“Con mắt thứ ba” trong thơ Đỗ Doãn Phương (phê bình) - Mai Văn Phấn

“Con mắt thứ ba” trong thơ Đỗ Doãn Phương

 (Đọc tập thơ “Tuyệt ca” của Đỗ Doãn Phương, Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây & Nxb Văn học, 2013)

 

 

 

Nhà thơ Đỗ Doãn Phương

 

 

Mai Văn Phấn

 

Đó là con mắt được khai mở ở những người tu tập thiền hoặc người tu hành khi chứng ngộ được Pháp. Họ gọi con mắt đặc biệt ấy là mắt của tâm trí, Thần nhãn hay Huệ nhãn, hay “con mắt thứ ba”, nơi phát ra năng lượng, giúp con người có thể nhìn được cõi vô hình, kết nối các chiều không gian và thời gian, thấy được quá khứ và tương lai. Đọc tập thơ “Tuyệt ca” (Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây & Nxb Văn học, 2013) của nhà thơ Đỗ Doãn Phương, tôi bắt gặp ánh sáng lạ, thứ ánh sáng huyền vi. Trong ánh sáng ấy, nhà thơ đã phân thân thành “kẻ khác” du ngoạn trong và ngoài vũ trụ, sống với vạn vật, nhập hồn mình vào vạn vật. Ánh sáng ấy đã giúp tôi nhận biết các chiều kích không-thời gian khác với trước đây tôi vẫn hình dung. Tôi cảm nhận mình đã được khai mở “con mắt thứ ba” để nhìn thấy những cõi ảo huyền trong thơ Đỗ Doãn Phương.

 

Mở đầu tập thơ “Tuyệt ca”, Đỗ Doãn Phương viết:

 

Không phải là tuyệt vời, “Tuyệt ca” của tôi là bài ca từ bỏ, dứt bỏ. Nhẹ nhàng là từ bỏ cuộc tình; nặng hơn là trút bỏ cả thịt, da của kiếp này”.

 

Quan niệm về sự từ bỏ hay trút bỏ của Đỗ Doãn Phương là bắt đầu một hành trình mới trên những con đường khác. Trong tập thơ “Hoan ca” xuất bản năm 2011, “con mắt thứ ba” của Đỗ Doãn Phương đã dần dần khai mở để khởi phát cuộc giác ngộ:

 

Và chờ khoảnh khắc phát xuất

Sang một con người khác” (Giác ngộ).

 

Đến tập thơ “Tuyệt ca”, con mắt ấy của nhà thơ mở lớn và bao quát. Nó làm thay đổi điểm nhìn, cách nhìn của ta về hiện thực đời sống, về không gian và thời gian, vũ trụ, tâm linh.... Từ đời sống hiện hữu này, ta được mở thêm tầm nhìn khác về những thế giới khác.

 

Trong cuốn sách “Trở thành mục tiêu” (Objective Becoming) của Tiến sĩ Bradford Skow[1], ông cho rằng thời gian không chỉ là một mũi tên hướng về phía trước, mà còn được trải ra theo các hướng của không gian trong vũ trụ. Cũng theo Bradford Skow, không gian-thời gian là một “vũ trụ hình khối” (block universe), trong đó quá khứ, hiện tại và tương lai cùng tồn tại và đồng hiện.

 

Tính đồng hiện là đặc điểm nổi bật trong thơ Đỗ Doãn Phương, cũng như thơ của các tác giả thuộc thế hệ Đổi mới sau 1986 tại Việt Nam. Tính đồng hiện trong thơ Việt, thực ra được khởi phát từ phong trào Thơ mới, dễ nhận thấy hơn khi các nhà thơ thuộc trào lưu này chuyển đổi thi pháp từ Hiện thực và Lãng mạn sang Tượng trưng, Siêu Thực. Ở thế hệ này, tính đồng hiện được dùng như một thủ pháp để liên tưởng và kết nối hình ảnh đơn lẻ. Nhưng với thế hệ thơ Đổi mới hiện nay, tính đồng hiện được áp dụng để cấu trúc không gian toàn bộ bài thơ và mở ra những liên tưởng khác lạ sau văn bản thơ. Mỗi tác giả của thế hệ mới này thường có những thủ pháp riêng tạo ra tính đồng hiện trong thơ mình. Trong thơ Đỗ Doãn Phương, “cánh cửa” của đồng hiện thường được mở ra ở cuối mỗi bài thơ, tạo sự hấp dẫn bất ngờ. Xin dẫn bài thơ “Mầm cây”, trong đó xuất hiện hai nhân vật mầm câyem bé. Mầm cây được dự báo sẽ mang dung mạo một vị thánh, còn em bé khi lớn lên sẽ làm đứt tay của thánh thần. Và, khi em bé trở thành nhà điêu khắc, “con mắt thứ ba” của nhà thơ mở ra, soi rọi cho ta nhìn thấy điều lạ lùng, như cùng tác giả bài thơ đi ngược thời gian trở về quá khứ: 

