Thơ và
đời sống tâm linh
GS.TS. Mã
Giang Lân
Mã Giang Lân
Thế giới tâm linh, đời sống tâm linh là gì?
Có hay không khi người ta chết thì linh hồn vẫn tồn tại? “Chết là thể phach còn là tinh anh” (Truyện Kiều). Chưa một giải đáp
nhưng từ xưa đến nay, con người vẫn tin có một đời sống ở thế giới “bên kia”,
một “đời sống tâm linh” luôn tồn tại, liên thông với đời sống hiện hữu hàng
ngày. Những nhà khoa học, chính trị, kinh tế giàu trí tuệ không tin hoặc ít tin
thì vẫn không đoạn tuyệt với “đời sống tâm linh”, vẫn thờ cùng tổ tiên, ông bà
cha mẹ, vẫn tham gia những hoạt động lễ hội, thực hành những nghi thức giao
tiếp với “đối tượng linh thiêng”. Ở các nước công nghiệp hiện dại cũng thế. Dù
đời sống hiện đại đến đâu, người Nhật vẫn tin vào đấng linh thiêng vô hình. Họ
đi vào đền chùa với thái độ trang nghiêm
cung kính. Người Nhật lấy tên Phật Bà Quan Âm đặt cho máy ảnh (Canon). Ở phương
Tây, con người sống trong bao bọc của bởi nhiều vị thần vị thánh. Người tra tin
có thần thánh. Điều đó không bàn cãi, đã là đức tin rồi. Các vị thần thánh hiện
hữu vào từng vật dụng, công trình sáng tạo văn hóa văn minh hàng ngày. Nữ thần
Tự do Nike (giày thể thao), Suturn (xe hơi), Diana (dầu thơn), Calyspo (điệu
nhạc), rồi Poseidon, Tatans (hỏa tiễn), Apolo (phi thuyền). Tên các địa danh
cũng lấy tên các vị thần: Philadelphia, Atlanta, Atlas, Orion,… Ở Pháp, tên các
đường phố Paris: Saint Michel, Saint Germain des Prés,… Châu Á, Việt Nam, đền
chùa luôn hiện diện trong đời sống tâm linh người dân. Các nhà nghiên cứu đã
nhận ra hệ thống tôn giáo ở Việt Nam. Những tôn giáo truyền thống: thờ cúng
trời đất, thánh thần, thờ cúng tổ tiên: Thổ Công, Thần Tài trong gia đình, thờ
các tổ nghề, thờ Thành Hoàng, thờ cúng quốc gia (tế đàn Nam giao…). Những tôn
giáo nhập nội (Nho, Phật, Đạo, Thiên Chúa)… Trong hệ thống đó, người Việt Nam
nói chung có tâm thức tôn giáo đa thần, hỗn dung. Một người có thể thực hiện
nhiều hành vi tôn giáo, miễn là ở đó có sự giao cảm và niềm tin của người sống
với cõi linh thiêng, với “linh hồn” người chết, với Trời, Phật, Thần Thánh… Ở
đó, con người được thanh minh, giãi bày, an ủi, cầu nguyện. Cái thế giới “bên
kia” sẽ đem lại cho họ lẽ công bằng bác ái, sự may mắn, ý nguyện cái thiện
thắng cái ác.
