Tiếng nói tâm linh trong thơ một số tác giả thuộc thế hệ Đổi mới (tiểu luận) - Phạm Thị Trịnh (Doãn Minh Trịnh)
Tiếng nói tâm linh trong
thơ một số tác giả thuộc thế hệ Đổi mới
Tác giả Phạm Thị Trịnh (Doãn
Minh Trịnh)
Phạm Thị Trịnh (Doãn Minh
Trịnh)
“Thế
hệ Đổi mới” là một thuật ngữ mang tính quy ước, nhằm chỉ thế hệ nhà thơ Việt
Nam xuất hiện và thành danh chủ yếu vào thời kỳ Đổi mới (sau 1986). Về độ tuổi,
họ chủ yếu thế hệ 5X, 6X. Các sáng tác của họ thể hiện một quan niệm và thi
pháp sáng tạo mới, có nhiều điểm khác biệt so với thế hệ chống Mỹ trước đó. Đó
là một thế hệ hội tụ khá nhiều cá tính nghệ thuật riêng, độc đáo như Nguyễn Quang
Thiều, Nguyễn Bình Phương, Mai Văn Phấn, Nguyễn Lương Ngọc, Dương Kiều Minh,
Inrasara,...
Tâm
linh là cái cao cả trong cuộc đời thường, là niềm tin thiêng liêng trong cuộc
sống tín ngưỡng, tôn giáo. Trong công trình Văn
hóa tâm linh, Nguyễn Đăng Duy quan niệm: “Tâm linh là cái thiêng liêng cao cả trong cuộc sống đời thường, là
niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo. Cái thiêng liêng,
cao cả, niềm tin thiêng liêng ấy được đọng lại ở những biểu tượng, hình ảnh, ý
niệm” [1; tr.12]. Tiếng nói tâm linh
là một phần đời sống tinh thần gần gũi nhưng đầy bí ẩn của con người. Trong bài
phát biểu khai mạc Hội thảo khoa học với chủ đề “Văn học và văn hoá tâm linh”, Nguyễn Đăng
Điệp đã nhận định tâm linh: “là một thế giới có nhiều bí ẩn mà khoa học
đến nay vẫn chưa thể giải thích hết được. Nhưng về cơ bản, có thể khẳng định,
đó là thế giới gắn liền với niềm tin về những giá trị cao cả, thiêng liêng.
Hướng đến tâm linh, con người kỳ vọng hướng tới những giá trị chân thiện mỹ”
(dẫn theo [2]).
Có thể
nói, tiếng nói tâm linh thường gắn với khát vọng hướng tới một cõi sống thiêng
liêng, cao cả, giúp con người có niềm tin để vượt qua trở lực của đời sống trần
tục, tạo nên một sự cân bằng cần thiết trong đời sống tinh thần của cá nhân và
nuôi dưỡng, hoàn thiện tâm hồn họ.
Tiếng
nói tâm linh là một chủ đề khá nổi bật trong sáng tác của các nhà thơ thế hệ
Đổi mới. Các tác giả này quan niệm về vô thức, tâm linh như một đối tượng nghệ
thuật cần chiếm lĩnh, và hơn thế, như một phương tiện sáng tạo hiệu quả để đào
sâu hơn vào đời sống tinh thần phong phú, bí ẩn của con người. Đây là một nội
dung hầu như vắng bóng ở nền thơ ca Cách mạng 1945 - 1975. Trước năm 1975, trong
nền thơ này, vùng tâm linh bí ẩn mờ khuất trong đời sống tinh thần của con
người gần như là một đề tài bị bỏ quên. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên do,
trong đó đặc biệt là do hoàn cảnh chiến tranh và quan niệm sáng tạo tương ứng. Bước
vào thời hậu chiến và Đổi mới, những thay đổi to lớn trong tình hình đời sống chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… cũng tác động nhiều tới các cây bút. Tâm linh được
quan niệm như một hiện tượng khách quan của đời sống con người và đã được nhận