 

Tượng bị gọt lẹm ngón tay

Tôi nhận ra một mầm cây trong tiền kiếp”.

 

Hoặc trong bài thơ “Những quân cờ thất lạc”, những Sỹ, Tốt, Xe, Pháo, Mã… bị lũ trẻ ném tung khắp nhà nhưng vẫn “lẫm liệt oai phong” nhờ “nhãn lực” đặc biệt này. 

 

Chúng tái lập căn nhà theo cấu trúc bàn cờ mới

Chuẩn bị cho những nước đi lớn”.

 

Đọc thơ Đỗ Doãn Phương, tôi nhận ra một quy luật. “Con mắt thứ ba” thường được khai mở khi tâm hồn nhà thơ yên định nhất. Nó nhắc nhở người đọc bình tĩnh nhìn lại cuộc đời mình trong quá khứ, như xem lại một đoạn phim: 

 

Chợt lạnh buốt: hay mình đã chết? Mình đang nhìn lại đời mình từ thế giới bên kia” (Xem lại đoạn phim quay mình).

 

Có khi con mắt ấy lại biến nhà thơ thành một kẻ quan sát như trong bài thơ “Bữa tiệc ly”. Bữa tiệc ấy chỉ có tôiem, nhưng khi “con mắt thứ ba” của nhà thơ khai thị, thì tôi lại phân thân thành chính mình tít cao xanh ngắm xuống

 

Bữa tiệc còn dở dang, về hai thế giới

Ngồi đến cuối tiệc cùng nhau trong một thân xác mới”.

 

“Con mắt thứ ba” trong thơ Đỗ Doãn Phương mở ra quanh ta một đời sống thiên hình vạn trạng. Trong bài thơ “Nói với con cá”, Đỗ Doãn Phương đặt nỗi cô đơn của mình đối diện với một con cá, với Bên trong súc thịt mi, vốn chỉ để nướng, kho. Có thể thấy, nhà thơ đã kết nối thế giới hiện tại với những kỷ nguyên xa xưa, từ khi trái đất chưa xuất hiện con người. Ở đây, hình ảnh con cá và nhà thơ tựa như hai dấu chấm, hai cái mốc bé nhỏ trong cõi vô thủy vô chung, nhưng tràn đầy tình yêu thương trong không-thời gian bất tận. Sự sống ở đó được mở ra thênh thang, hàm ẩn sự mầu nhiệm của vũ trụ: 

 

Mi ở trong nước, ta ở trên bờ

Cách nhau hàng triệu năm tiến hoá

Bởi cách xa, chúng ta chấp nhận mờ mịt

Hai cái bóng lớn đứng cạnh nhau”.

 

Khái niệm từ bỏ, trút bỏ trong “Tuyệt ca” đồng nghĩa với phục sinh, khai sinh đời sống khác. Bài thơ “Mẹ ốm” đem đến cảm giác lạ lùng phi lý, song bằng những cảm xúc mạnh mẽ, chân thành, nhà thơ thể hiện trong đó niềm khát vọng đáp đền nghĩa sinh thành sâu dày thâm trọng của mẹ: 

 

Nếu có thể, đất trời ơi, hãy biến con thành người đàn bà to lớn

Con sẽ đẻ ra mẹ

Từ con, cuộc sống của mẹ sẽ thành hình”.

 

Hay trong bài thơ “Mơ thấy bà ngoại”, nhà thơ cảm nhận tấm thân nặng nhọc của bà đã gửi lại nơi nào để nhẹ nhàng đi về trong giấc mơ của ông: 

 

Tấm thân nặng nhọc bà trút bỏ nơi nào

Chỉ trong mơ, sợ ngã, cảm, đói

Mới cho cháu cảm giác bà đang tồn tại”.

