Thơ tự do – từ Nguyễn Đình Thi đến các xu hướng cách tân sau 1975 (tiểu luận) - Dương Thị Thúy Hằng
Thơ tự do
– từ Nguyễn Đình Thi
đến các xu hướng cách tân sau 1975
Tranh của họa sỹ El Lissitzky
Dương Thị
Thúy Hằng
Thơ tự do ra đời khá sớm và có nguồn gốc từ
châu Âu. Về nguyên tắc, thơ tự do là thể loại không bị ràng buộc về nhịp điệu,
âm luật, vần và một số yếu tố thứ sinh khác như khổ thơ. Với khả năng dung chứa
lớn, thơ tự do được rất nhiều nhà thơ sử dụng. Xét về mức độ phổ biến, nó đứng
thứ ba trong thơ tiếng Đức ở thế kỉ XVII nhờ nỗ lực của Martin Opitz
(1597-1639) - nhà thơ Đức sáng lập ra thi pháp đầu tiên của thể loại thơ này
trong tiếng Đức - và Rudolf Weckherlin (1584-1653) - nhà thơ Đức đại diện cho
trường phái Baroco thời sơ kì văn học Đức đầu thế kỉ XVII. Nhiều thi sĩ nổi
tiếng cũng ưa thích thể loại này như F.W.Nietzsche, G.M.Hopkins… Thơ trữ tình
đồng ca của F.W.Nietzsche không chỉ dừng lại ở những nhịp điệu tự do mà đã xuất
hiện hiện tượng mất những âm giữa (syncope) như trong nhạc jazz. Nhà thơ Anh
G.M.Hopkins tạo ra nhịp điệu đột biến (sprung rhythm) và khẳng định rằng số
lượng âm tiết trong câu thơ không quan trọng, điều quan trọng là sự sắp xếp các
âm tiết đó ra sao. Ở châu Âu, thơ tự do phát triển mạnh mẽ lần lượt ở thơ Đức,
thơ Anh và cuối cùng là thơ Pháp. Có thể thấy thơ tự do bừng nở trong các nền
văn hóa mà thi ca vận động khẩn trương với nhiều phương pháp làm thơ được thể
nghiệm. Thơ tự do trở thành mảnh đất hứa cho các tài năng thỏa sức tung hoành.
Ở Việt Nam, với Xuân Thu nhã tập, Hàn Mặc Tử,
Bích Khê, nhóm Dạ Đài, thơ tự do đã xuất hiện nhưng chưa được chú ý nhiều. Sau
Cách mạng, để thích ứng với bối cảnh lịch sử mới, đa số các nhà thơ tìm đến thể
thơ tự do như là một thể loại đắc lực trong việc chuyển tải không khí khẩn
trương, gấp gáp và mở ra trên diện rộng. Nhiều tác giả thành danh với thể loại
này như Hồng Nguyên, Trần Mai Ninh, Trần Huyền Trân, Nguyễn Đình Thi… Trong đó,
Nguyễn Đình Thi được xem là cây bút tạo dấu ấn sâu đậm hơn cả, trên cả hai
phương diện lập ngôn và thực hành thơ. Những dấu mốc mà Nguyễn Đình Thi xác lập
cho thơ tự do trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp được coi là những tiền
đề cơ bản cho thể loại thơ tự do ở những thời kì phát triển tiếp theo.
