“Making a Nest” – The 29th poem of “hidden face flower” - "Làm tổ" – Bài thơ thứ 29 trong “hoa giấu mặt” - (explication - chú giải) - Ramesh Chandra Mukhopadhyaya
“Making a Nest” – The 29th poem
of “hidden face flower”
Thủ bút của Ts.
Ramesh Chandra Mukhopadhyaya
By Ramesh
Chandra Mukhopadhyaya
(From Calcutta, India)
A Flock of sparrows nest on the roof
I walk on tiptoes
Below the landlord’s descendants
(Making a Nest – Mai Văn Phấn. Translated
from Vietnamese by Pornpen
Hantrakool)
Explication:
The poem opens with a flock of sparrows nesting on a roof. They are house
sparrows. A sparrow is a small bird no bigger than a tennis ball. The
sparrows are small birds and they are social birds. Wherever they go they go in
flocks, each flock consisting of eight or ten birds. No wonder that the poet
catches sight of a flock of sparrows and we can infer that they are chirping
and chattering to communicate among them. And the poet does not disturb them or
intimidate them. Because the poet says that he walks on tiptoes lest the birds are scared.
The poet walks on tiptoes below the land lords descendants. The phrase land
lords descendants is significant. Who are the landlords? Surely it is not man
who is the landlord in whose built space the sparrows have built their nests.
In fact private property is a myth. There cannot be any private property. The
earth and its resources is the common inheritance of all. How come man
appropriates the earth and its resources in his self interest depriving the birds and beasts and
snakes who have equal rights with man to earth and its resources? Was there any
social contract between man and the rest of Nature including trees plants birds
and beasts etcetera by which the right to earth was given up in favour of man?
Nope. When the poet describes the birds as the true landlords of the place
where they assemble he announces without any hesitation that property is theft.
Unlike us the common run of men the poet tiptoes below the descendants of the
lamdlords viz the birdlings in the nest lest they are disturbed. The message is
clear. The ownership of the earth and its resources should be free for all.
Nature should be restored to its right ful authority over earth. We should live
in Nature with love and due regards for Nature. We should live here bent down
with reverence as one lives in a temple or a monastery. On the contrary man has
usurped land from Nature and claims that he owns the land. The first man who occupied a plot of
land and announced that it was his own started private property and
inaugurated the civil society. When some men owned the land and the rest of the
men were turned landless capitalism was born. Where should the landless work to
get their daily bread? They must work in the land of the landlords and
thus exploitation of the landless began.Just as we should let the birds
and beasts of Nature live as they want so should we be respectful to the poor
and the have nots. The sparrows are fond of human habitation. They build their nests
in the eaves and crevices of the houses built by men. They have been
living with us with men for at least last ten thousand years. But it is a
pity that there has been a dramatic decrease in the population of
sparrows in last twenty four years. The poets respectful treatment of the
sparrows compels us to think seriously over the issue. Now a days we
build houses in such a fashion that sparrows cannot nest there. But birds nests
are good omens. Shakespeare in Macbeth observes that a bird has made in a
castle its pendent bed and procreant cradle where they must breed and haunt.
With Shakespeare this is a good omen. The air he observes is delicate. Sparrows
are associated with Aphrodite. They stand for love and good fortune. But to
repeat the sparrows and the birds cannot build their nests in modern houses.
Pesticides used in agriculture have deprived them of their main food the seeds
and the pests. Mobile phones are also to blame for the decrease in the population
of the sparrows. In short we do not have any respect for these tiny creatures
of Nature although the Bible says that Gods eye is on the sparrows as well. The
poets reverent treatment of sparrows only remind us how irreverent we are to these
little things of Nature. The poet as we have observed walks softly lest the
sparrows are disturbed. The sparrows are in a flock. So the poem in its
suggestion indicates that the birds are plunged in communal chirping and the
space is loud with their chirrups and the poet is all ears to that. We imagine
that their chirpings will have no end in the enchanted house where the poet
visits. It is absolutely legitimate to infer about the poet from the poem. We
guess he is the type of the wise who loves all things both great and small.