 

Diễn tiến cảm xúc trong thơ Đỗ Doãn Phương cũng là một hành trình, tựa những cột mốc dẫn tới đích của sự từ bỏ, trút bỏ... Câu thơ độc thoại sau đây nói về sự kết thúc của một cuộc thế nhưng không làm người đọc cảm thấy lạnh lẽo, đơn độc. Ngược lại, rất gần gũi, ấm áp: 

 

Ngày ta được chôn ở đây

Mảnh đất này mới nên thân thiết” (Qua đồi).

 

Những bài thơ trong “Tuyệt ca” thường nhắc tới sự vô thủy vô chung của vũ trụ, tức không có chỗ bắt đầu, không có nơi cuối cùng. Cảm nhận về sự tồn tại trong thơ Đỗ Doãn Phương chính là sự hòa nhập, hóa thân, song hành cùng vạn vật: 

 

Hình ảnh ta, một con người hiện thực

Đang dòng độc thoại

Ta không thấy mình đang tồn tại” (Đường phố, lúc nửa đêm).

 

Thơ Đỗ Doãn Phương thường mang đến cảm nhận về một đời sống khác, đời sống ở thế giới bên kia. Nhà thơ đã lấy những hình ảnh, hiện tượng cụ thể làm biển chỉ đường, như dẫn đoàn tàu qua một “sân ga” để sang một hành trình mới. Sân ga đó trong “Tuyệt ca” có thể là bức màn vô minh, những ranh giới vô hình, những khối hình tăm tối... Hoặc được hiển thị thành hình ảnh cụ thể, một sáng sương mờ, đám mây, bóng nước…: 

 

Ra đến ngoại ô chẳng thấy cây đèn nào

Đêm tối tăm, tôi bình tĩnh bước vào

Với một vốc số đếm” (Nói với những ngọn đèn đường 2).

 

Sân ga ấy có thể ở bất kỳ đâu trên mặt đất bao la này. Có thể là nóc nhà, một mẻ lưới, bức ảnh, ngôi chùa cổ… Hoặc ngay chỗ ta ngồi, tầng đất mở ra sâu thăm thẳm như một miệng vực, mà dưới đó dường như vẫn tồn tại một đời sống sinh động từ quá khứ: 

 

Đội thợ giếng biết được bí mật này

Họ nói đám thợ nề thợ đấu

Vì thế, họ liên tục ca hát

Để giữ thăng bằng trên mặt đất” (Bài hát của những người thợ).

 

Tiếng hát của những người thợ đã giữ cho mặt đất được thăng bằng chính là “con mắt thứ ba” của bài thơ vừa được mở. Con mắt ấy cho ta nhìn thấy vẻ đẹp trong cuộc sinh tồn lam lũ, vất vả của những người thợ.

 

Thơ Đỗ Doãn Phương luôn mở ra những tầm nhìn mới, để mỗi người đọc thơ ông cảm thấy mình được sống trong vòng bao bọc, che chở của cả vũ trụ. Trong bài thơ “Chuyến bay gặp thời tiết xấu”, những người ngồi trong máy bay đang hoảng sợ, lo lắng nếu sự cố xấu nhất có thể xảy ra. Nhưng họ đã bình tĩnh trở lại khi biết rằng: 

 

Ở rất xa, dưới mặt đất, giữa cơn giông

Một đứa trẻ kiên nhẫn nhìn lên cao, về phía chúng ta, và nó ao ước

Chúng ta bay bình yên trong tầm mắt che chở của nó”.

 

Đỗ Doãn Phương viết nhiều về những điều bình dị của đời sống thường nhật, như: “Đưa con vào lớp Một”, “Ai dậy sớm”, “Tự sự của cây chuối”, “Về quê giữa tuần”, “Buổi sáng rời quê”, “Viết cho em gái”, “Trồng khoai tây”... Ông cũng viết về những nghi thức tôn giáo, hành thiền, những phong tục dân gian Việt Nam như: Cúng thần linh”, “Cúng Táo quân”, “Xem tế giao thừa”… Bằng bút pháp khá đa dạng, nhà thơ luôn thể hiện trong thơ mình nỗi cô đơn, thoáng chốc của kiếp người. Trong bài thơ “Với con”, nhà thơ viết về một đêm sâu thanh vắng nào đó, chứng kiến con ông thức dậy bò quanh cha mẹ khóc nghêu ngao. Để chung với ông suy nghĩ về sự gấp ruổi của dòng thời gian, lúc chỉ còn lại những đứa con đã lớn khôn nơi trần thế. Đoạn thơ sau đây tựa chiếc lá rơi xuống một phiến đá. Rồi gió bất chợt ào đến quét đi: 

 

Trong tối tăm con oà khóc

Bố mẹ vẫn nằm đó

Nhưng lại ở nơi đâu?” (Với con).