Ai cũng biết trong kho tàng văn hóa văn học
thế giới không ít những tác phẩm lớn giá trị có liên quan đến thánh thần ma
quỷ. Và những truyện thần thoại, truyền thuyết, cổ tích Việt Nam cũng chứa đựng
bao nhiêu là Tiên, Phật, những thánh thần có công, những thế lực siêu nhiên tạo
dựng một hệ thống tín điều, luân lý đạo đức… Gần chúng ta hơn là những tác phẩm
đậm đặc yếu tố tâm linh, tâm thức tôn giáo của Đái Đức Tuấn Tchya (Tiếng ai hát giữa rừng khuya, Thần hổ),
của Nguyễn Tuân (Trên đỉnh non Tản, Chùa
Đàn…) và thơ của Hàn Mặc Tử. Cảm xúc thơ Hàn rộng mở từ Thiên Chúa giáo đến
Phật giáo, Đạo giáo…
Mấy thập kỷ đất nước chiến tranh, tư tưởng
tình cảm hướng về một phía, phía có ích cho dân tộc, đất nước mà quên đi cái
phần sâu thẳm, đời sống tâm linh luôn hiện diện với con người. Và phần nữa cũng
là quan niệm đơn giản, thô lậu cho đó là những mê tín cần xóa bỏ. Nhưng mỗi
chúng ta khi đọc câu thơ Kiều của
Nguyễn Du “Trông ra ngọn cỏ lá cây – Thấy
hiu hiu gió thì hay chị về” là xúc động và cảm nhận linh thiêng như đối diện
với một linh hồn, một số phận trong cõi hư vô. Cái tâm thế tâm cảm tâm linh
luôn gợi đến niềm tin, sự linh thiêng tín ngưỡng tôn giáo. Niềm tin cao cả ấy
được kết tinh thành những ý niệm, biểu tượng, người ta sùng bái tinh thần và là
chỗ dựa cho những ai cần an ủi, cần cứu giúp. Rộng hơn đời sống con người,
ngoài cái thực hàng ngày vẫn tồn tại một thế giới tinh thần với những bất chợt,
bất giác, những hiện tượng tác dộng đến tâm cảm mà không dễ dàng giải thích.
Những hiện tượng tâm linh này bí ẩn, phi lý, trực giác, ảo giác, linh giác,
thoát khỏi ý thức của con người.
Cả hai cấp độ tâm linh không có giới hạn
không gian và thời gian. Đời sống tâm linh gắn với tôn giáo. Tôn giáo là thế
giới của lòng tin và đức tin nên tôn giáo cần ở con người một lòng tin tuyệt
đối, thanh sạch và tận hiến. Con người trong thế giới hiện đại cảm thấy bất lực
trước một hiện thực đầy biến động, đầy bất trắc nên tìm đến một đức tin, một
niềm tin: đấng thiêng liêng, tôn giáo hướng đến những hình ảnh đẹp đẽ cao
thượng mong sự tĩnh tâm an lành. Tâm thế hướng thiện và hướng thượng là tâm thế
dựa vào niềm tin để hy vọng điều tốt đẹp.
Hoàng Cầm linh thiêng hóa, tôn giáo hóa một
vùng văn hóa đã phôi pha. Thé giới thơ Về
Kinh Bắc lặng lẽ, âm thầm, mê hoặc. Thời gian, khôn gian mờ ảo, nhạt nhòa
mà có khả năng hóa giải những đau buồn đem đến một niềm tin dù còn xa vời vô
vọng. Thơ Hoàng Phú Ngọc Tường cũng đã
chìm đắm trong cõi tâm linh “Những chiều Bến Ngự giăng mưa - Chừng như ai đó
mơ hồ gọi tôi - Tôi ra mở cửa đón người - Chỉ nghe tiếng gió thổi ngoài hành
lang” (Địa chỉ buồn). Rồi Thanh
Thảo viết Đêm trên cát một đêm không ngủ của Cao bá Quát. Phùng Khắc Bắc
viết Bài thơ riêng cho những người chết. Dương Kiều Minh viết Tự sự
bên mùa, Vừa giấc mơ dịu dàng đậu xuống. Đặng Huy Giang ghi lại một hiện
tượng tâm linh “Ta nghe có lửa – Cháy chưa hề nguôi – Và nghe nước nữa – Chảy
chưa hề yên” (Không đề)… Cảm hứng thơ hướng sâu vào miền hư ảo bí ẩn để đối
thoại với cõi tâm linh bộc lộ nhu cầu giãi bày, giải thoát, hy vọng được che
chở. Vẫn là những điều muôn thuở của cuộc đời thực: sự sống cái chết, thiện ác,
ở hiền gặp lành, phúc và họa… Thời kỳ Đổi Mới, văn xuôi Việt Nam đã khai thác
thành công thế giới tâm linh. Đời sống tâm linh hiện lên ấn tượng qua nhiều tác
phẩm: Bến trần gian của Lưu Minh Sơn, Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai.
Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Cợ Hội của Chúa của Nguyễn
Việt Hà, Người cõi âm của Trần Chiểu, Cõi người rung chuông tận thế
của Hồ Anh Thái, Mẫu thượng ngàn, Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân
Khánh… Và thơ, trở về với tế giới nội tâm đầy phức tạp. Các tôn giáo (Phật
giáo, Thiên Chúa giáo…) cũng góp phần tạo dựng cõi linh thiêng cao cả để tơ cầu
nguyện, giải phiền mong cứu rỗi vươn tới vĩnh hằng. Chú ý chúng ta nhận ra các
nhà thơ sau thế hệ chống Mỹ cứu nước có những đột phá chủ động tích cực. Họ đi
vào miền sâu miền xa của không gian thời gian và tâm tưởng trong thế giới kỳ
diệu của tinh thần con người với những trực giác, ảo giác, linh giác. Chính thế
hệ các nhà thơ này làm nên sắc thái hồn cốt mới cho thơ Việt bằng nội lực mạnh
và bằng những giao lưu giao tiếp sáng tạo với văn hóa văn minh bên nhoài.
Nguyễn Quang Thiều, Dương Kiều Minh, Mai Văn Phấn, Nguyễn Bình Phương, Đặng Huy
Giang là tiêu biểu.
Thơ Nguyễn Quang Thiều gắn với tuổi thơ, với
thiên nhiên đầy những huyền bí, những ám ảnh cội nguồn: Bài hát, Bài hát về cố
hương, Cánh đồng… Nhiều tên bài thơ đã gợi lên đời sông tâm linh: Linh hồn
những con bò, bản tuyên ngôn của những cơn mơ, Gọi hồn, Sám hối, Lòi nguyền, Thánh ca tĩnh lặng, Điều thiêng… Điều
thiêng trong thơ Nguyễn Quang Thiều bắt nguồn từ tôn giáo dân gian. Những tín
điều dân gian trở nên linh thiêng mầu nhiệm “Tôi hát bài hát về cố hương tôi - Bằng khúc ruột tôi đã chôn ở đó - Nó
không tiêu tan - Nó thành con giun đất - Bò âm thầm dưới vại nước, bờ ao - Bò
quằn quại qua khu mồ dòng họ - Bò qua bãi tha ma người làng chết đói… Tôi xin ở
kiếp sau là một con chó nhỏ - Để canh giữ nỗi buồn – báu vật cố hương tôi”
(Bài hát về cố hương). Không gian và thời gian đêm thích hợp với hành động viết
và thuận lợi cho việc đối thoại với hư ảo hư vô của đời sống trần tục, trâng
tráo. Đêm tối luôn xuất hiện, có trăng, có sao, nhưng bao trùm vẫn là bóng tối,
bữa tối, đêm gần sáng. Trong cái không – thời gian mờ ảo, nhập nhoạng, huyễn
hoặc, vạn vật đều có linh hồn, linh thiêng và thánh thiện: hơi thỏ linh hồn,
linh hồn của ô cửa sổ, linh hồn hồ nước, linh hồn những con bò, linh hồn về
giăng lưới “Tất cả những người chết trở
về thành phố - Trà trộn trong những linh hồn thánh thiện – Những linh hồn ân
hận, những linh hồn say đắm là những bóng ma” (Đoản ca về buổi tối). Những
vật bình thường, tầm thường trở nên lung linh có ý nghĩa tích cực trong “thế giới đang tự sát”. ốc sên, châu
chấu, cà cuống, nhện vàng, cỏ đuôi chó, rơm khô, lưỡi cày… Và như vậy, tâm thức
cội nguồn làng quê, thiên nhiên hoang dã luôn là nơi gợi nhắc trở về: “Tôi bay qua những cánh đồng mùa xuân còn ái
ngại - Qua những ngôi sao đã mở mắt nhưng lưỡi thì chưa mọc - Tôi gặp dơi của
bình minh, sơn ca của bóng tối - Những ngôi mộ tổ tiên hắt sáng gọi tôi về”
(Bài hát). Tất cả những chuyển động và biến đổi trong đêm. “Đêm” như một biểu tượng cho bản năng
sống sinh sôi trong thơ Nguyễn Quang Thiều. Cùng với một hệ từ ngữ: bóng tối,
bữa tối, dêm tối, khuya, gần sáng, giấc ngủ… Đêm chứa đầy những khả năng tiềm
tàng của cuộc đời, nảy mầm và những gì gợi về sự sống.
