“Con mắt thứ ba” trong thơ Đỗ Doãn Phương (phê bình) - Mai Văn Phấn
“Con mắt thứ ba” trong thơ Đỗ Doãn Phương
(Đọc tập thơ “Tuyệt ca” của Đỗ Doãn Phương, Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây & Nxb Văn học, 2013)
Nhà thơ Đỗ Doãn Phương
Mai Văn Phấn
Đó là
con mắt được khai mở ở những người tu tập thiền hoặc người tu hành khi chứng ngộ được Pháp. Họ gọi con mắt đặc biệt ấy là
mắt của tâm trí, Thần nhãn hay Huệ nhãn, hay “con mắt thứ ba”, nơi phát
ra năng lượng, giúp con người có thể nhìn được cõi vô hình, kết nối các chiều
không gian và thời gian, thấy được quá khứ và tương lai. Đọc tập thơ “Tuyệt ca” (Trung tâm Văn hóa ngôn
ngữ Đông Tây & Nxb Văn học, 2013) của nhà thơ Đỗ Doãn Phương, tôi bắt gặp
ánh sáng lạ, thứ ánh sáng huyền vi. Trong ánh sáng ấy, nhà thơ đã phân thân
thành “kẻ khác” du ngoạn trong và ngoài vũ trụ, sống với vạn vật, nhập hồn mình
vào vạn vật. Ánh sáng ấy đã giúp tôi nhận biết các chiều kích không-thời gian
khác với trước đây tôi vẫn hình dung. Tôi cảm nhận mình đã được khai mở “con
mắt thứ ba” để nhìn thấy những cõi ảo huyền trong thơ Đỗ Doãn Phương.
Mở đầu tập thơ “Tuyệt ca”, Đỗ Doãn Phương viết:
“Không phải là
tuyệt vời, “Tuyệt ca” của tôi là bài ca từ bỏ, dứt bỏ. Nhẹ nhàng là từ bỏ cuộc
tình; nặng hơn là trút bỏ cả thịt, da của kiếp này”.
Quan niệm về sự từ bỏ hay trút bỏ của Đỗ Doãn Phương là bắt đầu một hành trình mới trên những
con đường khác. Trong tập thơ “Hoan ca”
xuất bản năm 2011, “con mắt thứ ba” của Đỗ Doãn Phương đã dần dần khai mở để
khởi phát cuộc giác ngộ:
“Và chờ khoảnh
khắc phát xuất
Sang một con người khác” (Giác ngộ).
Đến tập thơ “Tuyệt ca”, con mắt ấy của nhà thơ mở
lớn và bao quát. Nó làm thay đổi điểm nhìn, cách nhìn của ta về hiện thực đời
sống, về không gian và thời gian, vũ trụ, tâm linh.... Từ đời sống hiện hữu
này, ta được mở thêm tầm nhìn khác về những thế giới khác.
Trong cuốn
sách “Trở thành mục tiêu” (Objective Becoming) của Tiến sĩ Bradford
Skow,
ông cho rằng thời gian không chỉ là một mũi tên hướng về phía trước, mà còn
được trải ra theo các hướng của không gian trong vũ trụ. Cũng theo Bradford
Skow, không gian-thời gian là một “vũ trụ hình khối” (block universe), trong đó quá khứ, hiện tại và tương lai cùng tồn
tại và đồng hiện.
Tính đồng hiện là
đặc điểm nổi bật trong thơ Đỗ Doãn Phương, cũng như thơ của các tác giả thuộc
thế hệ Đổi mới sau 1986 tại Việt Nam. Tính đồng hiện trong thơ Việt, thực ra
được khởi phát từ phong trào Thơ mới, dễ nhận thấy hơn khi các nhà thơ thuộc
trào lưu này chuyển đổi thi pháp từ Hiện thực và Lãng mạn sang Tượng trưng,
Siêu Thực. Ở thế hệ này, tính đồng hiện được dùng như một thủ pháp để liên
tưởng và kết nối hình ảnh đơn lẻ. Nhưng với thế hệ thơ Đổi mới hiện nay, tính
đồng hiện được áp dụng để cấu trúc không gian toàn bộ bài thơ và mở ra những
liên tưởng khác lạ sau văn bản thơ. Mỗi tác giả của thế hệ mới này thường có
những thủ pháp riêng tạo ra tính đồng hiện trong thơ mình. Trong thơ Đỗ Doãn
Phương, “cánh cửa” của đồng hiện thường được mở ra ở cuối mỗi bài thơ, tạo sự
hấp dẫn bất ngờ. Xin dẫn bài thơ “Mầm cây”,
trong đó xuất hiện hai nhân vật mầm cây
và em bé. Mầm cây được dự báo sẽ mang
dung mạo một vị thánh, còn em bé khi lớn lên sẽ làm đứt tay của thánh thần. Và,
khi em bé trở thành nhà điêu khắc, “con mắt thứ ba” của nhà thơ mở ra, soi rọi
cho ta nhìn thấy điều lạ lùng, như cùng tác giả bài thơ đi ngược thời gian trở
về quá khứ:
“Tượng bị gọt
lẹm ngón tay
Tôi nhận ra một mầm cây trong tiền
kiếp”.
