Thơ tuyển Mai Văn Phấn
Khoảng hai mươi năm trước tôi đã có dịp bộc
lộ lòng yêu mến chất tâm hồn Mai Văn Phấn (MVP) khi viết về tập thơ đầu tay của
anh. Hôm nay tôi vẫn giữ lòng yêu mến ấy, nhất là đối với phần thơ lục bát đầu
tập tuyển này mà tác giả chú thích là từ khởi đầu đến 1995. Chặng thơ này bộc
lộ một đặc điểm MVP. Ấy là phóng túng trong cảm xúc và logic trong tư duy thơ.
Thử lấy ngẫu nhiên một bài, bài Khúc cảm mùa thu, trang 18:
Hóa thân
giọt nước mùa hè
Một đêm trở
gió bay về với thu
Dẫu chưa
trọn kiếp sương mù
Xin tan
loãng kẻo trăng lu cuối trời
Bao lần xanh
biếc rong chơi
Mấy lần úa
rụng tiếng người vọng theo
Thôi em!
Đừng vặn! Đừng khêu!
Đáy thu thắp
sáng trên nhiều ngọn cây
Anh vừa đọng
xuống thu gày
Đã đông
thành đá phủ đầy rêu xanh (1)
Hồi ấy, cuộc thi thơ trên báo Người Hà Nội
trao giải cao cho bài thơ Nghi Tàm của MVP cũng trong khuynh
hướng ghi nhận phẩm chất tâm hồn này.
Nhưng thơ MVP không chỉ phát triển theo lợi
thế này. Một lần gặp anh ở Hải Phòng, anh thì thào thông báo: anh đã tìm một
hướng mới cho thơ. Tôi nhớ gương mặt anh khi ấy: hào hứng, phấn khích và cỏ vẻ
bí mật như người mới tìm ra chỗ có dấu vàng. Kể lại chi tiết này tôi muốn lưu
ý: MVP rất ý thức với hướng tìm của mình. Gần hai mươi năm trôi qua, nhiều tập
thơ của anh đã xuất bản, MVP cũng nhiều lần bộc lộ quan niệm thơ. Anh tự điểm
diện: “Nhìn lại 9 tập thơ, đó là cách tôi
đi từ truyền thống đến hiện đại và tìm ra giọng nói thi ca riêng biệt như bây
giờ. Ở tập Vách nước hình ảnh siêu
thực đa dạng và phồn tạp. Nhưng đến những tập thơ sau này, nhất là Bầu trời không mái che vừa xuất bản, tôi
cố gắng tránh cách biểu hiện đó. Thực ra “siêu thực” không còn mới mẻ, nhưng
“vết bỏng” của nó vẫn ảnh hưởng tới nhiều thế hệ sau này (...) Sau khi đã băng
qua những “sa mạc” như Siêu thực, Tượng trưng, Biểu hiện, thơ Ngôn ngữ, Tân
hình thức, Hậu hiện đại, Cổ điển mới... tôi thấy sao chúng ta không tự tìm lấy
một khuynh hướng, mà phải lệ thuộc vào “thằng Tây”. Những khuynh hướng ấy bên
ngoài họ đã xếp vào viện bảo tàng từ thế kỷ trước, trong khi chúng ta vẫn lúng
túng, tranh cãi... Vậy “thong dong” là cách tôi tìm về với cội nguồn thi ca, ĐỂ
CHO CẢM XÚC TRÔI CHẢY TỰ NHIÊN VÀ TÌM CÁCH NÓI HỒN NHIÊN, TỐI GIẢN, TRONG TRẺO
NHẤT.” (Tôi nhấn mạnh, VQP)
Tôi chắc bạn viết, bạn đọc không ai không tán
thành khuynh hướng này. Cái đích đến của anh là sự hồn nhiên trong trẻo cả
trong cảm xúc lẫn cách thể hiện. Nhưng để đến được đó là cả một quá trình. Anh
nói: Tiếc những năm trước đây mình loay
hoay lúng túng lâu quá. Chỗ anh tiếc là chỗ chúng ta yêu mến anh. Yêu mến
thái đô dấn thân. Yêu mến tinh thần tìm, nhất là yêu mến ý thức tự nhận
ra cái chỗ tìm mà chưa thấy của anh (loay
hoay lúng túng) để tự “vong thân” mà đi tiếp, đi cho tới hồn nhiên, trong
trẻo. Tôi chắc từ đây thơ anh sẽ “thong dong”. Thong dong trong sự định hướng:
hồn nhiên, trong sáng để tiếp tục đi, như anh tự nhủ: lại phải chuẩn bị cho cuộc lên đường mới. Cái đích đến ngỡ như là
đích của “muôn đời” ấy, MVP đã phải trả giá bằng những cuộc tìm không hồn nhiên
chút nào. Đóng góp của MVP không chỉ ở gầu nước mát Hồn nhiên trong trẻo anh
dâng độc giả khi họ đang cơn khát mà còn ở cái cách anh đã băng qua những sa
mạc siêu thực, tượng trưng... để tìm ra nước…
Như đã nói ở trên, trước khi nhập cuộc tìm,
MVP đã có thơ nằm trong sự chờ đợi của bạn đọc. Đó là một may mắn, nhưng may
mắn hơn là anh lại biết: ngoài con đường của mình, của nước mình, của phương
Đông mình còn có những con đường khác của thiên hạ cũng mở ra những miền đất,
những chân trời. Chính cái sự biết ấy dẫn đến một say mê: cách tân. Anh đã bền
bỉ đọc, viết, kiên định làm mới thơ mình. Tháng 8 năm 2010, MVP bộc lộ trên báo
Thể thao & Văn hóa: thực trạng văn
học nước nhà, đặc biệt trên lãnh vực thi ca vẫn trì trệ và lạc hậu so với một
số nước trong khu vực (...) chứ chưa dám so sánh với các cường quốc thi ca như
Pháp, Anh, Mỹ, Trung Quốc... Văn bản là thế, nhưng tôi xin phép anh MVP
được hiểu “thoáng” hơn một chút.
