lá bàng rụng”. (trang 106).
Một số bài trong tập thơ diễn tả những cung bậc tình cảm
con người bằng bút pháp điêu luyện, hình ảnh độc đáo. Ánh trăng trong bài thơ sau đây cho ta thấy được vẻ đẹp thuần
khiết, vẹn nguyên của tình yêu đôi lứa thấm đẫm Phật tính:
“Người yêu
cắt
móng tay cho tôi
dưới
ánh trăng”. (trang 141).
Hoặc:
“Đêm
tiếng
thạch sùng
hai
người nằm bên nhau”. (trang 143).
Tiếng thạch sùng cho ta thấy những tín hiệu bí ẩn của tạo
hóa. Tiếng thạch sùng trong bài thơ này là mối nối giữa cá thể với cá thể, hòa tan
họ vào nhau.
Trong “Cánh trăng”,
tác giả chuyển hóa những khái niệm thuộc lĩnh vực tâm lý, tâm trạng khó nắm bắt
thành những hình tượng cụ thể để người đọc có thể hình dung, ước đoán được
chúng bằng cảm xúc thơ. Sự cô đơn trong bài thơ sau đây cho thấy tác giả đã tạo
ra một loại thước đo riêng để đo lường những điều tưởng chừng mơ hồ, bất khả:
“Không ngồi trên cây nữa
mang
theo
sự
cô đơn”. (trang 160).
hoặc:
“Tôi ngồi vào
chiếc
ghế trống
và
tôi trống không”. (trang 118).
Nhà văn Nhật Chiêu đã giải mã sâu sắc và rất
tinh tế bài thơ này trong lời tựa viết cho tập thơ “Cánh trăng” như sau: “Nhìn thấy chiếc ghế trống. Định
lấp đầy nó bằng cái đầy của mình. Không. Tất cả đều trống. Trống không, cả cái
ghế và tôi. Đọc bài thơ mà rùng mình. Tôi rơi. Đúng là rơi. Rơi vào cái trống
không của chính tôi. Và cứ thế mà rơi vào hư vô. Sắc – Không đã đi vào thơ ca
của Đinh Trần Phương như thế. Rất tự nhiên. Và như thế là TUYỆT.” (Và tôi trống không, trang 9).
Trong “Cánh trăng”,
theo tôi có một bài thơ phá cách khá mạnh mẽ so với những bài thơ khác trong
tập:
“Cơ thể em nước xanh
cửa
sổ buồng tắm mở, cỏ non
hoa
cúc trắng.” (trang 130).
Chuỗi hình ảnh cơ thể
em, nước xanh, cửa sổ buồng tắm, cỏ non, hoa cúc trắng trong bài thơ chuyển
động phức hợp trong một không gian mở. Ở những bài thơ khác, thơ Đinh Trần
Phương thường tiết chế hình ảnh. Có lúc bài thơ chỉ có một hoặc hai hình ảnh
chuyển dịch đơn tuyến. Ví dụ:
“Cơn mưa
trở
nên tươi mới
chiếc
lá sắp rơi” (trang 83).
Trong bài thơ ở trang 130 nêu trên, cơ thể em nước xanh là hình ảnh tượng trưng ít gặp trong tập thơ
này. Cửa sổ buồng tắm mở, và cỏ non bất ngờ xuất hiện ở đây đã mở ra
trước mắt ta khoảng không thênh rỗng trong tiết thay mùa. Hình ảnh hoa cúc trắng xuất hiện trong câu thứ ba
đem đến cảm giác thanh khiết, tinh tuyền. Nó đưa ta đến nơi, mà nhà thơ
được yêu và cảm nhận đủ đầy tình yêu đã chế ngự trái tim anh ấy.
“Cánh trăng” được
Đinh Trần Phương ghi trên bìa sách là thơ haiku. Tôi cũng từng làm nhiều bài
thơ với thể thức gần giống thơ haiku của Nhật Bản. Mỗi bài thơ của tôi gồm ba
dòng, và có đặt tên bài. Theo cá nhân tôi, phần lớn những bài trong tập thơ này
của Đinh Trần Phương là thơ ba câu tự do, với ý tưởng gợi mở, không bắt buộc
phải có từ chỉ mùa (kigo – quý ngữ).
