Mai Văn Phấn một hướng tìm
(Đọc tập thơ Giọt nắng, Hội LH Văn học - Nghệ thuật Hải Phòng, xuất bản 1992)
Vũ Quần Phương
Từ những năm
chống Mỹ, dư luận người yêu thơ thường chú ý đến giọng thơ nhiều nét lạ của Hải
Phòng, khác với những phẩm chất đã ổn định của thơ Việt Nam. Người ta chú ý tới
cách nói xốc vác, thô mộc, giàu nội lực của các cây bút trẻ, hồi ấy thường là
công nhân. Đã có ý kiến cho rằng đấy là dấu tích của đời sống công nghiệp.
Một phần tư
thế kỷ đã đi qua. Hải Phòng đã có một lớp nhà thơ trẻ khác, trưởng thành trong
hoà bình với nhiều biến động về lối sống về giá trị đạo đức. Lớp trẻ bây giờ
của Hải Phòng vẫn giữ truyền thống tìm tòi của xứ thơ đất cảng. Người đọc vẫn
phải nói nhiều đến yếu tố lạ của họ. Mấy năm trước, Dư Thị Hoàn. Bây giờ, Vũ
Thị Huyền - giải nhất thơ Tuổi xanh báo Tiền Phong, Mai Văn Phấn - giải Nguyễn
Bỉnh Khiêm, Hải Phòng. Nét riêng của các cây bút này là thiên về trí tuệ. Thơ
họ đựng nhiều tư tưởng, nhiều triết lý nhân sinh mang màu sắc những phát hiện
cá thể. Bài viết này chỉ muốn nói về một trường hợp: Mai Văn Phấn với tập thơ Giọt
nắng.
Hội Văn nghệ
Hải Phòng chọn Mai Văn Phấn để trao giải Nguyễn Bỉnh Khiêm, theo tôi, cũng là
một mạnh dạn, bộc lộ ý định hướng thơ Hải Phòng tới cách nghĩ mới, cách diễn
đạt mới.
Mai Văn Phấn
không đi vào những việc cụ thể, không khai thác sự kiện mà ưa phát hiện vấn đề,
nghĩ ngợi và triết luận thế sự.
Anh ít miêu
tả lại không hay dãi bày vui buồn trực tiếp. Anh thích suy nghĩ bằng những hình
ảnh có tính ấn tượng nên thơ anh không dễ đến với đông đảo. Hơn nữa, những vấn
đề anh chạm tới lại không phải những việc thời sự trực tiếp nẩy sinh từ đời
sống cụ thể. Nó cách bức với cuộc đời bằng một sự nghiền ngẫm, đôi khi tư biện.
Độc giả của anh thường là người nghĩ ngợi trìu tượng, thích phát hiện những sự
kiện nội tâm, những quy luật xã hội lẩn khuất. Mối tương quan những ý thơ trong
bài nhiều khi rất lỏng lẻo, nhưng đặt vào một hướng cảm xúc nó sẽ chụm. Giữa con
chim bay vút lên để lại cánh đồng rộng với tuổi thơ dại khờ trôi đi để lại xót
thương cho sự tinh khôn bây giờ (bài Không đề 1) là một mối tương quan
phối ý, tương quan của hình thức diễn đạt hơn là tương quan về nội dung theo
kiểu tam đoạn luận. Bài Thoáng thu là những thoáng cảm giác xa nhau
trong một không gian thu. Sức chụm lại của các chi tiết rời nhau ấy là ở tâm
trạng, tâm trạng ấy người đọc cảm nhận được, tạo nên cái có lý của bài thơ. Bài
Em xa, tám câu lục bát biến thể cũng là một ấn tượng của tâm trạng, nó rất cá
thể nhưng lại quy luật nên có sức cảm thông. Cá thể diễn đạt bằng ấn tượng
riêng. Nhưng cái hiện tượng nhấn chìm anh thoắt đã không còn gì trong
tình yêu thì không phải của riêng ai. Bài thơ này không cần hai câu văn xuôi ở
đầu và kết thúc. Nó cầu kỳ, ngoại lai, vả lại, làm bài thơ bị cố định như đóng
hai cái đinh vào đầu và đuôi con cá, nó biết bơi, làm một cái ánh chơi vơi lóng
lánh của tám câu thân bài. Ở tập thơ đầu tay mỏng mảnh này, Mai Văn Phấn có ý
định tiến tới những ngọn nguồn cảm xúc chưa bị ô nhiễm thiên kiến của hồn
người. Đó là phút Ngủ quên trong rừng: Thân tôi như ngây/ Hồn là hoa
dại. Ở đây thú dữ cũng nằm mơ thấy mẹ như người và người thì lướt trên cỏ
mềm bằng đôi chân con dế. Đó là lúc mình lẫn vào thiên nhiên, không lý trí, chỉ
tồn tại bằng cảm thụ: Bao ngờ vực của người/ Thu sẽ mang đi hết và Tôi
làm sao biết được/ Hôm nay là hôm nào. Anh ca ngợi sự hồn nhiên - sự hồn
nhiên chỉ có khi người ta ly khai ý thức hồn thoát ra ngoài thân xác cát bụi để
lang thang trong gió xanh và mưa thắm. Con người được tái sinh sau những phút
hồn nhiên như vậy. Mai Văn Phấn thích dò tìm tâm linh. Anh bàng hoàng khi chợp
mắt mười lăm phút mà mơ về dằng dặc mấy mươi năm. Tỉnh mộng, nhìn
bàn tay thấy nó hoang dã, phải đợi hoàn hồn tay với trở về công cụ của tay:
nhặt được những chiếc lá rơi. Cái lối cảm xúc này dễ dẫn tác giả vào ảo giác và
hoang tưởng (ở ta, Hàn Mặc Tử là bậc thầy của dòng thơ này). Quả vậy, anh đã
thấy Giê-su, Phật Thích Ca và người mình yêu cùng trên một cỗ xe về cõi Hoàn nguyên,
khóc cười như trẻ nhỏ.