thức lại một cách sâu sắc và công bằng hơn. Qua con mắt tâm linh, người ta có
điều kiện để nhìn sâu hơn vào đời sống nội tâm của cá nhân, để suy ngẫm, nhận
diện về những vẻ đẹp tinh thần bí ẩn, sâu xa, trường cửu, để nhận thức sâu hơn
về các giá trị sống thiêng liêng, cao cả… Bên cạnh đó, quan niệm sáng tạo của
nhiều cây bút thời kỳ này cũng có những chuyển biến, cách tân mạnh mẽ. Thơ giờ
đây, với nhiều tác giả, không phải là khúc tráng ca trên chiến hào mà là tiếng
nói tinh thần của con người cá nhân, cá thể. Tuy nhiên, dù đi sâu vào những
khúc khuỷu sâu kín nội tâm, vào những vùng mờ hư ảo của tâm linh, họ vẫn tìm
thấy vang hưởng của tiếng nói của một cộng đồng lớn lao – tiếng nói của nhân
quần, nhân loại. Sáng tạo về những vùng tâm linh hư huyễn, với họ, là một cách
để tìm tòi, phát hiện đầy đủ hơn về chính nội tâm cá nhân, cũng là của nhân
loại, cũng là một cách để mở rộng phạm vi hiện thực mô tả. Đó là cái “hiện thực
bên trong”- hiện thực của tinh thần, nội tâm, đối lập với cái “hiện thực bên
ngoài”- hiện thực của những cuộc đấu tranh giai cấp, chính trị… Như vậy, viết
về hiện thực tâm linh cũng là một cách để người nghệ sỹ mở rộng con đường tìm
kiếm, sáng tạo nghệ thuật. Từ đây, thay vì những đề tài, chủ đề mang tính sử
thi, họ quan tâm hơn tới đời sống thế sự, đời tư của con người. Thay vì những
đề tài chính trị lớn lao, mang tính tập thể, cộng đồng, họ chú trọng hơn đến
việc đi sâu tìm kiếm, khai thác tiếng nói nội tâm, bản thể của cái tôi cá nhân.
Và cũng rất tự nhiên, từ sự tập trung quan tâm tới con người xã hội – chính trị trước đó, họ
chuyển mối quan tâm sang con người – tư tưởng (theo nghĩa rộng), con người - tâm
linh.
Tóm
lại, đây không chỉ là một sự thay đổi đơn thuần xuất phát từ bối cảnh lịch sử
xã hội. Trên thực tế, đây là một bước chuyển mạnh mẽ trong quan niệm sáng tạo
của người nghệ sỹ thế hệ Đổi mới. Nó xuất phát từ quan niệm và nhu cầu nhận
thức về đời sống tinh thần của con người một cách đầy đủ hơn, đa chiều hơn, và
do đó, cũng trở nên sâu sắc và nhân bản hơn.
Với
nhu cầu mở rộng thế giới mô tả, các nhà thơ thế hệ Đổi mới nỗ lực tìm tòi vươn
tới bề sâu của vỉa tầng còn ẩn khuất của đời sống và tinh thần con người để
khai thác, tái hiện, chiếm lĩnh. Họ luôn khao khát lý giải, khám phá về bản
chất thế giới từ đằng sau cái hiện thực bề mặt được nhìn thấy, và mong muốn từ
những hiện tượng, sự vật rời rạc, xa lạ, nhận ra những mối liên hệ ở bề sâu
trực giác, tâm linh. Đó là lý do khiến họ đặc biệt quan tâm đến tiếng nói tâm
linh bí ẩn trong đời sống con người. Nhu cầu và ý thức sáng tạo này đã tạo nên
nhiều nét khác biệt trong nội dung cũng như thi pháp của nhiều tác giả thuộc
thế hệ Đổi mới. Cũng từ đây, một thế giới thiêng liêng, bí ẩn, lạ lùng, gắn
liền với những cảm xúc hướng thượng, cao cả… thường hiện diện trong thơ của họ.
Đó là một thế giới đối lập lại với thế giới hiện hữu trần trục của con người.