Đâu đây
những bầu vú con gái tuổi mười lăm như những mầm cây đang nhoi lên khỏi mặt đất
… Góc vườn
khuya cỏ thức trắng một mình
(Bài hát về cố hương)
Nhưng đêm vẫn là cái chưa được xác định, còn
lẫn lộn, hỗn mang, còn tiềm ẩn những lo toan, bất ổn “Cứ đêm xuống - Bầy chó ngửa mặt lên trời - Sủa cay đắng, thảm sầu, man
rợ... Sủa vào trăng? - Sủa vào ngọn đèn dầu? - Hay sợ đêm mà sủa vào bóng tối -
Hay sợ nhau mà sủa vào nhau” (Bầy chó của tôi), “Đêm nhàu như tấm áo chó đang nhay” (Đêm gần sáng). Tính hai mặt của
biểu tượng đêm luôn là một thách đố, một thách thức: vừa là tăm tối vừa là dự
báo cho ánh sáng của sự sống.
Tôi đã sống
những đêm gần sáng
Một chút
lạnh cuối đêm, một chút ấm sang ngày
(Đêm gần sáng)
Trước cái vô thức mù mờ ấy, nhà thơ cần chỗ
dựa “cần có một quê hương để được trở về
mình” để được tràn đầy xung động sống.
Đưa các con
về cánh đồng của bà nội
Các con sẽ
tìm gom hài cốt
Của những
mùa màng tàn tật
Mai táng lại
trong đường cày mới
Để oan hồn
của cái đói
Đêm đêm
không đòi mạng cánh đồng
Và các con
sẽ lấy hạt giống thần
Tổ tiên giấu
vùi trong cái bát hương
Gieo bí mật
xuống cánh đồng góa bụa
(Con bống đen đẻ trứng)
Vậy đêm là cứu cánh cho cõi thiêng đi về bay
lượn hiện tồn trong sự chở che của tâm thức cộng đồng làng xã, tâm thức cội
nguồn. Thơ Nguyễn Quang Thiều sinh sôi ám ảnh bằng biểu tượng cõi thiêng ấy.
Đời sống tâm linh trong thơ Nguyễn Bình
Phương ở cấp độ khác. Khác với thơ Nguyễn Quang Thiều, thơ Nguyễn Bình Phương
muốn hướng tới một cách cảm, cách lý giải khác về hiện thực băng một nhãn quan
đặc biệt. Cái hiện thực ngổ ngang phàm tục xô bồ bất trắc đổ vỡ được gợi lên
qua những ký tự lạ liên kết lạ của thi ảnh. Nhà thơ sử dụng mộng mị vô thức để
mê hoặc người đọc. Tên một số bài thơ: Trò
thiêng, Luân khúc, Linh nham đêm, Linh miêu, Khách của trần gian… có màu
sắc tâm linh, nhưng chất tâm linh, chất thiêng không đậm bằng chất lạ. Lạ trong
cách ghĩ, cách nhìn, trong cách ứng xử từ ngữ. Những tiếng lạ tạo nên cảm giác
lạxuất hiện dày đặc gây chú ý người đọc: xa thân, mở lời, ngôi sao chết trắng,
trăng lác đác, bên kia giấc ngủ, bên kia bầu trời, “đi lìm lịm vào gương như khói”… Lạ trong cách nhìn “đeo kính khác nhìn sang cuộc đời khác”
(Buồn). Mò ảo mung lung hư ảnh “Những quả
đồi lơ mơ tối – Lơ mơ vạt cỏ gianh – Ngôi nhà rét – Chiếc cần giếng cong queo… Gió
đã từng đến reo - Em đã từng thờ ơ hoa trắng” (Ngày đông). “Nhìn thật kỹ hàng cây thật đỏ - Màu đỏ giăng
chập trùng ngang trời – Sáng trong bóng tối” (Đêm ngà ngà). Lạ trong cách
cảm mờ ảo gợi nhớ và liên tưởng phóng túng trong mơ trong đem, trong khôn gian
thời gian nhạt nhòa hòa lẫn “Không phân
biệt – Ngủ bên ngoài mái hiên hay ngủ trong lòng mẹ”. “Một ngày không ai – Con đường vắng hồn hoa đi lảo đảo” (Đêm ngà
ngà). Những câu thơ không xác định, suy tưởng cách nào cũng khó khăn nhưng thôi
thúc người đọc giải mã, tìm kiếm ngữ nghĩa. Mà tìm ngữ nghĩa của thơ là điều
không dễ, không nên. “Ngày xưa ở nước