Hoặc trong bài thơ
“Những quân cờ thất lạc”, những Sỹ,
Tốt, Xe, Pháo, Mã… bị lũ trẻ ném tung khắp nhà nhưng vẫn “lẫm liệt oai
phong” nhờ “nhãn lực” đặc biệt này.
“Chúng tái lập
căn nhà theo cấu trúc bàn cờ mới
Chuẩn bị cho những nước đi lớn”.
Đọc
thơ Đỗ Doãn Phương, tôi nhận ra một quy luật. “Con mắt thứ ba” thường được khai
mở khi tâm hồn nhà thơ yên định nhất. Nó nhắc nhở người đọc bình tĩnh nhìn lại
cuộc đời mình trong quá khứ, như xem lại một đoạn phim:
“Chợt
lạnh buốt: hay mình đã chết? Mình đang nhìn lại đời mình từ thế giới bên kia” (Xem lại đoạn phim quay mình).
Có khi
con mắt ấy lại biến nhà thơ thành một kẻ quan sát như trong bài thơ “Bữa tiệc ly”. Bữa tiệc ấy chỉ có tôi và em, nhưng khi “con mắt thứ ba” của nhà thơ khai thị, thì tôi lại phân thân thành chính mình tít cao xanh ngắm xuống:
“Bữa
tiệc còn dở dang, về hai thế giới
Ngồi đến cuối tiệc
cùng nhau trong một thân xác mới”.
“Con
mắt thứ ba” trong thơ Đỗ Doãn Phương mở ra quanh ta một đời sống thiên hình vạn
trạng. Trong bài thơ “Nói với con cá”,
Đỗ Doãn Phương đặt nỗi cô đơn của mình đối diện với một con cá, với Bên trong súc thịt mi, vốn chỉ để nướng, kho.
Có thể thấy, nhà thơ đã kết nối thế giới hiện tại với những kỷ nguyên xa xưa,
từ khi trái đất chưa xuất hiện con người. Ở đây, hình ảnh con cá và nhà thơ tựa
như hai dấu chấm, hai cái mốc bé nhỏ trong cõi vô thủy vô chung, nhưng tràn đầy
tình yêu thương trong không-thời gian bất tận. Sự sống ở đó được mở ra thênh
thang, hàm ẩn sự mầu nhiệm của vũ trụ:
“Mi
ở trong nước, ta ở trên bờ
Cách nhau hàng
triệu năm tiến hoá
Bởi cách xa, chúng
ta chấp nhận mờ mịt
Hai cái bóng lớn
đứng cạnh nhau”.
Khái
niệm từ bỏ, trút bỏ trong “Tuyệt ca”
đồng nghĩa với phục sinh, khai sinh đời sống khác. Bài thơ “Mẹ ốm” đem đến cảm giác lạ lùng phi lý, song
bằng những cảm xúc mạnh mẽ, chân thành, nhà thơ thể hiện trong đó niềm khát
vọng đáp đền nghĩa sinh thành sâu dày thâm trọng của mẹ:
“Nếu
có thể, đất trời ơi, hãy biến con thành người đàn bà to lớn
Con
sẽ đẻ ra mẹ
Từ
con, cuộc sống của mẹ sẽ thành hình”.
Hay
trong bài thơ “Mơ thấy bà ngoại”, nhà
thơ cảm nhận tấm thân nặng nhọc của
bà đã gửi lại nơi nào để nhẹ nhàng đi về trong giấc mơ của ông:
“Tấm
thân nặng nhọc bà trút bỏ nơi nào
Chỉ
trong mơ, sợ ngã, cảm, đói
Mới
cho cháu cảm giác bà đang tồn tại”.