Quan điểm về thơ tự do của Nguyễn Đình Thi
thời kì đầu kháng chiến chống Pháp tập trung chủ yếu ở tiểu luận Mấy ý nghĩ về
thơ. Trong tác phẩm này, Nguyễn Đình Thi đã trình bày một cách dứt khoát, mạch
lạc về vấn đề “vần hay không vần” trong thơ, từ đó đề dẫn tới câu chuyện thơ
không vần, thơ tự do. Tác giả không phủ nhận vai trò của vần (vần giống
như mạch máu nối cơ thể một bài thơ – truyền thống này đã có trong nhiều thế kỉ
của thi ca Việt Nam từ thơ trung đại đến thơ hiện đại) nhưng ông cũng khẳng
định thơ không nhất thiết cần đến vần: “Những luật lệ của thơ, từ âm điệu, đến
vần, đều là những võ khí rất mạnh trong tay người làm thơ. Nhưng không phải hễ
thiếu những võ khí ấy là trận đánh nhất định thua. Thiếu võ khí ấy, trận đánh
gay go thêm nhiều, nhưng người làm thơ vẫn có thể thắng”(1). Điều này mang hàm
ý: việc làm thơ không có vần vừa là thử thách vừa tạo ra cơ hội để thơ vượt
thoát ra khỏi những kiềm tỏa dài lâu trước đó và tạo dựng một diện mạo mới. Từ
đây, Nguyễn Đình Thi kết luận: “Chỉ có thơ thực và thơ giả, thơ hay và thơ
không hay, thơ và không thơ”(2). Như vậy, hoàn toàn không có chuyện chủ nghĩa
hình thức và bệnh sính hình thức trong quan niệm của Nguyễn Đình Thi như nhiều
người từng đề cập. Trên thực tế, Nguyễn Đình Thi không có chủ ý từ đầu là làm
thơ không vần, ông chỉ tuân theo quy luật nội tại của thơ. Quan niệm này cũng
không phải là sản phẩm chịu ảnh hưởng trực tiếp từ những nguồn lí thuyết bên
ngoài lúc đó: “Những sự tìm tòi này không phải do ảnh hưởng sách vở nào, mà do
cuộc sống thực tế lúc đó dội vào tâm hồn và trí tuệ của những người làm thơ. Về
trường hợp tôi, thì khi tôi làm thơ không vần rồi, mới đọc một bài của Aragông
và được Tử Phác gửi cho hai bài của Êluya, còn thơ Maia thì nhờ anh Tố Hữu cho
tôi đọc từ sổ tay của anh ấy. Và sau này, mới được đọc thơ Apôline viết trong
chiến tranh 1914-1918. Tôi thích nhất ông ấy. Cũng cần nói thêm là khi chống
phátxít Đức, chính Aragông lại trở về thơ 12 chân và câu thơ cổ điển Pháp
(alexandrin). Những sự đổi khác trong thơ hồi đầu kháng chiến không phải đều
nhằm phá bỏ hoặc chống lại Thơ mới, mà nảy lên tự nhiên từ cuộc sống kháng
chiến, tôi nghĩ vậy. Và cái hướng của nó là dân tộc và hiện đại, như sau này ta
nói”(3). Điều này chỉ có thể giải thích từ sự mẫn cảm nghệ thuật hiếm có nơi
Nguyễn Đình Thi kết hợp với bối cảnh hiện thực lúc bấy giờ. Với ông, nội dung
mới tất yếu sẽ tìm hình thức mới, hình thức mới là sự nâng đỡ thỏa đáng cho nội
dung mới. Trước Nguyễn Đình Thi, hầu hết các nhà thơ đều xem vần như một thuộc
tính cố hữu của thơ. Với họ, thơ có vần là một điều không cần bàn cãi. Vần
không chỉ là yếu tố tạo nhạc tính cũng như sự gắn kết giữa các dòng thơ (thậm
chí khổ thơ) mà còn là một tiêu chí phân biệt thơ với văn xuôi. Không phải ngẫu
nhiên trong thơ trung đại, gieo vần - hiệp vần được quy định hết sức chặt chẽ,
nghiêm ngặt. Trong Thơ mới 1932-1945, tuy cách gieo vần - hiệp vần có phần tự
do và phóng khoáng hơn nhưng hầu như các tác giả đều không bỏ qua yếu tố này
khi cần tạo ra nhạc điệu nhịp nhàng, êm ái cho thơ. Đi vào thơ kháng chiến