So sánh về khoa học, công nghệ dễ cụ thể hơn
là so sánh về văn hóa, về lối sống nhất là về thi ca, vốn là chất tâm hồn, chất
tư tưởng của các dân tộc. Tôi nghĩ một nền thơ có sức xốc dậy một dân tộc nhỏ
và kém trang bị dám đứng dậy đòi độc lập tự do, Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy, không thể là nền thơ trì trệ.
Tôi cũng không nghĩ một nền thơ mà giữa những bức xúc, thậm chí suy thoái trong
nhiều lĩnh vực hoạt động xã hội như hôm nay mà vẫn có những nhà thơ dám từ bỏ
lợi thế ban đầu của tài năng mình để tìm đường khai phá, làm lại như MVP; hoặc
dám vượt lên những bó buộc của cảnh ngộ, của thời thượng để kiên trì làm bừng
sáng giá trị một thể thơ truyền thống như Đồng Đức Bốn lại là một nền thơ lạc
hậu. Cái cần câu của chúng ta quả có khác cái cần câu của thiên hạ, còn để đánh
giá mức tiên tiến, mức lợi hại của cần câu thì chí ít cũng phải xem lượng cá
trong giỏ các ông câu ấy. Một nền thơ đủ để bảo vệ, để phát triển tâm hồn, tư
tưởng, cách hành xử của một dân tộc không thể là trì trệ, lạc hậu, dù nó không
tân kỳ trong quảng cáo, trong tuyên ngôn. Giữa tiệc rượu chúng ta không việc gì
lại xấu hổ khi không biết dùng dao và dĩa. Học cầm đũa có khi còn khó hơn học
cầm dao, dĩa. Nhưng khó hay dễ cũng không nóng lạnh gì, cái chính là các công
cụ ấy, các thao tác ấy đã giúp dân ta nhiều đời thong dong ẩm thực. Người Ấn Độ ăn bốc (ăn bốc cũng là một đẳng cấp
hưởng thụ mà ông bà ta đã xác nhận trong ca dao), nhưng họ lại làm giàu cho thơ
ca thế giới bằng một Tagore đậm đặc vị và
hương Ấn Độ cao quý, thần bí. Sao lại tự cho là mình trì trệ, lạc hậu chỉ vì khi ngồi ăn mình không dùng dao dĩa, khi
làm thơ mình không tuyên ngôn những siêu thực, vị lai, dada, tượng trưng, phân
tâm, nữ quyền, hậu hiện đại, tân hình thức...
Nhưng quả là có một khối lượng kiến thức và
kinh nghiệm mà thơ nhân loại đã đi qua từ nửa cuối thế kỷ XIX và trong suốt thế
kỷ XX chúng ta ít biết đến:
- 1864 xuất hiện Mallarmé và 1868 khi
Théophile viết tựa tập thơ Hoa ác của
Baudelaire; chủ nghĩa Tượng Trưng đã ra đời. Và sau đó thành tựu của những P.
Verlaine, P. Valéry, Marcel Proust... chống duy lý, đề cao trực giác (Berson).
- 1909 Tuyên ngôn Vị lai, với G. Apollinaire,
T. Tzara và các nhóm tiên phong New York (1916), Berlin (1917).
- 1918 Tuyên ngôn Dadaisme, với những A.
Breton, L. Aragon, P. Éluard.