mông lung – Chưa thấy mặt trời tình không ký ức – Cuốn theo ánh sáng màu hung –
Mải mê hai ta đi tìm thêm bóng” (Xa thân). Bóng là người, là hình ảnh của
những cuộc đời: “Họ đột ngột xuất hiện –
Tựa bóng ma thôi ra đi từ sương – Đàn ông trên lưng ngựa đen – Đàn bà mang bạc
lạnh – Không khí kêu trầm trầm quanh họ - Như tiếng kêu của những con dao – Gặp
giấc mơ sát chủ” (Chợ núi). “Người đi
xem xác của người – Hoàng hôn một bóng trăng vơi giữa đàng” (Ca). Bóng cũng
hiện hình linh vật đồ vật. “Cái bóng nhòa
nhòa quẩn trong mơ – Nhẹ tênh không va đập” (Cái bóng). Thơ Nguyễn Bình
Phương thấp thoáng nhiều cái bóng. Nó chính là hình ảnh của những hiện tượng,
sự vật thoáng qua, hư ảo, bất thường. Đó là hiện thực duy nhất của mọi hiện
tượng qua ảo ảnh. Chúng ta vẫn quan niệm bóng gắn với/ là một phjaanf của con
người, cũng được kính trong như linh hồn người. Người ta tránh dẫm lên bóng
người khác và không cho trẻ con nhìn bóng. Trẻ con buổi tối nhìn bóng người
(trên tường, trên vách, nền nhà…) khi ngủ sẽ hay mơ, giật mình, bất an. Bóng,
nơi trú ngụ của linh hồn luôn gắn bó với con người. Bóng của những bông hoa bị
ngắt run run về đậu trên cuốn, hồn hoa lảo đảo đi trên đường, bức tường đổ “còn lại bóng chỗ ngồi” (Bài thơ năm
khổ). “Chỉ còn lại bóng những hàng cây”
(Hình ảnh cuối cùng). “Chạm bóng gày chới
với” (Linh nham đêm). Con người chỉ là những cái bóng, nhẹ bước trong sương
mù, không rõ mặt. Vậy thì bóng trong thơ Nguyễn Bình Phương, ý thức hay vô thức
vẫn linh thiêng, dù đó chính là cái tôi đích thực của nhà thơ. Nhà thơ tự soi
vào bóng mình để chiêm nghiệm.
Không chảy
cùng sông một cái bóng
Anh ngó anh
đâu phải là anh
Là hư ảnh từ
búa xua hư ảnh
Búng tay lên
yên ả tan tành
(Tuổi bốn lăm ngồi cạnh sông)
Nhìn cuộc đời bằng một hệ mỹ học khác qua
những thao tác hòa lẫn cái thực và cái ảo, cái hợp lý và phi lý, ý thức và siêu
thức tạo ra cáo kỳ lạ, như bất ngờ thơ Nguyễn Bình Phương lấn sang trạng thái
giao thoa với cõi tâm linh.
Đến với thơ Mai Văn Phấn, chúng ta ngập vào
một thế giới đậm đặc những tín điều, giáo lý và những nghi thức hành lễ của tôn
giáo. Tính hòa đồng tích hợp nhiều tôn giáo chủ yếu là đạo Thiên Chúa, đạo
Phật, đạo Mẫu làm nên cảm hứng thơ Mai Văn Phấn phong phú màu sắc. Tôn giáo là
nguồn cảm hứng bất tận cho sáng tạo nghệ thuật (thơ ca, âm nhạc, hội hoa, kiến
trúc…). Ở đấy, người nghệ sỹ từ trên thế giới tâm linh hướng vọng đến một thế
giới bên kia thực tại, thực tại trở nên linh thiêng huyền bí. Con người cảnh
vật luôn hiện diện trong một quá trình phồn sinh, hóa sinh, hướng thiện. Tôn
giáo đã được in đậm và được lưu giữ bền vững trong nghệ thuật. Lý luận nào, tâm
lý học nào cũng không thể phủ nhận môi trường sống, xã hội, kiến thức văn hóa
ảnh hưởng đến tư duy nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn. Cảm hứng tôn giáo tạo nên
chiều sâu tâm linh. Tôn giáo và tâm linh là sự cộng sinh ở nhiều bình diện cảm
xúc nghệ sỹ.