chống Pháp, vần thơ là một yếu tố giúp thơ đạt đến tính đại chúng hóa nhanh
chóng, dễ dàng. Tuy nhiên, mặc dù vần giúp bài thơ dễ thuộc, dễ nhớ, gần gũi
với đại chúng nhưng cũng chính sự tồn tại của nó khiến cho nhiều sáng tác thơ
thời kì này rơi vào tình trạng mô phỏng lại các yếu tố thi pháp mà Thơ mới đã
tạo dựng trước đây. Những bài thơ mang một âm điệu đều đều, nhịp nhàng, êm tai
như thế tỏ ra hạn chế trong việc làm bừng dậy khí thế hào hùng, khẩn trương và
dữ dội của cả dân tộc lúc bấy giờ. Hình thức nghệ thuật ấy cũng khó lòng đặc tả
được những diễn biến tâm lí ào ạt, sôi động của mỗi con người trong thời đại
mới. Thơ tự do đã khắc phục được những hạn chế này. Như vậy, cùng với một số
cây bút khác như Trần Mai Ninh, Hồng Nguyên, Trần Huyền Trân…, Nguyễn Đình Thi không
chỉ đưa thơ thoát ra khỏi cái bóng của Thơ mới mà quan trọng hơn là ông đã làm
thay đổi quan niệm về vai trò của vần trong thơ. Vị trí số một của vần trong
Thơ mới bắt đầu lung lay. Vần không còn là yếu tố bắt buộc để tạo nhạc tính cho
thơ, không nhất thiết phải xuất hiện trong bài thơ. Đây thực sự là một bước
tiến lớn của thơ Việt Nam.
Dũng cảm gạt bỏ vần cũng là gạt bỏ đi mối
liên kết bên ngoài – yếu tố mang tính mặc định cho thơ trong một thời kì dài,
Nguyễn Đình Thi chủ trương tìm cho thơ không vần một thứ nhịp điệu bên trong,
“một thứ nhịp của hình ảnh, tình ý, nói chung là của tâm hồn”(4). Trong hội
nghị tranh luận Việt Bắc 1949, nhà thơ cho rằng khi gạt bỏ luật bên ngoài, để
trụ vững, thơ cần phải có luật bên trong rất mạnh. Trước đây, Xuân Thu nhã tập
cũng chú ý đến tầm quan trọng của hình ảnh nhưng họ chưa xây dựng được một hệ
thống lí thuyết về cái gọi là nhịp điệu hình ảnh. Thơ của họ phần nhiều vẫn
quay trở về với nhịp đều đặn, du dương của thơ cách luật. Sau này, những tác
giả trong nhóm Sáng Tạo ở miền Nam đặc biệt là Thanh Tâm Tuyền hẳn có sự gối
tiếp và kế thừa từ Nguyễn Đình Thi khi chủ trương xây dựng trong thơ nhịp điệu
hình ảnh và nhịp điệu tư tưởng. Đến đây, nhịp điệu trong thơ không chỉ được
nhìn thấy và nghe thấy mà còn in hằn sự sắp xếp trong ý tưởng. Có thể thấy cùng
với việc đề xuất bỏ vần, với ý hướng xác lập nhịp điệu hình ảnh trong thơ,
Nguyễn Đình Thi tiếp tục thể hiện nỗ lực trong việc đưa thơ thoát khỏi không
khí du dương, có phần ngăn nắp của thi pháp Thơ mới để trở về với cuộc đời gần
gụi. Về thực chất, việc xây dựng hệ thống quan điểm về thơ tự do không vần của
Nguyễn Đình Thi những năm đầu kháng chiến chống Pháp vẫn nằm trong mạch vận
động của thơ thuộc hệ hình tư duy tiền hiện đại. Trong thơ thuộc hệ hình tư duy
tiền hiện đại, tính tư tưởng cảm xúc của tác phẩm được đặt ở vị trí thứ nhất
nên tất yếu những yếu tố về mặt hình thức nghệ thuật trong đó có thể loại sẽ
đứng ở vị trí như là phương tiện chuyển tải tư tưởng. Tuy nhiên, những nỗ lực
của Nguyễn Đình Thi trên phương diện khẳng định chỗ đứng của thể loại thơ tự do
ở thời kì đầu kháng chiến chống Pháp đã ít nhiều hàm chứa những dấu hiệu dù
mỏng mảnh cho một sự chuyển đổi về hệ hình tư duy thơ ở những giai đoạn sau
này.