Bản dịch của Phạm Văn Bình
Translated by Pham Van Binh
Tranh
cổ Ấn Độ
"Làm tổ" – Bài thơ thứ 29 trong “hoa giấu mặt”
Ramesh
Chandra Mukhopadhyaya
(Từ
Calcutta, Ấn Độ)
Lũ sẻ nâu trên mái
Tôi rón rén
Dưới các cô cậu chủ
(Làm tổ - Mai Văn Phấn. Pornpen Hantrakool dịch sang Anh ngữ)
Chú giải:
Bài thơ mở
đầu bằng một đàn chim sẻ đậu ở trên mái nhà. Chúng là những con chim sẻ nhà.
Chim sẻ là một loài chim nhỏ không lớn hơn một quả bóng bàn. Chim sẻ tuy nhỏ
nhưng là loài chim sống theo bầy đàn. Chúng tới nơi nào đều kéo đàn kéo lũ mà
tới, mỗi đàn có từ tám đến mười con. Không nghi ngờ gì nữa, nhà thơ bắt gặp một
đàn chim sẻ và chúng ta có thể suy đoán rằng chúng đang hót líu lo và kêu ríu
rít để giao tiếp cùng nhau. Còn nhà thơ thì không quấy rầy hoặc dọa dẫm chúng.
Bởi vì nhà thơ nói rằng mình đang đi rón rén để tránh làm cho lũ chim sợ hãi.
Nhà thơ đi rón rén dưới những hậu duệ của những người chủ đất. Cụm từ những cô cậu chủ thật ý nghĩa. Những
người chủ đất ở đây là thần thánh phương nào vậy? Rõ ràng đó không phải là người
chủ đất mà ở trong một không gian được xây kín của người đó những con chim sẻ
đã xây nên những chiếc tổ của mình. Thực ra tài sản cá nhân chỉ là một câu chuyện
hoang đường. Không thể có bất kì tài sản cá nhân nào cả. Trái đất và các nguồn
tài nguyên của nó là tài sản kế thừa của chung tất cả mọi loài. Bằng cách nào
mà con người lại chiếm đoạt Trái đất và tài nguyên của nó cho lợi ích riêng tư
của mình, tước đoạt đi cái quyền lợi ngang hàng với loài người của những loài
chim, loài thú và những loài bò sát đối với Trái đất và những tài nguyên của nó?
Liệu có bất kì sự đối lập nào về mặt xã hội giữa loài người và những giống loài
còn lại của Thiên nhiên bao gồm cả cỏ cây chim thú v.v… mà nhờ đó quyền hạn đối
với Trái đất được trao cho loài người hay không? Không hề có. Khi nhà thơ miêu
tả đàn chim như là những người chủ đất chân chính ở nơi mà chúng quần tụ lại,
nhà thơ tuyên bố mà không chút ngần ngại nào rằng tài sản đó là của trộm cắp.