 

Bài thơ “Viết cho bà ngoại dưới đáy biển”, theo tôi, là bài tiêu biểu cho cách viết của nhà thơ Đỗ Doãn Phương trong tập thơ “Tuyệt ca”, thể hiện rõ nét, từ cách chọn hình ảnh, cấu trúc không gian, chọn ngôn ngữ diễn đạt… đến thời điểm khai mở “con mắt thứ ba”. Nguyên văn bài thơ như sau:

 

Viết cho bà ngoại dưới đáy biển

 

Cháu đã tìm bà ở khắp thế gian

Trên trời xanh, cháu nhìn không thấy

Dưới đất sâu, khi cải cát, cháu cũng không gặp bà

Quần áo và những gì còn lại của bà đã được chuyển đi nơi khác

 

Hôm nay cháu lại lặn xuống dưới 5m nước sâu

Xem có bà dưới đáy biển?

Bà có đi lụm cụm trên bề mặt rạn san hô?

Theo đàn cá ngũ sắc?

 

Căn nhà dưới biển của bà mở cửa sổ ra hướng nào?

Mâm cơm dọn ra ở đâu, dầu đèn nào để bà thắp?

Bà có ngửa cổ nhìn lên mặt nước mỗi sớm mai

Để đón ánh mặt trời khúc xạ

 

Dưới lòng biển, cây cối như núi rừng

Chiều sâu như chiều cao, và phải lộn đầu để đi xuống

Dưới lòng biển, phải đi mãi mới chạm tới đất

Và ai cũng sống lơ lửng ở lưng chừng

 

Càng xuống sâu, máu cháu càng lạnh như loài cá đang bơi 

Đời sống phù sinh của chúng ta hiện ra trong vệt sủi bong bóng

Ai cũng cố tìm cho mình hơi thở

Cho đến khi hai lá phổi hóa thành mang

 

Bà có ở dưới này không, nơi tận cùng của ba cõi

Những con cá xây mặt lại và nhìn

Chúng bảo rằng chúng ta đang ở giữa một bể cá lớn

Và những người chết đang đứng ngoài quan sát.

 

Bài thơ từ mở đầu đến kết thúc là một câu truyện về cuộc phiêu lưu của nhà thơ trong lòng đại dương để tìm bà. Trong văn bản có phần mở-dẫn, diễn biến-phát triển, tạo cao trào-thắt nút, mở nút-ra truyện… Nhưng, mỗi khổ thơ trong bài là một lớp hay một cảnh gần như riêng biệt. Riêng khổ thơ đầu, mỗi câu thơ gợi liên tưởng nhiều chiều về không-thời gian, vũ trụ. Cháu đã tìm bà ở khắp thế gian, sau câu tự sự với bà, thực chất là sự khai mở chính cõi lòng mình, Đỗ Doãn Phương đã phác họa điểm nhìn từ trời xanh đến đất sâu, bao hàm trọn vẹn không gian của câu chuyện. Thậm chí có thể coi khổ thơ bốn câu này là một bài thơ độc lập. Ba khổ thơ tiếp theo là diễn biến câu chuyện của nhà thơ đi “thám hiểm” trong cõi lạ tìm bà: 

 

Xem có bà dưới đáy biển?

Bà có đi lụm cụm trên bề mặt rạn san hô?

Theo đàn cá ngũ sắc?

 

Căn nhà dưới biển của bà mở cửa sổ ra hướng nào?

Mâm cơm dọn ra ở đâu, dầu đèn nào để bà thắp?” 

 

Nhà thơ liên tiếp đặt ra những câu nghi vấn như trong trạng thái mộng du. Ánh sáng đặc tả ở đây chập chờn, khiến người đọc như đi vào một không gian mộng mị mà trong suốt, nửa hư nửa thực. Rồi hình ảnh người bà đã có lúc hiện ra rõ nét trong lòng biển tĩnh lặng: 

 

Bà có ngửa cổ nhìn lên mặt nước mỗi sớm mai

Để đón ánh mặt trời khúc xạ”.