Mai Văn Phấn
đã có một hướng đi, một hướng tìm và đôi lúc anh đã tìm được. Ở đấy cảm và nghĩ
đã đến đích, cách diễn đạt có sự hài hòa giữa ý và tứ: Thoáng thu, Thu về,
Không đề 2, Tạ ơn bông lau, Ngủ quên trong rừng… Mai Văn Phấn cần
quan tâm đến mối giao lưu với người đọc. Trong mạch tư duy của anh có những
bước nhảy – chính ở những bước nhảy này nhà thơ bộc lộ những cách tân về biểu
hiện và cả phẩm chất của sức khái quát – nhưng nếu thiếu tính lô gíc ẩn giấu
trong cốt lõi của chủ đề, bài thơ dễ bị gãy vụn. Sự khó hiểu của hình tượng
không gây kích thích cho trí tuệ, hững thú cho khám phá mà chỉ cắt đứt giao lưu
tác phẩm - bạn đọc. Ở nhiều bài có cảm giác tác giả chưa xác định rõ điều anh
muốn nói. Bài thơ chưa có chỗ đến. Tứ không rõ, chỉ có các ý đặt cạnh nhau mà
thôi, thiếu hô ứng. Lối thơ thiên về tư duy dễ sa vào nhược điểm này. Muốn khắc
phục lại phải tìm về phía tình cảm. Những vấn đề đã chín trong lòng tác giả, đã
là nỗi khắc khoả trong tâm sự anh, thì dù có thể hiện bằng bút pháp siêu thực
nó vẫn là hiên thực của tâm trạng. Và tác giả cũng sẽ sẵn sàng tước đi những ý
thừa, rậm rạp không có ích cho sự kiến tạo chủ đề. Thơ Mai Văn Phấn còn thiếu
một sự hàm xúc, thoáng, trong cảm thụ mà lại thâm trầm về trí tuệ. Đây là chỗ
thống nhất của thơ Đường với thơ hiện đại Châu Âu (B. Brech, J Prévert…) dù bút
pháp họ hoàn toàn khác nhau. Hoan nghênh Mai Văn Phấn và nhiều bạn trẻ đang có
khuynh hướng nâng cao tính trí tuệ của thơ, nhưng cũng đòi hỏi anh không được
xa độc giả. Đấy là tiêu chí để phân biệt thơ và triết học. Sự tự do vô bờ bến
của nhà thơ trong cảm nghĩ và thể hiện phải tuân thủ một điều và chỉ một điều
thôi: phải đến được độc giả. Thơ không thể là trò chơi đơn độc. Chủ nghĩa lãng
mạn trong thời kỳ bùng nổ tự do sau cách mạng tư sản Pháp 1789, kéo dài suốt
thế kỷ 19 với các biến dị của nó cho ta nhiều bài học về quá trình hình thành
thi pháp mới. Nó xuất phát từ chỗ chống mọi quy phạm nhưng chính nó lại tạo ra
mẫu mực mới mà cốt lõi là tạo những kênh giao lưu mới giữa tác giả - bạn đọc.
Phẩm chất dân tộc là một từ trường có ý nghĩa cho mọi cách tân. Nhà thơ hiện
đại hoá tính dân tộc chứ không thủ tiêu nó.
Để đi tới
đích con đường mà mình tự vạch cho mình, Mai Văn Phấn còn nhiều việc phải làm,
anh đang rất lỗ lực. Nghĩ rất sâu, rất xa, rất nhân loại, nhưng vẫn là những
vấn đề thiết thực của chúng ta của hôm nay. Thích thú với mọi người và có ích
cho họ. Việc đó khó, và cũng do vậy chúng ta mến yêu thơ Mai Văn Phấn.
V.Q.P
(Báo Văn Nghệ só 37, 1993)