Diễn
tiến cảm xúc trong thơ Đỗ Doãn Phương cũng là một hành trình, tựa những cột mốc
dẫn tới đích của sự từ bỏ, trút bỏ... Câu thơ độc thoại sau đây nói
về sự kết thúc của một cuộc thế nhưng không làm người đọc cảm thấy lạnh lẽo,
đơn độc. Ngược lại, rất gần gũi, ấm áp:
“Ngày
ta được chôn ở đây
Mảnh
đất này mới nên thân thiết” (Qua đồi).
Những
bài thơ trong “Tuyệt ca” thường nhắc
tới sự vô thủy vô chung của vũ trụ, tức không có chỗ bắt đầu, không có nơi cuối
cùng. Cảm nhận về sự tồn tại trong thơ Đỗ Doãn Phương chính là sự hòa nhập, hóa
thân, song hành cùng vạn vật:
“Hình
ảnh ta, một con người hiện thực
Đang
dòng độc thoại
Ta
không thấy mình đang tồn tại” (Đường phố,
lúc nửa đêm).
Thơ Đỗ
Doãn Phương thường mang đến cảm nhận về một đời sống khác, đời sống ở thế giới
bên kia. Nhà thơ đã lấy những hình ảnh, hiện tượng cụ thể làm biển chỉ đường,
như dẫn đoàn tàu qua một “sân ga” để sang một hành trình mới. Sân ga đó trong “Tuyệt ca” có thể là bức màn vô
minh, những ranh giới vô hình, những khối hình tăm tối... Hoặc được hiển thị thành hình ảnh
cụ thể, một sáng sương mờ, đám mây, bóng nước…:
“Ra
đến ngoại ô chẳng thấy cây đèn nào
Đêm
tối tăm, tôi bình tĩnh bước vào
Với
một vốc số đếm” (Nói với
những ngọn đèn đường 2).
Sân ga
ấy có thể ở bất kỳ đâu trên mặt đất bao la này. Có thể là nóc nhà, một mẻ lưới,
bức ảnh, ngôi chùa cổ… Hoặc ngay chỗ ta ngồi, tầng đất mở ra sâu thăm thẳm như một miệng vực, mà dưới đó dường
như vẫn tồn tại một đời sống sinh động từ quá khứ:
“Đội
thợ giếng biết được bí mật này
Họ
nói đám thợ nề thợ đấu
Vì
thế, họ liên tục ca hát
Để
giữ thăng bằng trên mặt đất” (Bài hát của những
người thợ).
Tiếng
hát của những người thợ đã giữ cho mặt đất được thăng bằng chính là “con mắt thứ ba” của bài thơ vừa được mở. Con
mắt ấy cho ta nhìn thấy vẻ đẹp trong cuộc sinh tồn lam lũ, vất vả của những
người thợ.
Thơ Đỗ
Doãn Phương luôn mở ra những tầm nhìn mới, để mỗi người đọc thơ ông cảm thấy
mình được sống trong vòng bao bọc, che chở của cả vũ trụ. Trong bài thơ “Chuyến bay gặp thời tiết xấu”, những
người ngồi trong máy bay đang hoảng sợ, lo lắng nếu sự cố xấu nhất có thể xảy
ra. Nhưng họ đã bình tĩnh trở lại khi biết rằng:
“Ở
rất xa, dưới mặt đất, giữa cơn giông
Một
đứa trẻ kiên nhẫn nhìn lên cao, về phía chúng ta, và nó ao ước
Chúng
ta bay bình yên trong tầm mắt che chở của nó”.
Đỗ
Doãn Phương viết nhiều về những điều bình dị của đời sống thường nhật, như: “Đưa con vào lớp Một”, “Ai dậy sớm”, “Tự sự của cây chuối”, “Về quê
giữa tuần”, “Buổi sáng rời quê”,
“Viết cho em gái”, “Trồng khoai tây”... Ông cũng viết về
những nghi thức tôn giáo, hành thiền, những phong tục dân gian Việt Nam như: “Cúng thần linh”, “Cúng Táo quân”, “Xem tế giao
thừa”… Bằng bút pháp khá đa dạng, nhà thơ luôn thể hiện trong thơ mình nỗi cô
đơn, thoáng chốc của kiếp người. Trong bài thơ “Với con”, nhà thơ viết về một đêm sâu thanh vắng nào đó, chứng kiến
con ông thức dậy bò quanh cha mẹ khóc nghêu ngao. Để chung với ông suy nghĩ về
sự gấp ruổi của dòng thời gian, lúc chỉ còn lại những đứa con đã lớn khôn nơi
trần thế. Đoạn thơ sau đây tựa chiếc lá rơi xuống một phiến đá. Rồi gió bất
chợt ào đến quét đi:
“Trong
tối tăm con oà khóc
Bố
mẹ vẫn nằm đó
Nhưng
lại ở nơi đâu?” (Với con).