 

Cuộc phiêu lưu cứ thế diễn biến đến thời điểm mà nhà thơ hóa thành con cá, đến khi hai lá phổi hóa thành mang, thì “con mắt thứ ba” của bài thơ đột nhiên mở lớn. Dưới đáy đại dương, mà nhà thơ gọi là nơi tận cùng của ba cõi, Đỗ Doãn Phương gặp cả đàn cá, thấy chúng xây mặt lại nhìn: 

 

Chúng bảo rằng chúng ta đang ở giữa một bể cá lớn

Và những người chết đang đứng ngoài quan sát”.

 

Bài thơ này giống như một truyện ngắn kết thúc theo hướng mở. Ở đây là khoảng không, hay rộng hơn là vũ trụ, đã được mở nối thông hiện tại với quá khứ và cả tương lai. Mọi hình ảnh trong đó đều đồng hiện trong một cõi giới linh thiêng, huyền hoặc.

 

Chùm thơ viết cho người tình trong “Tuyệt ca” vẫn nằm trong mạch chảy “phân thân” suốt tập thơ. Với giọng điệu dữ dội, thơ tình Đỗ Doãn Phương cho tôi liên tưởng tới những vần thơ tình nóng bỏng của của các nhà thơ Mỹ La-tinh. Xin dẫn chiếu câu thơ của Octavio Paz[2]

 

Em trút bỏ xiêm y trước mặt anh

Như cây trút lá”.

 

Hành động trút bỏ xiêm y của người phụ nữ hiện ra trong mắt người đọc không hề dung tục, là bởi ông đã chuẩn bị sẵn “chiếc phao” trong câu thơ tiếp theo Như cây trút lá.  Và đây, trong bài thơ “Tình yêu 3”, Đỗ Doãn Phương viết: 

 

Nàng rũ bỏ áo quần, bộc lộ thân hình khao khát

Nàng từ bỏ ngôn ngữ, tự bộc lộ trong tiếng rên

Nàng hé môi, răng, trao ta hơi thở từ trong cổ

Rồi nắm chặt tay dẫn ta chạm đáy”.

 

Và, như thủ pháp mà Octavio Paz đã dùng, đến khổ kết bài thơ, nhà thơ Đỗ Doãn Phương cũng tung “chiếc phao” của mình để về đích

 

Rùng mình

Nàng bẹp mình thành đất

Ta úp sấp thành trời”.

 

Những câu thơ này đã khiến những hình ảnh đặc tả tính giao rất hiện sinh. Được viết bằng cảm xúc mạnh và chín, ngay cả trong thơ tình Đỗ Doãn Phương vẫn luôn xuất hiện “con mắt thứ ba” như chính nhà thơ phân thân nhìn lại hành trình “trút bỏ” của mình: 

 

Mình đang sex bằng thân người khác (Tình yêu 7).

 

hay: 

 

Vừa tách khỏi Một

Ta nằm song song” (Tình yêu 7).

 

“Con mắt thứ ba” đã phát năng lượng ánh sáng xuyên suốt tập thơ “Tuyệt ca” của Đỗ Doãn Phương. Con mắt ấy đã dẫn dắt nhà thơ đi xuyên qua những mặt cắt của không gian, kết nối các chiều của thế giới, tâm linh, hiện sinh và vị lai. Tuy vậy, không phải lúc nào ánh quang của nó cũng sáng tỏ, đôi lúc nó chập chờn khiến cho quá trình “phân thân” của nhà thơ chưa hoàn thiện để thành một “kẻ khác”, chẳng hạn như trong một số bài thơ: “Bữa tối với những con sò”, “Mừng nhà mới”, “Mưa biển”…

 

Ý tưởng dẫn dắt người đọc tới thế giới bên kia qua “con mắt thứ ba” đã tạo nên cách kết cấu có chủ ý với những hình ảnh thơ được sắp đặt theo một lộ trình nhất quán. Song, điều khiến tôi bất ngờ là cách viết của Đỗ Doãn Phương thường giản dị, cố ý làm minh bạch đến mức tối đa những ý tưởng lạ, những khái niệm siêu hình, khó hiểu. Có thể nói, nhà thơ đã chọn con đường ngắn nhất để đưa thơ mình tới trái tim bạn đọc. Ông thường đuổi theo thần thái bài thơ chứ ít khi nương theo câu chữ. Khi được hỏi về quan niệm sáng tác nhân tập thơ "Hoan ca" của ông đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (2010-2011), nhà thơ bày tỏ: "Cốt lõi bài thơ là ý tưởng và tôi coi trọng cái phần lõi hơn. Cái phần lõi ấy ngay khi hình thành đã thăng hoa, dù mình có viết ra thành thơ hay không thì nó vẫn cứ cháy sáng để soi rọi cho cuộc sống của mình. Phần vỏ thì cố gắng sao càng giản dị càng tốt. Tôi không dùng mỹ từ, không thích tính từ, mà trọng các động từ và các từ bình thường nhất trong cuộc sống" (Trả lời phỏng vấn báo Hà Nội Mới, 30/03/2012).