Nó thường gắn liền với những hình ảnh về cõi mơ, cõi huyền nhiệm, xứ sở của
những điều u linh, cái chết…
Tiếng
nói tâm linh trong thơ Dương Kiều Minh hiện hữu ngay trong không gian ký ức của
ông. Trong tập thơ đầu tay năm 1989 - Củi lửa, Dương Kiều Minh luôn nhắc về quê hương, tuổi thơ của mình với
những hình ảnh dòng sông, cánh đồng, khu vườn, mộ cha, mộ mẹ: Nhiều khi buồn nức nở/ngóng cánh đồng bên
dòng sông Hồng cuộn đỏ/có nấm mồ cha/nấm mồ mẹ/đấy cố hương/và đây cố hương...(Cố hương). Cánh đồng có đám tang,
có ngôi mộ: Nấm mồ không dòng mộ chí/
nhòa trên cánh đồng/ lẽ nào là mẹ...(Bộc
bạch III); Đám tang đưa tiễn mẹ tôi vào một ngày mưa
lạnh ngổn ngang cánh đồng gặt dở...(Chạnh
niềm thôn dã); Cánh
đồng nơi đây, nơi cha yên nghỉ, tuổi thơ con ngày ngày tha thẩn bên nấm mồ cha
nằm...(Khúc tưởng niệm). Đối với
Dương Kiều Minh không gian xám lạnh đầy u buồn đó là hoài niệm của tuổi thơ một đi không trở lại. Cũng là hình
ảnh dòng sông, cánh đồng nhưng cả một thế giới làng quê cùng hình ảnh, nhà cửa,
mồ mả, bến sông, cánh đồng, đám ma, hình ảnh người bà, người đàn bà gánh nước
đêm... trong thơ Nguyễn Quang Thiều, tất cả chìm trong một giấc mơ đầy huyễn
ảo, dị thường:“Cỗ xe tang trôi mãi vào
cơn mê/Những con rồng gỗ vảy vàng bay lên trong tiếng kèn, tiếng trống... con
nhìn thấy bà nội mặc áo tơ tằm ngồi giữa ngàn ngọn nến/ Bà rót một bình nước
mưa trong để đợi con về” (Âm nhạc).
Không gian làng quê rộng lớn có hình ảnh dòng sông gắn liền với hình ảnh cánh
đồng, có con sông Đáy hiền hòa cùng cánh đồng rau khúc, tiếng con chim quốc...
đó là ký ức ám ảnh không nguôi của Nguyễn Quang Thiều. Hành trình về miền ký ức
của Nguyễn Quang Thiều vừa huyễn hoặc vừa đậm màu cổ tích và mang đầy tính nghi
lễ:
Tôi khóc những mùa rau khúc
thiêng liêng phủ đầy mưa xuân như phủ đầy cám bếp/ Nơi mãi mãi giấu vùi hơi thở
của bà tôi (Tôi khóc những cánh đồng rau
khúc); Tôi quỳ xuống vốc cát vào
mặt/ Tôi khóc/ Cát từ mặt tôi chảy xuống dòng dòng (Sông Đáy). Với Nguyễn Bình Phương, những hình ảnh xuất hiện trong thơ rất quen
thuộc, gần gũi nhưng bỗng nhiên biến hóa không biết ở thế giới nào, ở trần gian
hay âm giới: Khung cửa hẹp bỗng làm anh
hồi hộp/ Có một người trở về sau ánh chớp/ Lặng lẽ mang đi hư ảnh cuối cùng (Bâng quơ); Trong thơ tác giả này, những hình ảnh tưởng như thân quen
bỗng trở nên ma quái: Cuối cùng/chiếc
gương cũng trào ra những bóng hình ứ đọng (Ở nơi không có cánh). Đọc
thơ Nguyễn Bình Phương chúng ta có cảm giác những nhân vật, hình ảnh đang
chuyển động trong không gian mộng mị dị kỳ..
Mộng
mị, tưởng tượng và linh cảm là biểu hiện cụ thể nhất của tiếng nói tâm linh
trong thơ Mai Văn Phấn. Tiếng nói của vô thức, của trực giác, tâm linh luôn ẩn
hiện trong thơ Mai Văn Phấn. Dù là trong bất cứ hình ảnh, không gian, khung
cảnh nào, hiện thực cuộc sống hay trong không khí lãng mạn của tình yêu đều
được giãi bày bởi những cảm giác ma mị lạ lùng: Lỡ vin vào bóng mây qua/Lỡ nghe đắm đuối tiếng ma gọi đò (Gom nhặt cuối mùa); Nơi ấy da thịt em
đã ngủ, bởi trong anh có tâm linh thì thầm/Em lần theo bóng mây trôi/Thấm qua
sóng lá vô hồi... Hư vô thành yêu em... Em gọi chói chang bên kia sông mơ, con
thuyền anh bỗng thành con chó nhỏ (Em
xa). Mai Văn Phấn không chỉ
dừng ở việc khao khát mơ tưởng mà ông còn muốn mình được trải nghiệm với những
cảm giác vô thức trong từng giấc mơ, tưởng tượng hồn rời khỏi xác, để
lang thang khắp nơi, để hòa hồn mình cùng cảnh vật, hoa, lá, cỏ,
cây, hòa cùng thời gian.