Bài
thơ “Viết cho bà ngoại dưới đáy biển”,
theo tôi, là bài tiêu biểu cho cách viết của nhà thơ Đỗ Doãn Phương trong tập
thơ “Tuyệt ca”, thể hiện rõ nét, từ
cách chọn hình ảnh, cấu trúc không gian, chọn ngôn ngữ diễn đạt… đến thời điểm
khai mở “con mắt thứ ba”. Nguyên văn bài thơ như sau:
Viết
cho bà ngoại dưới đáy biển
Cháu
đã tìm bà ở khắp thế gian
Trên
trời xanh, cháu nhìn không thấy
Dưới
đất sâu, khi cải cát, cháu cũng không gặp bà
Quần áo và những gì còn
lại của bà đã được chuyển đi nơi khác
Hôm
nay cháu lại lặn xuống dưới 5m nước sâu
Xem
có bà dưới đáy biển?
Bà
có đi lụm cụm trên bề mặt rạn san hô?
Theo
đàn cá ngũ sắc?
Căn
nhà dưới biển của bà mở cửa sổ ra hướng nào?
Mâm
cơm dọn ra ở đâu, dầu đèn nào để bà thắp?
Bà
có ngửa cổ nhìn lên mặt nước mỗi sớm mai
Để
đón ánh mặt trời khúc xạ
Dưới
lòng biển, cây cối như núi rừng
Chiều
sâu như chiều cao, và phải lộn đầu để đi xuống
Dưới
lòng biển, phải đi mãi mới chạm tới đất
Và
ai cũng sống lơ lửng ở lưng chừng
Càng
xuống sâu, máu cháu càng lạnh như loài cá đang bơi
Đời sống phù sinh của chúng
ta hiện ra trong vệt sủi bong bóng
Ai
cũng cố tìm cho mình hơi thở
Cho
đến khi hai lá phổi hóa thành mang
Bà
có ở dưới này không, nơi tận cùng của ba cõi
Những
con cá xây mặt lại và nhìn
Chúng
bảo rằng chúng ta đang ở giữa một bể cá lớn
Và
những người chết đang đứng ngoài quan sát.
Bài thơ từ mở đầu
đến kết thúc là một câu truyện về cuộc phiêu lưu của nhà thơ trong lòng đại
dương để tìm bà. Trong văn bản có phần mở-dẫn, diễn biến-phát triển, tạo cao
trào-thắt nút, mở nút-ra truyện… Nhưng, mỗi khổ thơ trong bài là một lớp hay
một cảnh gần như riêng biệt. Riêng khổ thơ đầu, mỗi câu thơ gợi liên tưởng
nhiều chiều về không-thời gian, vũ trụ. Cháu
đã tìm bà ở khắp thế gian, sau câu tự sự với bà, thực chất là sự khai mở
chính cõi lòng mình, Đỗ Doãn Phương đã phác họa điểm nhìn từ trời xanh đến đất sâu, bao hàm trọn vẹn không gian của câu chuyện. Thậm chí có
thể coi khổ thơ bốn câu này là một bài thơ độc lập. Ba khổ thơ tiếp theo là
diễn biến câu chuyện của nhà thơ đi “thám hiểm” trong cõi lạ tìm bà:
“Xem có bà dưới đáy biển?
Bà
có đi lụm cụm trên bề mặt rạn san hô?
Theo
đàn cá ngũ sắc?
Căn
nhà dưới biển của bà mở cửa sổ ra hướng nào?
Mâm
cơm dọn ra ở đâu, dầu đèn nào để bà thắp?”
Nhà thơ liên tiếp
đặt ra những câu nghi vấn như trong trạng thái mộng du. Ánh sáng đặc tả ở đây chập
chờn, khiến người đọc như đi vào một không gian mộng mị mà trong suốt, nửa hư
nửa thực. Rồi hình ảnh người bà đã có lúc hiện ra rõ nét trong lòng biển tĩnh
lặng:
“Bà có ngửa cổ nhìn lên mặt nước mỗi sớm mai
Để
đón ánh mặt trời khúc xạ”.