 

Những bài thơ có tứ mạnh, ám ảnh thường được nhà thơ diễn đạt bằng ngôn ngữ trong sáng, tối giản. Đáng lưu ý là Đỗ Doãn Phương cũng không lệ thuộc vào những thủ pháp của các trào lưu hiện đại. Có những bài được nhà thơ lập tứ và thi triển rất gần với thơ truyền thống như “Kinh cầu”, “Trở về”… Tuy nhiên ở những bài này, thi pháp ấy lại gây cho người đọc cảm giác hơi hụt hẫng. Vì với những gì diễn tiến xuyên suốt tập thơ, ta mong đợi những ý tưởng độc đáo hơn, gây xúc động mạnh hơn, khẳng định rõ hơn dấu ấn cá nhân người sáng tạo.

 

“Con mắt thứ ba” trong tập thơ “Tuyệt ca” đã khai mở liên tưởng, tạo nên một thế giới thơ rất riêng của Đỗ Doãn Phương. “Tuyệt ca” là bước dấn thân quyết liệt hơn, hoàn thiện và tạo được độ mở lớn hơn ba tập thơ trước đó đã được nhà thơ công bố: “Ánh chớp” (Nxb Hội Nhà văn, 2006), “Những ngọn triều nhục cảm” (Nxb Hội Nhà văn, 2008), và “Hoan ca” (Nxb Hội Nhà văn, 2011). Tôi đã gặp trong suốt tập thơ “Tuyệt ca” một con người sáng tạo, luôn có ý thức quẫy đạp để chui ra khỏi lớp “thịt da mờ mịt” tìm đến “kỷ Sáng thế mới”.

 

Nhà thơ Đỗ Doãn Phương sinh năm 1977, sau các nhà thơ thế hệ đầu tiên Đổi mới như Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Lương Ngọc, Dương Kiều Minh… khoảng hai mươi năm. Theo quan sát của tôi, tại các nước Âu - Mỹ, thường sau một chu kỳ khoảng 15 - 20 năm, nền văn học của họ xuất hiện một thế hệ tác giả mới khác với thế hệ trước đó. Tôi cho rằng, Đỗ Doãn Phương là một trong số các nhà thơ cách tân thuộc thế hệ thứ hai sau Đổi mới (1986) tại Việt Nam. Đây là thế hệ không chịu ảnh hưởng trực tiếp không khí của cuộc chiến tranh vệ quốc. Trước thời điểm Đổi mới, độ tuổi của họ còn chưa đủ chín để nhận thức đầy đủ những cam go, ngột ngạt của đời sống bao cấp lúc đó. Thực tế, những tác giả thế hệ này được sống và viết trong một cơ chế cởi mở, tự do hơn, được trải nghiệm và mở tầm nhìn ra bên ngoài rộng hơn thế hệ đi trước. Bạn đọc yêu thơ có thể sẽ chia sẻ với tôi sự mong đợi ở thế hệ thơ cách tân thứ hai này.


3/2016

 


______________________________

[1] Bradford Skow: Tiến sĩ triết học và giáo sư khoa Triết học, trường Đại học MIT của Mỹ. Ông có sở thích nghiên cứu triết học vật lý, triết học khoa học, siêu hình học và đạo đức học. Cuốn Objective Becoming của ông được Nhà xuất bản Đại học Oxford xuất bản năm 2015.  (Nguồn: https://philosophy.mit.edu/skow/)

 

[2] Octavio Paz (1914 – 1998), nhà thơ, nhà văn, nhà ngoại giao Mexico. Các tác phẩm của ông theo khuynh hướng siêu thực và hiện sinh; ông đoạt nhiều giải thưởng lớn về văn chương, trong đó có giải the Miguel de Cervantes Prize (1981) và giải Nobel (1990).

 

 

 


 

Bìa tập thơ “Tuyệt ca”

 

 

 

 

 

 

 


BÀI KHÁC
1 2 3 

image advertisement
image advertisement
image advertisement




























Thiết kế bởi VNPT | Quản trị