- 1919 Siêu thực, rồi siêu thực tách
dada, Siêu thực với Chủ nghĩa Cộng Sản
khi gắn kết, khi đoạn tuyệt.
- Hậu hiện đại từ kiến trúc (1963) vào văn
chương (1967) sang triết học (1979, với J.-F. Lyotard), và thành Chủ nghĩa tác
động nhiều ngành nghệ thuật (1988).
Các thứ chủ nghĩa ấy đều có một đích chung là
phản kháng những giá trị đã định hình, đều muốn phi thần thánh hóa những hình
thức và cả ý nghĩa của nghệ thuật, đều chống các lý thuyết hàn lâm, đề cao ngẫu
nhiên, phi chính thống, rất gần với hư vô và vô chính phủ, mang tinh thần dân
chủ cho thơ nhưng cũng dẫn thơ đến một hệ quả khá nghịch lý: nhà thơ đông lên
nhưng thơ lại mất độc giả trên phạm vi thế giới. Trong cuốn Văn hóa thế kỷ XX, của nhà xuất bản
Bordas, 1995, tác giả Michael Fragonard đã viết trong mục thơ: cái mà trước kia được tôn vinh là đẳng cấp
nghệ thuật cao sang nhất, ngay ở thế kỷ XIX vẫn còn được coi là thể loại văn
chương được trọng vọng nhất, thì bây giờ đã trở thành một loại hình riêng tư,
bí hiểm, bị bỏ rơi trong học đường và rất ít được tìm đọc... Những trào lưu
này hầu hết nảy sinh, phát triển rồi tàn lụi ở phương Tây (Âu - Mỹ) với những
lý do tâm lý, xã hội, chính trị... nảy sinh từ hai cuộc đại chiến, từ đời sống
kỹ trị đơn điệu, từ sức mạnh phi nhân của đồng tiền... Âu - Mỹ là động lực vì
Âu - Mỹ giai đoạn này dẫn đầu về khoa học và công nghệ, dẫn đầu về văn minh
thành đạt, có tác dụng thị phạm khích lệ nhân loại. Cái quần rách của anh chăn
bò Mỹ từng thành mốt của thanh niên thế giới, họ phải mài quần đi cho rách để
thành thời trang. Những cách tân trong hội họa, điêu khắc, thơ ca... không
ngoại lệ. Nước ta bận kháng chiến và sống trong bối cảnh khác ít quan tâm đến
những trào lưu này. Chúng ta không tự hào vì sự không biết ấy. Bây giờ, hội
nhập với thế giới, càng cần phải biết. Biết, đề lựa chọn, để bổ sung, hoàn
thiện con đường của mình, tối ưu cách đi của mình chứ không phải để dây chút
cát bụi thời thượng, mù quáng và huyênh hoang học đòi thiên hạ. Em như cục cứt trôi sông/ Anh như con chó
chạy trông trên bờ, hai câu ca dao mà mỗi khi nhớ chúng ta mỉm cười tán
thưởng ấy có đủ mọi tiêu chí của một bài thơ hậu hiện đại bây giờ, mặc dù cha
ông ta chưa hề biết tới thuật ngữ này. Ban
ngày quan lớn như thần là “đại tự sự” thì ban đêm quan lớn tần mần như ma đã là “sự” gì rồi. Trạng từ tần mần dấu trong lòng nó một động từ mần duyên dáng và táo bạo như một thứ
tân hình thức chính hiệu. Đoản trạo hệ tà
dương (...) Vân quy thiền tháp lãnh (Mái chèo ngắn buộc vào ánh chiều tà, và Mây về giường nhà sư lạnh) có đủ vị
siêu thực trong miêu tả và vị tượng trưng trong mối liên hệ đại ngã-tiểu ngã.
Nguyễn Trãi ở đây mới mẻ ngang tầm P. Válery trong Nghĩa địa biển mà độ hàm súc lại có phần nhỉnh hơn. Tìm biết cái lạ
của người nhưng cũng cần, nếu không nói là cần hơn, hiểu sâu những đặc sắc của
mình, mới có thể tìm ra tư thế “thong dong” để đến được phẩm chất hồn nhiên,
trong sáng và tối giản cho thơ như MVP mong muốn.
Mai Văn Phấn đã có thành công trong cuộc cách
tân nhiều thử thách đó, vì anh xuất phát từ ý tưởng muốn thơ mình đáp ứng nhu
cầu đích thật của đời sống, anh không lạm dụng thói quen lười biếng của người
đọc để lười biếng theo và cũng không đua đòi về hùa với thói thời thượng nông
nổi. Anh không có ý định bày biện chủ nghĩa này tuyên ngôn nọ trong thơ mình.