Cuộc phiêu
lưu cứ thế diễn biến đến thời điểm mà nhà thơ hóa thành con cá, đến khi hai lá phổi hóa thành mang, thì
“con mắt thứ ba” của bài thơ đột nhiên mở lớn. Dưới đáy đại dương, mà nhà thơ
gọi là nơi tận cùng của ba cõi, Đỗ
Doãn Phương gặp cả đàn cá, thấy chúng xây mặt lại nhìn:
“Chúng bảo rằng chúng ta đang ở giữa một bể cá lớn
Và
những người chết đang đứng ngoài quan sát”.
Bài
thơ này giống như một truyện ngắn kết thúc theo hướng mở. Ở đây là khoảng
không, hay rộng hơn là vũ trụ, đã được mở nối thông hiện tại với quá khứ và cả
tương lai. Mọi hình ảnh trong đó đều đồng hiện trong một cõi giới linh thiêng,
huyền hoặc.
Chùm
thơ viết cho người tình trong “Tuyệt
ca” vẫn nằm trong mạch chảy “phân thân” suốt tập thơ. Với giọng điệu
dữ dội, thơ tình Đỗ Doãn Phương cho tôi liên tưởng tới những vần thơ tình nóng
bỏng của của các nhà thơ Mỹ La-tinh. Xin dẫn chiếu câu thơ của Octavio Paz:
“Em
trút bỏ xiêm y trước mặt anh
Như
cây trút lá”.
Hành
động trút bỏ xiêm y của người phụ nữ
hiện ra trong mắt người đọc không hề dung tục, là bởi ông đã chuẩn bị sẵn “chiếc
phao” trong câu thơ tiếp theo Như cây
trút lá. Và đây, trong bài thơ “Tình yêu 3”, Đỗ Doãn Phương viết:
“Nàng
rũ bỏ áo quần, bộc lộ thân hình khao khát
Nàng từ bỏ ngôn
ngữ, tự bộc lộ trong tiếng rên
Nàng hé môi, răng,
trao ta hơi thở từ trong cổ
Rồi nắm chặt tay
dẫn ta chạm đáy”.
Và,
như thủ pháp mà Octavio Paz đã dùng, đến khổ kết bài thơ, nhà thơ Đỗ Doãn Phương cũng tung
“chiếc phao” của mình để về đích:
“Rùng
mình
Nàng bẹp mình thành
đất
Ta úp sấp thành
trời”.
Những
câu thơ này đã khiến những hình ảnh đặc tả tính giao rất hiện sinh. Được viết
bằng cảm xúc mạnh và chín, ngay cả trong thơ tình Đỗ Doãn Phương vẫn luôn xuất
hiện “con mắt thứ ba” như chính nhà thơ phân thân nhìn lại hành trình “trút bỏ”
của mình:
“Mình
đang sex bằng thân người khác (Tình
yêu 7).
hay:
Vừa
tách khỏi Một
Ta nằm song song” (Tình yêu 7).
“Con
mắt thứ ba” đã phát năng lượng ánh sáng xuyên suốt tập thơ “Tuyệt ca” của Đỗ Doãn
Phương. Con mắt ấy đã dẫn dắt nhà thơ đi xuyên qua những mặt cắt của không
gian, kết nối các chiều của thế giới, tâm linh, hiện sinh và vị lai. Tuy vậy, không
phải lúc nào ánh quang của nó cũng sáng tỏ, đôi lúc nó chập chờn khiến cho quá
trình “phân thân” của nhà thơ chưa hoàn thiện để thành một “kẻ khác”, chẳng hạn
như trong một số bài thơ: “Bữa tối với
những con sò”, “Mừng nhà mới”, “Mưa biển”…
Ý
tưởng dẫn dắt người đọc tới thế giới bên kia qua “con mắt thứ ba” đã tạo nên
cách kết cấu có chủ ý với những hình ảnh thơ được sắp đặt theo một lộ trình
nhất quán. Song, điều khiến tôi bất ngờ là cách viết của Đỗ Doãn Phương thường
giản dị, cố ý làm minh bạch đến mức tối đa những ý tưởng lạ, những khái niệm
siêu hình, khó hiểu. Có thể nói, nhà thơ đã chọn con đường ngắn nhất để đưa thơ
mình tới trái tim bạn đọc. Ông thường đuổi theo thần thái bài thơ chứ ít khi
nương theo câu chữ. Khi được hỏi về quan niệm sáng tác nhân tập thơ "Hoan ca" của ông đoạt Giải thưởng
Hội Nhà văn Việt Nam (2010-2011), nhà thơ bày tỏ: "Cốt lõi bài thơ là ý tưởng và tôi coi trọng cái phần lõi hơn. Cái phần
lõi ấy ngay khi hình thành đã thăng hoa, dù mình có viết ra thành thơ hay không
thì nó vẫn cứ cháy sáng để soi rọi cho cuộc sống của mình. Phần vỏ thì cố gắng
sao càng giản dị càng tốt. Tôi không dùng mỹ từ, không thích tính từ, mà trọng
các động từ và các từ bình thường nhất trong cuộc sống" (Trả lời phỏng vấn báo Hà Nội Mới, 30/03/2012).