Trong
các nhà thơ Đổi mới, không chỉ có nhà thơ Mai Văn Phấn đi tìm hiện thực qua
giấc mơ, phản ánh hiện thực qua trực giác tâm linh mà cả Nguyễn Lương Ngọc cũng
đi rất xa đến cõi bí ẩn mơ hồ của tâm giới, linh giới. Ngay từ đầu Nguyễn Lương
Ngọc đã nhận ra chiều sâu tăm tối, bí ẩn, khó nắm bắt của tâm giới con người.
Nguyễn Lương Ngọc chú ý ngay đến nụ cười của hình ảnh Di Lặc sứ: Ông cười/ không thấy tiếng/ tiếng ấy tắt
rồi/hay nó đâu đâu ngoài cõi người (Di Lặc sứ). Hình ảnh hiện lên rõ ràng
nhưng mơ hồ bất định:“Cuộc sống lạnh lẽo
sao/Cuộc chết ấm áp sao” (Lời hát). Đọc
thơ Nguyễn Lương Ngọc chúng ta thường bắt gặp những lời thơ hay nói về chốn
nương thân cuối cùng, cái chết hay tận cùng của cuộc đời. Cái chết thường trở
đi trở lại, khi như một ý nghĩ bất chợt, khi như một tiếng nói mơ hồ từ cõi xa
thẳm: Những con đã sinh ra thì đã
chết/Những con chưa chết thì chưa sinh ra (Gọi
hạc); Anh không thể cất mình lên nổi/Hay chọn đây làm chỗ gửi thân (Tìm gặp).
Đặc
biệt đáng chú ý là Inrasara, người mang văn hóa Chăm hòa nhập cùng xã hội hiện
đại. Inrasara sinh ra và lớn lên tại miền đất với nhiều hình ảnh đền đài, tượng
tháp. Inrasara viết về vùng đất Chăm trong niềm say mê, cảm xúc về tình yêu quê
hương tha thiết. Inrasara đã giúp người đọc cảm nhận một nền văn hóa Chăm với
nhiều hình ảnh đền đài, tượng tháp linh thiêng, một thánh địa qua Tháp
nắng (1996), Sinh nhật cây xương rồng(1997) ,Hành hương em(1999), Lễ tẩy
trần tháng tư (2002) ... Innasara cho rằng: “Người
không học thấy tháp là tháp, người có học thấy tháp vẫn là tháp, chỉ riêng thi
sĩ thấy tháp là chim”. Nhà thơ viết: Đôi lúc/ nửa đêm/ tôi
nghe tháp mọc ngang trời/Như giấc mộng như loá mắt/ tháp có mặt/ như chớp xé
như âm vang/Bóng của tháp như dòng sông ma/ trườn qua đêm tối những triều
đại/đánh thức ký ức các dân tộc/duyên nợ (hay cả không nợ nần gì) với tháp; với “Tháp hoang” thì “nổi cộm giữa chiều trời ma quái/ung nhọt trên
làn da mềm mại/thảm rừng già xanh”.
Về lối viết, các nhà thơ thế hệ Đổi mới đã sử dụng
ngôn ngữ, kết cấu, giọng điệu rất đa dạng, biến hóa. Trong thơ Dương Kiều Minh
ranh giới quá khứ và hiện tại; giữa mơ và thực rất mong manh, là sự hòa trộn
hiện thực và ký ức. Kết cấu đồng hiện, liên tưởng đa tuyến là kết cấu chủ đạo
trong thơ Dương Kiều Minh. Ông thường sử dụng giấc mơ, huyễn tưởng, tưởng tượng
để giãy bày tiếng nói nội tâm: Mơ mơ cánh đồng thơ ấu/không không không cả
bóng người/không bước chân ngày ngây dại/cậu bé bây giờ về nơi?(Cánh đồng thơ ấu); Con nằm ngủ như
nàng công chúa út/ lang thang qua những lâu đài/ cây lá um tùm/ cơ man là
gió/cơ man là nắng.../ cánh rừng (Giấc
mơ). Trí tưởng tượng và những giấc mơ cũng tràn ngập trong thơ Nguyễn
Quang Thiều (Trong giấc ngủ muộn, Nhịp điệu châu thổ mới, Âm nhạc...).