Đổi mới là một yêu cầu bên trong của tâm hồn, của nhận thức trách nhiệm nghệ
thuật, trách nhiệm xã hội nơi anh. Anh tỉnh táo và kiên trì thực hiện ý định
của mình trong hàng loạt tự phủ định, anh chấp nhận thử thách của dư luận, chấp
nhận cả thất bại. Nhưng điều đáng nói là anh đã tìm và tìm thấy. Chưa
thành công nhiều trong đơn vị bài nhưng đã thành công rõ trong chất thơ, trong
trạng thái thơ tản mác trong các bài. Hình như MVP chưa cố định thơ vào đơn vị
bài. Anh thường cố định vào một trạng thái tâm hồn, có tính cách cảm thụ thiên
nhiên, ngoại giới (Cốm hương trang
308, Thu đến trang 310, Đá trong lòng suối, trang 305) và đây là
chỗ anh phát huy đắc địa tố chất nhạy cảm, tinh tế của tâm hồn anh. Đôi khi anh
cố định thơ vào một hướng chủ đề, cái chủ đề mơ hồ như một tinh vân ý tưởng chứ
chưa thành đường nét, nó gợi nghĩ chứ không phải là ý nghĩ đã thành hình (Ghi ở Vạn lý Trường Thành, trang 239, Nhìn kỹ trang 249, Nghé ơi, trang 309) và có lúc anh chỉ cố định vào một thủ pháp kết
cấu, như một cách tung hứng chi tiết (chi tiết cái móng chân trong đoạn thơ
uống trà, trang 326 hay chi tiết 3m75 cách chỗ nằm con chó). Tôi gặp nhiều thủ
pháp mới, cuốn hút, thông minh trong các mảng thơ MVP. Anh phong phú ẩn dụ,
hoán dụ chất chứa suy tưởng và đầy bất ngờ. Đó là tiềm lực trí tuệ của thơ anh
và cũng là một phẩm chất đang cần của cả nền thơ chúng ta: Vệt môi anh là con chim gõ kiến trên cây cổ thụ. Chiếc mỏ tí hon làm
cây rừng thay lá, thân gỗ mục hồi sinh (...) Nhắm mắt anh nghe trong thân cây
biết mặt trời đã mọc và ngôi sao lơ đãng đổi ngôi. Một chất thơ mới mẻ, một
cảm hứng hàm chứa nhiều dự báo tương lai. Chúc mừng anh! Tôi thích thú bơi trong những lớp sóng cảm xúc của anh. Bơi mệt
nghỉ, ít gặp chỗ dừng để có thể trèo lên, ngồi xuống và nhìn lại những gì mình
vừa băng qua. Anh đang say mê mở ra mà chưa định chốt lại. Cũng có thể là một
quan niệm thơ: kêu gọi bạn đọc làm đồng tác giả, kêu gọi hình thành liên văn
bản cho tác phẩm. Tôi quen đọc thơ như người mót lúa ngoài đồng, muốn thóc được
vào giỏ cụ thể. Nhưng đây là đồng đất của anh, anh mời đứng mời ngồi như thế thì
mình cũng phải theo thế mà đứng ngồi, cốt sao thụ hưởng được tinh hoa của thơ
anh.
Cám ơn anh đã gửi thơ cho đọc. Cám ơn các bạn
đã độ lượng nghe tôi.
13/5/2011
V.Q.P
(Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn, khác biệt và thành
công - Kỷ yếu hội thảo thơ tại Hải Phòng, 15/ 5/
2011, NXB Hội Nhà văn, 2011).
-----------------------------------
(1) Logic: Nước mùa hè, sương mùa thu, đá mùa
đông. Hè, thu, đông. Nhưng đông vừa là mùa vừa là thể lỏng sang thể rắn. Đá là
nước đông, nhưng đá cũng còn là loài khoáng, nó lên rêu. Mà rêu mùa đông thì
trong tiền kiếp nó là nước mùa hè, sương mùa thu, là xanh biếc rong chơi lúc
đang hè, là úa rụng lúc thu về, là cháy sáng lúc vào đông. Bài thơ đối thoại
đơn phương giữa anh và em luôn tuân thủ trong từ trường cảm xúc
ấy, nương tựa trong những biểu tượng hợp loại của mùa, của đổi thay, của luân
hồi, khác đi mà vẫn hoàn nguyên...
Phóng túng, bất ngờ trong các khớp chuyển
từng hai câu một với nhau và cả trong bản thân hai câu ấy. Và nhất là phóng
túng trong chủ đề cảm, khúc cảm của
toàn bài thơ. Lãng đãng, bàng bạc, không rõ ý nhưng chất thơ lại rõ. Nó là chất
của tâm hồn.