Không giống chúng ta, những phàm phu tục tử, nhà thơ rón rén đi phía dưới những
hậu duệ của những người chủ đất, có nghĩa có những con chim đang ở trong tổ, vì
nhà thơ sợ rằng chúng sẽ bị quấy rầy. Thông điệp đã rõ ràng. Sự sở hữu Trái đất
và các nguồn tài nguyên của nó phải là dành cho tất cả mọi loài. Thiên nhiên
phải được khôi phục quyền lực đầy đủ và chính đáng của nó ở mọi nơi trên phiến
thiên địa này. Chúng ta phải sống trong một Thiên nhiên với tình yêu và sự kính
trọng đúng mực đối với Thiên nhiên. Ở đây, chúng ta phải hạ thấp mình xuống
trong sự tôn kính như người sống trong một ngôi đền thờ hay trong một tu viện. Ấy
thế mà, con người đã chiếm đoạt đất đai từ Thiên nhiên và tuyên bố rằng chính
mình là chủ sở hữu của phiến thiên địa này. Người đầu tiên chiếm hữu một mảnh
đất và tuyên bố rằng chính mình bắt đầu thực hiện luật tài sản cá nhân của
riêng mình và mở ra một xã hội dân sự. Khi có một số người sở hữu đất đai và
những người còn lại trở thành những người không có đất đai thì có nghĩa là chủ
nghĩa tư bản đã ra đời. Những người không có đất đai sẽ phải kiếm miếng cơm
hàng ngày ở nơi nào đây? Họ sẽ phải làm việc trên đất đai của những người chủ
đất và thế là sự bóc lột những người không có đất đai sẽ bắt đầu. Khi mà chúng
ta để cho các loài chim chóc và muông thú của Thiên nhiên được sinh sống theo ý
mình thì chúng ta cũng phải tôn trọng những con người nghèo khổ và những kẻ khốn
cùng. Những con chim sẻ yêu thích nơi cư trú của con người. Chúng xây tổ của
mình trên các mái hiên và khe nứt của những ngôi nhà được con người xây dựng
nên. Chúng sống chung với chúng ta, với loài người, ít nhất đã hàng chục ngàn
năm rồi. Nhưng điều đáng buồn là đã có một sự suy giảm tồi tệ về số lượng loài
chim sẻ trong hai mươi bốn năm qua. Việc nhà thơ đối xử trân trọng với những con
chim sẻ buộc chúng ta phải suy nghĩ nghiêm túc về vấn đề này. Hiện nay, chúng
ta đang xây dựng nhà cửa theo một cách thức mà loài chim sẻ không xây được tổ
của mình ở đó. Nhưng những tổ chim mang lại điềm lành. Shakespeare trong vở
kịch Macbeth đã nhận xét rằng một con chim đã xây dựng bên trong một tòa lâu
đài chiếc giường treo và chiếc nôi sinh sản của nó là nơi mà người ta phải lui
tới và chăm sóc nó. Với Shakespeare, đó là một điềm lành. Bầu không khí mà ông cảm
nhận được là sự thanh tịnh. Loài chim sẻ gắn bó với vị nữ thần Aphrodite. Chúng
đại diện cho tình yêu và vận hạnh. Nhưng cần phải nhắc lại rằng loài chim sẻ và
những loài chim khác không xây được tổ trong những ngôi nhà hiện đại. Những
loại thuốc trừ sâu được dùng trong nông nghiệp đã tước đoạt thức ăn chính của
chúng là những hạt cây và những con côn trùng. Những chiếc điện thoại di động
cũng là điều đáng trách vì đã làm suy giảm số lượng loài chim sẻ. Nói tóm lại,
chúng ta không có bất kì sự tôn trọng nào đối với những sinh linh nhỏ bé này của
Thiên nhiên, mặc dù Kinh thánh nói rằng con mắt của các vị thần cũng ở trên cơ
thể loài chim sẻ. Cách đối xử tôn kính của nhà thơ với loài chim sẻ nhắc ta nhớ
rằng chúng ta đã thiếu tôn kính như thế nào đối với những sinh linh nhỏ bé này
của Thiên nhiên. Nhà thơ cũng như chúng ta đã thấy được những bước chân khẽ
khàng để tránh cho lũ chim sẻ khỏi bị quấy rầy. Những con chim sẻ ở trong cùng
một đàn. Vì vậy, bài thơ trong sự gợi mở của mình đã chỉ ra rằng lũ chim đang
lao vào một cuộc tranh đua hót líu lo trong bầy đàn và không gian đang tràn
ngập những tiếng hót líu lo của chúng, còn nhà thơ thì đang chú tâm lắng nghe
những tiếng chim ríu rít đó. Chúng ta hãy tưởng tượng rằng những tiếng chim ríu
rít đó sẽ không bao giờ chấm dứt trong ngôi nhà bị bỏ bùa mê kia nơi mà nhà thơ
đã tới thăm. Thật vô cùng hợp lí khi suy đoán về nhà thơ qua bài thơ này. Chúng
ta tin rằng nhà thơ là một người thông tuệ, yêu thương hết thảy mọi giống loài dù
cao cả hay là nhỏ bé.
Nghệ thuật truyền thống vùng tây bắc Ấn Độ