Những
bài thơ có tứ mạnh, ám ảnh thường được nhà thơ diễn đạt bằng ngôn ngữ trong
sáng, tối giản. Đáng lưu ý là Đỗ Doãn Phương cũng không lệ thuộc vào những thủ
pháp của các trào lưu hiện đại. Có những bài được nhà thơ lập tứ và thi triển
rất gần với thơ truyền thống như “Kinh
cầu”, “Trở về”… Tuy nhiên ở những
bài này, thi pháp ấy lại gây cho người đọc cảm giác hơi hụt hẫng. Vì với những
gì diễn tiến xuyên suốt tập thơ, ta mong đợi những ý tưởng độc đáo hơn, gây xúc
động mạnh hơn, khẳng định rõ hơn dấu ấn cá nhân người sáng tạo.
“Con
mắt thứ ba” trong tập thơ “Tuyệt ca”
đã khai mở liên tưởng, tạo nên một thế giới thơ rất riêng của Đỗ Doãn Phương. “Tuyệt ca” là bước dấn thân quyết liệt
hơn, hoàn thiện và tạo được độ mở lớn hơn ba tập thơ trước đó đã được nhà thơ
công bố: “Ánh chớp” (Nxb Hội Nhà văn,
2006), “Những ngọn triều nhục cảm”
(Nxb Hội Nhà văn, 2008), và “Hoan ca”
(Nxb Hội Nhà văn, 2011). Tôi đã gặp trong suốt tập thơ “Tuyệt ca” một con người sáng tạo, luôn có ý thức quẫy đạp để chui
ra khỏi lớp “thịt da mờ mịt” tìm đến “kỷ Sáng thế mới”.
Nhà thơ Đỗ Doãn Phương sinh năm 1977, sau các nhà thơ thế
hệ đầu tiên Đổi mới như Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Lương Ngọc, Dương Kiều Minh… khoảng hai
mươi năm. Theo quan sát của tôi, tại các nước Âu - Mỹ, thường sau một chu kỳ
khoảng 15 - 20 năm, nền văn học của họ xuất hiện một thế hệ tác giả mới khác
với thế hệ trước đó. Tôi cho rằng, Đỗ Doãn Phương là một trong số các nhà thơ
cách tân thuộc thế hệ thứ hai sau Đổi mới (1986) tại Việt Nam. Đây là thế hệ
không chịu ảnh hưởng trực tiếp không khí của cuộc chiến tranh vệ quốc. Trước
thời điểm Đổi mới, độ tuổi của họ còn chưa đủ chín để nhận thức đầy đủ những
cam go, ngột ngạt của đời sống bao cấp lúc đó. Thực tế, những tác giả thế hệ
này được sống và viết trong một cơ chế cởi mở, tự do hơn, được trải nghiệm và
mở tầm nhìn ra bên ngoài rộng hơn thế hệ đi trước. Bạn đọc yêu thơ có thể sẽ
chia sẻ với tôi sự mong đợi ở thế hệ thơ cách tân thứ hai này.
3/2016
Octavio
Paz (1914 – 1998), nhà thơ, nhà văn, nhà ngoại giao Mexico. Các tác phẩm của ông
theo khuynh hướng siêu thực và hiện sinh; ông đoạt nhiều giải thưởng lớn về văn
chương, trong đó có giải the Miguel de Cervantes Prize (1981) và giải Nobel
(1990).
Bìa tập thơ “Tuyệt ca”