Như vậy, thơ ba câu tự do không cần tuân thủ niêm luật chặt chẽ như thơ haiku
cổ điển. Vậy có nên gọi đó là thơ haiku? Do vậy, tôi muốn gọi những bài thơ trong
“Cánh trăng” là thơ ba câu không đề,
hoặc gọi đây là bài thơ liên khúc, có tên “Cánh
trăng”.
Thơ ba câu, theo tôi dễ làm, nhưng khó hay.
Điều cốt yếu ở đây, dù viết ngắn hay dài thì trước hết phải là thơ. Tác giả của
nó phải khai mở được những huyệt đạo trong tâm trí, cảm xúc của người đọc.
Ngoài những niêm luật như các thể thơ khác, thơ ba câu còn có những đặc thù
riêng. Nhịp đi trong thơ ba câu gần với quán niệm hơi thở trong thiền định.
Cách khai mở và đón bắt hình tượng, tứ thơ trong thể thơ này cũng giống như
những đường kiếm dũng mãnh, dứt khoát trong kiếm đạo, và, có cả sự tinh tế,
thanh cao của trà đạo. Chúng ta học được những tinh hoa của thể thơ tối giản
này từ các nhà thơ lớn của Nhật bản, được gọi là Tứ trụ haiku:
Matsuo Basho,Yosa
Buson,
Kobayashi Issa
và Masaoka Shiki.
“Cánh
trăng” đã khai mở thế giới thơ Đinh Trần Phương, nói chính xác hơn, những
bài thơ ngắn và tối giản đã đánh dấu buổi “trình làng” ấn tượng, thành công của
tác giả. Với nội lực sáng tạo mạnh mẽ cùng cảm xúc tươi mới tràn đầy, bạn yêu
thơ cũng như tôi mong đợi thơ Đinh Trần Phương sớm được khai phá thêm những
miền đất mới với đa dạng thủ pháp, và thể loại thơ khác. Nếu coi thơ ngắn, tối
giản là “đoản kiếm”, thì thơ-văn-xuôi, thơ tự do, có thể ví như “trường kiếm”.
Trong kiếm đạo Nhật bản, trường kiếm và đoản kiếm luôn đi liền nhau, gọi là
song kiếm. Sự đa dạng trong sáng tạo của một nhà thơ tựa như một cặp song kiếm hợp
bích, có thể công thủ trong mọi tình huống.
Tập thơ của Đinh Trần Phương đã góp phần làm phong phú, giàu có thêm thơ
Việt đương đại. Nó khước từ sự cô tịch, trầm mặc, bi ai trong thơ haiku cổ điển
để đến với sự thanh thoát, nhẹ nhàng, hiện đại. Đặc biệt, nó không cố ý ghìm
nén biểu lộ cảm xúc mà chủ ý biểu đạt sự lãng mạn, tươi non, mở cho bạn đọc một
thế giới thơ mới mẻ, trẻ trung, tràn đầy ánh sáng. Xin trích đoạn trong Lời kết
tập thơ của Đinh Trần Phương, với tôi, đây là bài thơ văn xuôi khơi mở và giàu
phức điệu, là độ mở của cánh cửa quay, độ tương phản sáng tối của màn hình để
những bài thơ trong “Cánh trăng” hiện
ra sáng rõ hơn. “Tôi trở
về nhà, đến ngồi với ông bà nhìn ra cửa sổ. Phía trước có một cái cây tán rộng.
Tôi hỏi, ông bảo đó là cây hoàng quyên. Một con chim hoàng quyên bay qua bay
lại rất vui vẻ. Tôi đoán con chim là linh hồn của cái cây kia, hoặc cũng có thể
ngược lại, cái cây là linh hồn của con chim”.
20/10/2017