Sau năm 1975, bên cạnh những vỉa tầng truyền
thống, thơ tiếp tục quá trình làm mới và cách tân như một quy luật tất yếu để
chống lại sự cũ kĩ sáo mòn. Hai dòng nhánh cơ bản trong cách tân thơ được hình
thành: những đổi mới cách tân trên nền truyền thống và những đổi mới cách tân
trên cơ sở tiếp thu các lí thuyết thơ ca từ phương Tây. Thể loại thơ tự do, cụ
thể hơn là thơ tự do không vần mà Nguyễn Đình Thi và những người cùng ý hướng
nghệ thuật với ông khổ công xác lập những ngày đầu kháng chiến chống Pháp đến
nay trở thành phương tiện hữu hiệu để biểu đạt thế giới cảm xúc đa chiều và thế
giới hiện thực đa thanh phức tạp. Lấy ví dụ, ở 1144 bài thơ trong Tuyển tập thơ
Việt Nam 1975-2000 (Vân Long, Nxb Hội Nhà văn, 2000, 654 trang) có đến 645 bài
(chiếm 56%) được viết theo thể thơ tự do. Trong 556 tác giả được tuyển chọn đưa
vào ba tập thơ của tuyển tập, có đến 361 (chiếm 65%) có sáng tác là thơ tự do.
Nhưng ở hai nhánh cách tân này, diện mạo của thơ tự do lại có những biến tấu
hoàn toàn khác nhau. Ở nhánh cách tân trên nền thơ truyền thống, để phù hợp với
sự gia tăng yếu tố thế sự đời tư trong thơ, nhìn chung thơ tự do từ giã sự sôi
nổi, ào ạt đầy khí thế trong những ngày cả đất nước ra trận để trở về với sự
ngắn gọn, lắng đọng. Hình thức câu thơ kéo dài. Mục đích chính của người viết
không nhằm vào việc tăng sức chứa thông tin hiện thực mà chủ yếu để dồn nén
những tâm trạng, những nỗi đau, những sự mất mát… Cảm hứng chiêm nghiệm và suy
ngẫm về quá khứ, về cái được mất, hay dở, tốt xấu… của nhân sinh chi phối trực
tiếp đến các yếu tố thi pháp của tác phẩm thơ trong đó có thể loại. Di cảo thơ
của Chế Lan Viên là một ví dụ tiêu biểu. Trong tập thơ này, Chế Lan Viên chủ
yếu sử dụng thể thơ tự do, với dung lượng ngắn, câu chữ ít hơn, dòng thơ không
kéo dài như trước. Đó là những vần thơ hướng nội, lắng sâu, chắt lọc những suy
tư, chiêm nghiệm. Như thế, thực chất thể loại thơ tự do ở xu hướng cách tân thơ
trên nền truyền thống chính là sự tiếp nối một cách khá liền mạch với những gì
Nguyễn Đình Thi và những tác giả khác như Trần Mai Ninh, Hồng Nguyên, Trần
Huyền Trân… đã khẳng định về thơ tự do ở thời kì đầu kháng chiến chống Pháp.
Thơ ca nằm trong xu hướng cách tân này vẫn thuộc về hệ hình tư duy tiền hiện
đại.