Những cánh đồng, dòng sông qua trí tưởng tượng trở nên mênh mông, rộng lớn gắn
với nhiều ký ức của tuổi thơ. Nguyễn Bình Phương tưởng tượng Nhập chiều,
Vọng từ giá sách, Người chèo đò lạnh...là âm vọng của tiếng động, của giọng
nói.
Thơ Mai Văn Phấn tạo nên một không gian chập chờn
giữa thực và ảo, ở đó những hình ảnh, mảng màu được gọi về từ cõi tâm linh.
Trong không gian giấc mơ huyền ảo ấy “anh” thấy mình nhảy nhót như con
thú hoang: Trong giấc mơ có anh/Bên em không hề biết/Anh xoài mình khắp những
tán cây/Con dốc ven hồ, Vạt hoa trinh nữ/Con thú hoang nhảy nhót trong mơ (Em đừng thức giấc). Có thể nói, không
gian trong thơ Mai văn Phấn là không gian mơ hồ, không bến, không bờ và không
giới hạn. Nguyễn Lương Ngọc tạo nên một
khoảng trống, mơ hồ hóa về nghĩa trong thơ, với các câu thơ rời rạc, có những
âm thanh kéo dài, lặp lại: Trong mơ
đau thắt ngực/Hình xưa lững thững về... Mơ, mơ/Chân đâu/Mình đâu/Buồn tiên cảm
hát chân cầu lưu thủy (Tiên cảm);Yêu
không thể giải thoát/A...a...a....A...a...a/Người là người, ta là ta/Ta là
người, người là ta/ A...a...a....A...a...a (Lời
hát).
Thơ Dương Kiều Minh dày đặc những từ đặc tả tính
chất hư ảo “mơ”, “không”, “ai”: Mơ mơ cánh đồng thơ ấu/ không không không cả
bóng người (Cánh đồng thơ ấu); Ai
gọi tên?Mơ vậy/Người đâu ngờ ngợ quen (Niềm
nhớ). Nguyễn Quang Thiều thường sử dụng những thán từ: “Ơi”, “hỡi”;
những biện pháp tu từ liên tưởng, so sánh, nghịch dị, nhân hóa: Sông Đáy ơi!
Chiều nay tôi trở lại (Sông Đáy).
Mai Văn Phấn thường sử dụng cấu trúc thơ tự do, thơ không có vần điệu. Hình
thức thể hiện này cho thấy nhà thơ không muốn bị đóng khung trong một khuôn mẫu
nào mà tự do tưởng tượng, bay bổng: Những bông lau/Phơ phát/Từ không
định/Bay vào hư vô...(Tạ ơn bông lau). Liên
tưởng, so sánh cũng là thế mạnh của Mai Văn Phấn, tạo nên sự độc đáo trong thơ
Mai Văn Phấn: Lỡ vin vào bóng mây qua/Lỡ nghe đắm đuối tiếng ma gọi đò (Gom nhặt cuối mùa). Cách sử dụng
từ ngữ gây ảo giác, mộng mị; lối diễn đạt gây ám ảnh, mơ hồ; cách dùng điệp từ
đặc trưng trong thơ Nguyễn Bình Phương: Đom đóm lập lòe bay qua thành phố/Để
lại nụ cười mơ hồ xanh (Áo đêm); Tường
chói tiếng nói chói (Miêu tả những ngày
nắng); Mơ theo mưa mưa dắt anh đi (Chớp
mắt Huế). Dù mỗi nhà thơ có cách kiến tạo câu, đoạn thơ khác nhau, rất
biến hóa, nhưng tựu trung, những lối diễn tả đa dạng đó đều có tác dụng gợi lên một không gian hư ảo, lạnh lẽo đến lạ
lùng, đến rợn ngợp.