Trước hết, tâm thức thơ Mai Văn Phấn được dẫn
dắt bằng ánh sáng, tinh thần cơ bản của Thiên Chúa giáo: Cầu nguyện ban mai (1997), Nghi
lễ nhận tên (1999), rồi rửa tội, ban phép lành thánh thể “Ánh sáng đã ngủ yên – Trong vòng tay của đêm
– Ta đang hồi sinh” (Nghi lễ cuối cùng). Không gian thời gian được linh
hóa, thấm đẫm tinh thần Phật giáo “Hồn
mình dựa chốn mong manh – Rồi hư danh ấy cũng thành hư không” (Kinh cầu ban
mai). Những linh hồn, luân hồi, đầu thai, kiếp sau như một lẽ vô thường sắc sắc
không không, hợp rồi tan, được rồi mất “Anh
vừa đọng xuống thu gày – Đã đông thánh đá phủ đầy rêu xanh” (Khúc cảm mùa
thu). Hiện tại hư ảo, quá khứ hiện về “Dường
như chuông đổ ngoài kia – Bà tôi nón lá áo the lên chùa” (Người cùng thời).
Trong tình yêu với em, Mai Văn Phấn cũng ở tâm thế phật tử đối diện với em – đấng
linh thiêng.
Ngược dốc
tới gần cổng chùa
Khuôn mặt em
chợt hiện Quán Thế Âm Bồ Tát
Mang chiếc
túi màu nâu
Cổ cao, váy
chùng, nhẫn trắng...
Vòng vòng
hào quang
Trong vòm
trời sáng láng
Tâm tưởng
con xin sấp mình
Thân con
rỗng không
Hạc khô
chiếc mõ chân tâm trì chú...
(Lên chùa)
Và trở về với đạo Mẫu, tôn giáo dân gian căn
cốt Việt, lấy đó làm tinh thần độ thế che chở:
Mẫu nâng niu
con ánh trăng
Tiếng chuyền
cành, tiếng hú
Da thịt con
yêu trải sâu đêm tối
Dựng tầng
mây mưa nguồn
(Cửa Mẫu)
Đạo Mẫu là văn hóa tâm linh đồng thời cũng là
hiện thân của quá khứ tổ tiên. Vì vậy, thờ Mẫu cũng là một nghi thức hành lễ
gợi nhắc cội nguồn.
Mai Văn Phấn sống trong/ hòa vào một cách tự nhiên, hồn nhiên với
những biểu tượng của văn hóa tôn giáo. Tôn giáo là linh thiêng cao cả. Tôn giáo
“thần thánh hóa” đời sống hiện hữu và nâng lên thành đời sống tâm linh. Chúng
ta quan niệm tất cả những gì là hư ảo, liêu trai… tác động đến tâm cảm con
người đều mang màu sắc tâm linh. Vẫn trấn
tĩnh tiễn khách ra ngõ của Mai Văn Phấn vượt khỏi điều thiêng, ám ảnh kinh
dị về một hiện tượng tâm linh, một thế giới khác, có một âm bản – hồn người –
bóng ma. Một ông khách đến chơi. Chủ nhà “Pha
xong ấm trà - Quay ra - Ông khách không còn ở đó - Gọi điện thoại - Người nhà
bảo ông mất đã bảy năm”. Chủ nhà sang hàng xóm, lại trở về nhà tiếp ông
khách “Trong nhà - Trà vẫn nóng - Đẩy
chén nước về phía ông khách đã ngồi. - Luồng tử khí cao chừng một mét sáu dựng
đứng trước mặt - Chốc lại cúi gập”. Thế thì tin, một niềm tin về sự tồn tại
hồn người sau khi người ta chết, nghĩa là có tồn tại cõi sống của thế giới “bên
kia”.