Sang đến nhánh cách tân thơ trên cơ sở tiếp
thu các lí thuyết thơ thế giới, thơ tự do mặc dù không thoát li hẳn với suối
nguồn thơ tự do rộng lớn mà Xuân Thu nhã tập, Hàn Mặc Tử, Dạ Đài và sau này là
Trần Mai Ninh, Hồng Nguyên, Trần Huyền Trân và đặc biệt là Nguyễn Đình Thi đã
xác lập nhưng nó lại có những bước rẽ đột ngột và đa dạng, tạo ra một diện mạo
hoàn toàn mới mẻ. Cùng với ngôn ngữ, thơ tự do ở nhánh cách tân này đã góp phần
quan trọng vào quá trình chuyển dịch hệ hình tư duy sáng tác trong thơ, từ tiền
hiện đại sang hiện đại chủ nghĩa với những mức độ đậm nhạt khác nhau. (Trong hệ
hình tư duy hiện đại chủ nghĩa, thay vì làm tấm gương phản ánh thực tại, nghệ
thuật có xu hướng tự quy chiếu với sự đề cao tuyệt đối vai trò của ngôn ngữ,
chối bỏ lối tự sự tuyến tính và xóa nhòa ranh giới giữa các thể loại. Về thực
chất, hệ hình tư duy hiện đại chủ nghĩa chính là sự phản ứng lại với kiểu sáng
tác theo hệ hình tư duy tiền hiện đại. Tuy nhiên, bởi không có sự đồng thuận
trước thực tại nên cái tôi chủ thể trong tác phẩm mang xu hướng hiện đại chủ
nghĩa thường tìm ra con đường riêng cho mình bằng cách đào sâu triệt để bản
thể, khai phá tận cùng con người trong con người để xác lập hình thức cái tôi
đa ngã). Ở nhánh cách tân này, để thuận tiện trong việc tiếp cận, bài viết chia
thành hai nhóm tác giả: 1/ Nhóm tác giả có quá trình sáng tác âm thầm trong một
thời gian dài trước năm 1975 và chính thức “được trở lại” với bạn đọc sau năm
1986 (Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng…); 2/ Nhóm tác giả có quá trình sáng tác
sau năm 1975.
Ở nhóm tác giả thứ nhất (Trần Dần, Lê Đạt,
Đặng Đình Hưng…), thơ tự do được sử dụng nhiều khi ở dạng trò chơi thể loại –
một trò chơi có chủ ý với luật chơi rất chặt chẽ. Trần Dần tạo ra một loạt các
dạng biến tấu thể thơ trong đó có nhiều thể thơ mang tính liên văn bản rõ nét:
thơ - tiểu thuyết một bè đệm, thơ hồi kí có bè đệm, thơ - bè, thơ bốn câu rock
- biến tấu âm, thơ lời và không lời - thơ - họa - văn - luận… và đặc biệt là
thơ mini. Tác giả tự định nghĩa cho thơ mini của mình: “Thơ mini như nổ hạnh
nhân và năng lượng lớn từ những hạt Chữ cực thiểu…” (Sổ bụi 1988). Mỗi bài
thường chỉ có một, hai câu, nhưng sức gợi của bài thơ lại rất rộng và đầy ám
ảnh. Ví dụ: Mưa rơi không cần phiên dịch/ Nước
mất? Ăng k’or còn?/ Tôi khóc – những người bay – không tới nổi chân trời/ Càng
khóc – những người – đã – tới chốt ở chân mây?... Thơ mini thực sự
thách thức bạn đọc. “Phu chữ” Lê Đạt lại xây dựng hai biến thể của thơ tự do:
thơ haikâu và đoản ngôn. Ở một góc độ nhất định, thơ haikâu mà tác giả tạo dựng
có nhiều nét gặp gỡ với thơ mini của Trần Dần nhưng trong đó hàm chứa mối bận
tâm về sự chống lãng phí ngôn ngữ cũng như thể loại của Lê Đạt. Lê Đạt cho rằng
trong thời đại bùng nổ thông tin, nếu phải dùng nhiều câu để diễn đạt một tình
ý nào đấy trong bài thơ thì quá tốn kém. Từ đây, nhà thơ đề xuất một cách tiết
kiệm: mỗi bài chỉ hai câu thơ và đặt tên là thơ haikâu. Dạng thơ này làm chúng
ta liên tưởng đến thơ haiku trong thơ ca truyền thống Nhật Bản. Tác giả định