Đi sâu vào thế giới tâm linh, các nhà thơ có thể
bộc bạch mọi ẩn ức, dằn vặt trong đời sống thực. Đọc thơ Dương Kiều Minh, chúng
ta cảm nhận thơ ông tràn ngập nỗi buồn, luôn trằn trọc, dằn vặt, giằng xé cho
thấy một đời sống nội tâm không thanh thản. Ông coi đời chỉ là cõi tạm, gửi ở
đấy con người thực thể nhưng tâm hồn sống trong hoài niệm, bơ vơ cô độc và
không khi nào không buồn. Nỗi buồn và cô độc khiến cái tôi đằm sâu trong triết lý. Phơi trải trên những trang thơ ấy là rất
nhiều suy tư về phận người, cõi đời. Nhưng trong nỗi buồn đó, ta bắt gặp trong thơ
ông luôn bền bỉ niềm tin hướng về cái đẹp và những giá trị tinh thần trường
cửu. Với Nguyễn Quang Thiều thơ được dựng nên trong một trí tưởng tượng mênh
mông hoang dại, giữa những hình ảnh, sự vật như không tồn tại bất kỳ mối liên
hệ nào nhưng vẫn có một sự liên kết nội tại đầy bí ẩn. Giữa cái thực và cái ảo,
dữ dội và nên thơ, quen thuộc và kỳ dị, mơ hồ và thấu suốt... tất cả phối trộn
vào nhau tạo nên một cảm giác lạ lùng, mơ hồ như sự cất tiếng của giấc mơ đẹp
và dữ dội đến ngạt thở. Cũng như Dương Kiều Minh, Nguyễn Quang Thiều luôn hướng
về quê hương của mình với nỗi nhớ da diết và tình cảm thành kính của người con
tha phương. Thơ Mai Văn Phấn gửi gắm khát vọng về sự tái
sinh, vẹn nguyên, thanh khiết, trong sạch và con người trở về bản ngã chân
thật. Có lẽ, đó cũng là niềm mong mỏi của ông về sự sống vẹn toàn, giá trị
thiêng liêng của hơi thở, của cánh hoa, tiếng chim, nhựa sống, của đất đai, của
nước, ánh sáng, bóng tối, cơn mưa, tia nắng. Nguyễn Lương Ngọc không phủ nhận việc hợp nhất giữa sự sống và cái
chết, giữa đời sông trần tục và cõi tâm linh, giữa cái phù du và vĩnh cửu. Điều
này lý giải tại sao thơ Nguyễn Lương Ngọc luôn có những mô tip đối lập giữa cái
chết và sự tái sinh, sự ra đi và trở về như: “Run rẩy như vừa sinh lại...” (Cảm nhận); “Từ nước sinh ra/
Mai có nước ta về” (Từ nước).Với
Inrasara ngủ yên hay còn phiêu bạt
trong quá khứ tìm về cội nguồn Chăm, tìm về
thánh địa để làm hồi sinh một nền văn minh từng bị lãng quên và lu mờ: Ôi! Linh hồn tháng Mười/mà
giấc mơ được tạc từ bóng hoa dại/đã rụng lâu rồi ở đồi tuổi thơ/đêm nay chợt
sáng lên run rẩy (Những linh hồn tháng
mười). Thơ Nguyễn Bình Phương, Inrasara, Trần Tiến Dũng… cũng thể hiện
được chiều sâu của tâm thức khi đi vào thế giới tâm linh.
Như vậy, khai thác, mô tả tiếng nói tâm linh như
một đối tượng thẩm mỹ, các nhà thơ hướng tới cái đích có thể chiếm lĩnh sâu
sắc, rộng rãi hơn đời sống tinh thần, nội tâm
con người hiện đại và điều đó cũng góp phần tạo nên sự khác biệt
khá rõ trên phương diện đề tài, chủ đề, lối viết của các nhà thơ thế hệ Đổi mới
so với thế hệ cầm bút trước đó.
Những
tác phẩm văn học viết về thế giới tâm linh thường tạo được chiều sâu ám ảnh
trong tâm thức người đọc. Những điều thiêng liêng, cao cả được hiện lên qua
những hình ảnh, biểu tượng, ý niệm thể hiện khát vọng vươn tới thế giới thanh
sạch và tĩnh tâm. Chính vì thế, việc đọc thơ của các nhà thơ thế hệ Đổi mới trở
nên khó khăn hơn. Nhưng, từ một góc nhìn khác, đó cũng là một yếu tố tạo nên
sức hấp dẫn riêng của những cây bút này trong nền thơ ca Việt Nam đương đại.
P.T.T
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đăng Duy (2001), Văn hóa tâm linh, Nxb Văn hóa - Thông tin,
Hà Nội.
2. Hiền Nguyễn (2014), “Văn
học và Văn hoá tâm linh, những biến chuyển xưa – nay”, Vanhocquenha.vn.
Tranh của Họa sỹ Rafal Olbinski (Ba Lan)