Trong chuyển động chung của xã hội, thơ của
chúng ta đã hội nhập với thơ của thế giới, mở rộng biên độ, phong phú phức tạp
và có những cách tân táo bạo. Các nhà thơ chủ động khẳng định con người cá nhân
cá tính từ nhiều bình diện. Nhờ thế thơ đã trở về với chính nó, lộ diện những
giá trị nhân văn, giá trị thẩm mỹ mới. Tập trung vào một số nhà thơ với những
văn bản tiêu biểu, tôi muốn nhìn kỹ hơn những nét độc đáo, những tìm tòi độc
sáng của thơ ở phương diện đời sống tâm linh, điều mà một thời chúng ta ít chú
ý đến nhưng vẫn trường tồn trong đời sống tinh thần chúng ta. Nếu như không có
điều đó chắc chắn tinh thần chúng ta, văn học nghệ thuật của chúng ta sẽ nghèo
nàn, mất mát đi nhiều màu sắc. Trên con đường chênh vênh giữa thực và ảo, tĩnh
tâm và mê hoặc, cảm thức tôn giáo và tâm thức tâm linh, thơ thực sự đã có được
vẻ đẹp riêng và sức sống, sức hấp dẫn đặc biệt. Tất nhiên một nền thơ đa dạng,
đa trị cần mở ra nhiều hướng đi, hướng tỏa. Tâm linh tôn giáo chỉ là một nhưng
vô cùng ý nghĩa: có khả năng lưu giữ tâm hồn dân tộc, có sức lôi cuốn, tái sinh
tái tạo thơ, mang lại cho thơ những cảm xúc thiêng liêng huyền bí. Einstein từng
nói: cảm xúc trước sự huyền bí là cảm xúc sâu xa nhất của con người./.
M.G.L
(Nguồn: Tạp chí Thơ, số 12/2015)
TIỂU SỬ GIÁO SƯ, TIẾN SĨ, NHÀ GIÁO NHÂN DÂN LÊ VĂN LÂN
Bút danh: Mã Giang Lân. Sinh năm 1941, tại Thanh
Hóa. Tốt nghiệp đại học ngành Văn học tại Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội năm
1965. Nhận bằng Tiến sĩ chuyên ngành Văn học tại Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội
năm 1985. Hiện ông là chủ nhiệm bộ môn Văn học Việt Nam hiện đại trường đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn Hà Nội. Được công nhận chức danh
Giáo sư năm 2002. Được tặng danh hiệu Nhà giáo Ưu tú năm 2002. Được tặng danh
hiệu Nhà giáo Nhân dân năm 2010. Các hướng nghiên cứu chính: Văn học Việt Nam
thế kỷ XX, thể loại văn học tập trung vào thơ.
Tác phẩm đã
xuất bản:
- Bình minh và tiếng súng (thơ, 1975)
- Hoa và dòng sông (thơ, in chung 1979)
- Một tình yêu như thế (thơ, 1990)
- Tuyển tập Tế Hanh (tuyển chọn giới thiệu,
1987)
- Thơ Thâm Tâm (sưu tầm, giới thiệu 1988)
- Văn học Việt nam (1945-1954) (chuyên khảo,
1990)
- Thơ - Những cuộc đời (tiểu luận, 1992)
- Sức bền của thơ (phê bình, tiểu luận, 1993)
- Thơ Việt Nam 1945-1954 (chuyên luận, 1995)
- Tìm hiểu thơ (chuyên luận, 1996)
- Những lớp sóng ngôn (thơ, 2013) đoạt Giải
thưởng văn học của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2013.
Các công
trình và giải thưởng khoa học tiêu biểu:
- Văn học Việt Nam 1945 – 1954 (viết chung).
Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1990. Nxb Giáo dục tái bản 1998.
- Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam. Nxb Giáo
dục, 2000, 2001, 2004.
- Thơ - Hình thành và tiếp nhận. Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2004.
- Văn học hiện đại Việt Nam - Vấn đề - Tác
giả, Nxb Giáo dục, 2005.
- Những cấu trúc của thơ, NXB ĐHQGHN, 2011.
(Nguồn tiểu sử tác giả: www.ussh.vnu.edu.vn và
www.thivien.net)
Tác phẩm của Nhiếp ảnh gia Noell S. Oszvald (Hungary)