nghĩa rõ ràng về loại thơ này: “Haikâu không phải là một bài tứ tuyệt cắt đôi
hay hai câu thơ đơn thuần mà là một thể hoàn chỉnh tự đủ trên cơ sở những
“chip” chữ đa năng, đa nghĩa”(5). Sức dồn nén của chữ ở dạng thơ này đạt đến
cực hạn. Vận dụng lối thơ này chủ yếu trong hai tập Ngó
lời (1997) và sau này
là U75 từ tình (2007), Lê Đạt đã sáng tạo ra nhiều
áng thơ đẹp: Lời lỡ nuốt thề mà mai buột nở/ Xuân
đa mang hoa khốn khổ chung tình (Hoa
mai);Người đến rồi người lại
đi/ Khiến người miếu gốc cây si khấn tình (Khấn tình); Đời
bất trắc mộng đầy đất chật/ Đói sân chơi hành khất chân trời (Chân trời)… Sang tới đoản ngôn (cũng
là một biến tướng của thơ tự do) – những thể nghiệm cuối cùng về thể loại của
Lê Đạt trước khi viễn du vào chuyến đi bất tận, nhà thơ thể hiện được triệt để
ý hướng của mình về một lối thơ với chữ ngắn, tình dài. Đoản ngôn của Lê Đạt
giống như một dạng danh ngôn đặc biệt. Tiếp cận những câu đoản ngôn như thế
này, người đọc nhận thấy có biết bao suy tư ẩn giấu: Người quân tử dùng mắt để
nhìn, Kẻ tiểu nhân dùng mắt để nhòm/ Các triết gia cảnh báo nhiều, về nguy cơ
tha hóa mà hơi ít, về nguy cơ đồng hóa/ Nó cũng là, một hình thức tha hóa/
Trong một bài thơ cổ điển, nghĩa thường, đến đúng hẹn. Trong một bài thơ hiện
đại, nghĩa thường đến trễ giờ/ Viết là phép đối xử với văn phạm, như một bạn
chơi, chứ không phải như, một nhân viên trật tự thô lỗ/ Người đẹp lẩn khe hai
dòng chữ tối, Thủ thư mù, lần lẽ một lối mê… Trong những câu đoản ngôn - nói
ngắn ấy, nhịp điệu thường được Lê Đạt ngắt ra đột ngột, nhằm tránh sự khô cứng
của tính triết lí đưa lại đồng thời tạo ra những nốt ngưng kết, nhấn nhá trong
suy tư bạn đọc.
Ở nhóm tác giả thứ hai (Nguyễn Quang Thiều,
Mai Văn Phấn, Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Văn Cầm Hải, Inrasara, Ly Hoàng
Ly…), thơ tự do (bao gồm sự phát triển cuối cùng đẩy sang thơ văn xuôi) chiếm
ưu thế tuyệt đối. Ở đây, bài viết không phân tách rạch ròi giữa thơ tự do và thơ
văn xuôi bởi xét đến cùng giữa hai thể thơ này có sự giao thoa nhất định. Nếu
hiểu thơ tự do như là một thể thơ cởi bỏ mọi ràng buộc về vần luật thì thơ văn
xuôi chính là thể thơ văng xa nhất khỏi những quy phạm đó. Với nhóm tác giả
này, thơ tự do chính là chiếc áo hình thức nghệ thuật thỏa đáng nhất cho tác
phẩm của họ, mang trong mình sự tỏa phóng của tư tưởng, sự rộng rãi của ngôn
ngữ, sự bung nở của tưởng tượng… Tìm hiểu những tác phẩm của Vi Thùy Linh, Phan
Huyền Thư, Mai Văn Phấn, Nguyễn Quang Thiều…, người đọc có thể thấy điều này
đặc biệt rõ ràng. Trong tổng số 55 bài thơ ở hai tập Nằm
nghiêng và Rỗng
ngực (Phan Huyền
Thư), thể thơ tự do chiếm tuyệt đối 100%. Bốn tập thơ của Vi Thùy Linh (Linh, Khát, Đồng tử, Vili in love)
có tới 176 bài trên tổng số 184 bài thơ được sáng tác theo thể thơ tự do, chỉ
có 4 bài được sáng tác theo thể thơ 4 chữ (Như
tiếng đồng dao, Đồng dao trông trăng, Nhớ Hải Phòng, Biển trời của bé),
2 bài thơ theo thể thơ 5 chữ (Anh
còn em, Giao cảm), 1 bài thơ 8 chữ (Thương sông Hồng), riêng bài
Giáng sinh con có ba khổ đầu là thể thơ 4 chữ và hai khổ sau là thể thơ 5 chữ.
Với Mai Văn Phấn – một nhà thơ từng khẳng định tên tuổi mình với những thể thơ
truyền thống, ở 74 bài của ba tập thơ (Hôm
sau, Và đột nhiên gió nổi, Bầu trời không mái che), tỉ lệ sử dụng
thể thơ tự do là 100%. Thơ tự do của nhóm tác giả này thường có các đặc điểm:
1/ Hình thức co duỗi linh hoạt, với dạng chủ đạo là trình bày theo kiểu xuống
hàng nhưng không viết hoa đầu dòng, kéo dài trong toàn bài; 2/ Hình thức bài
thơ như một câu chuyện với việc đánh dấu chương mục. Cũng ở nhóm tác giả này,
thơ văn xuôi được sử dụng phổ biến. Nếu tính theo đơn vị câu, có thể chia thơ
văn xuôi trong sáng tác của họ ra làm hai dạng: xuống dòng và không xuống dòng,
điều này xảy ra trong các bài như Nhân chứng của một cái chết, Chuyển
động, Những ví dụ, Chuyển dịch màu đen... (Nguyễn Quang Thiều), Vãn
hồi 2, Những con dã tràng dúm dó (Thanh
Xuân), Bầu trời lông gà lông vịt, Bài thơ hai
từ, Chim đất, Hương Linh, Khoảng không hói, Thằng cu, Tạm biệt, Vay và thế chấp (Trần Tiến Dũng), Triển
lãm bản địa (Nguyễn
Quốc Chánh)… Nếu chia theo quy tắc ngữ pháp, có thể thành hai dạng: hoặc duy
trì (tình trạng phổ biến) hoặc xóa bỏ các quy tắc ngữ pháp. Một số bài thơ theo
quy tắc này: Mười bài tập mùa xuân (Mai Văn Phấn), Phóng
đãng của trí nhớ (Nguyễn
Quốc Chánh)…
Có thể nói, kể từ sự khẳng định một cách rõ
ràng của Nguyễn Đình Thi về vị trí của thơ tự do trên cả hai phương diện lập
ngôn và thực hành ở thời kì đầu kháng chiến chống Pháp, thơ tự do đã có sự phát
triển liên tục và phổ biến trong đời sống thơ ca Việt Nam. Sau 1975, trong xu
hướng đổi mới cách tân thơ, dòng chảy mạnh mẽ và nhìn chung khá thuần nhất
trước đó của thơ tự do đã có sự tỏa nhánh ra các mạch nguồn khác nhau. Ở nhánh
rẽ thơ hiện đại chủ nghĩa, cùng với các yếu tố khác trong thơ (quan niệm thơ,
ngôn ngữ thơ…), thể loại thơ tự do đã góp phần tạo ra sự chuyển dịch hệ hình tư
duy sáng tác – một quy luật tất yếu trong quá trình vận động của thơ ca. Những
hiện tượng xô lệch, rạn vỡ về quy ước thể loại đưa người đọc đến một suy nghĩ:
thơ còn có khả năng và những hướng mở khác. Tuy nhiên, chính trong sự nới rộng
hết mức biên độ thể loại này, những hồ nghi liệu đó có phải là thơ không luôn
có xu hướng xuất hiện một cách thường trực trong quá trình tiếp cận tác phẩm.
Đó cũng là một điểm mà người sáng tác nên có sự lưu ý trên hành trình tạo ra
những tác phẩm mang ý hướng cách tân có khả năng trụ vững trong lòng bạn đọc
D.T.T.H
__________
(1) (2) (4) Nguyễn Đình Thi. Mấy ý nghĩ về
thơ. In trong Ngữ văn 12 nâng cao, tập 1. Nxb Giáo dục, 2008, tr.53, tr.54,
tr.51.
(3) Lại Nguyên Ân. Số phận những tìm tòi hình
thức trong thơ Việt Nam sau 1945. In trong 50 năm văn học Việt Nam sau Cách
mạng tháng 8. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999, tr.337.
(5) Lê Đạt. Bài haikâu. Tạp chí Thơ, số 1,
2006.
(Nguồn:
http://vannghequandoi.com.vn)