Khái lược về “Thuyết Proton” của Gjekë Marinaj
Nhà thơ tiến sỹ triết học Gjekë Marinaj
Mai Văn Phấn
Sáng tạo và tiếp nhận văn
học vốn là hai mặt của sự tồn tại tác phẩm văn chương, là vấn đề then chốt của
nghiên cứu văn học. Từ cuối thập kỷ 60 của thế kỷ XX, thuyết Mỹ học Tiếp nhận (Reception Aesthetic) đã khởi sinh từ
Đức, do hai giáo sư Hans Robert Jauss và Wolfgang Iser khởi xướng, sau đó lan
truyền khắp châu Âu và các châu lục khác. Đây là trường phái lý luận văn học,
chủ trương cách tân đối tượng và phương pháp nghiên cứu văn học, không xem tác
phẩm là đối tượng nghiên cứu thuần túy, mà mở rộng phạm vi nghiên cứu sang lĩnh
vực tiếp nhận, khám phá mối tương quan giữa sáng tác và tiếp nhận. Từ đó đến
nay có một số học thuyết khác đề xuất cho việc nghiên cứu, thực hành phê bình
văn học, chuyển hướng từ văn bản trung tâm luận sang độc giả trung tâm luận.
Trong bài viết nhỏ này, tôi chủ trương khái lược “Thuyết Proton” (“Protonism
Theory”) của nhà thơ – tiến sỹ triết học Gjekë Marinaj, nhằm nêu
bật những nội dung chính của lý thuyết, những nguyên tắc thực hành phê bình văn học, đồng thời đối chiếu với một số giai đoạn văn học Việt Nam.
Nhìn lại những biến động
lịch sử qua từng thời kỳ cho thấy, đời sống văn học nhiều nước, trong đó có
Việt Nam từng diễn ra phức tạp, rất khác biệt. Dưới chế độ phong kiến ở các
nước phương Đông trước đây từng tồn tại dòng văn học chủ yếu bảo vệ quyền lợi
của giai cấp thống trị. Tư tưởng Nho giáo khi ấy chủ trương giáo hóa mọi tầng
lớp xã hội từ bậc quân vương đến kẻ thứ dân, và, giữ vai trò độc tôn trong quan
niệm thẩm mỹ. Đây chính là ngọn cờ chính trị mượn màu sắc tôn giáo đã được giai
cấp thống trị vận dụng triệt để để lý giải các sự kiện chính trị, xã hội và văn
hóa, cũng như lợi dụng nó trong những cuộc tranh giành quyền lực giữa các thế
lực phong kiến.
Đầu thế kỷ XX đã nổ ra
cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Từ đó kéo dài suốt gần một thế kỷ, thế
giới bị phân chia thành hai cực, hai phe, Xã hội chủ nghĩa và Tư bản chủ nghĩa.
Trong bối cảnh đó tại các nước Xã hội chủ nghĩa, văn học nghệ thuật được gắn
kết một mục đích và nhiệm vụ tối thượng là phục vụ “Công-Nông-Binh”, phục vụ
chính trị. Ở những quốc gia này, không chỉ văn học mà nghệ thuật nói chung đều
chuyển động phiến diện, cực đoan. Ở Việt Nam trước những năm đổi mới luôn tồn
tại khẩu hiệu “Nhà văn là chiến sỹ trên
mặt trận văn hóa tư tưởng”. Sau khi Liên bang Xô-Viết tan rã, kéo theo sự
sụp đổ của hệ thống chính trị ở các nước Đông Âu, thì mục đích của văn học lại
chuyển từ thái cực ca ngợi, tô hồng sang bôi đen, phủ định. Với thái độ tiếp
cận văn học như vậy, dĩ nhiên, đã làm sai lệch bản chất của văn học nghệ thuật,
biến phê bình văn học thành một công cụ chính trị, với thái độ chủ quan và cảm
tính.
Vào năm
2005, TS. Gjekë Marinaj đã đề xướng “Thuyết Proton” trong bối cảnh hỗn loạn các giá trị thẩm mỹ tại
đất nước An-ba-ni quê hương ông, cũng như các nước trên bán
đảo Ban-căng khi ấy. Lý thuyết này nhằm đáp trả cơn lũ của
chủ nghĩa phê bình cực đoan tại các nước Đông Âu sau sự sụp đổ của
khối Xã hội chủ nghĩa. Ý tưởng khởi phát của lý thuyết này được Gjekë
Marinaj lấy từ khái niệm về một đơn vị cấu thành nguyên tử. Chúng ta đều
biết, proton là loại hạt tổ hợp, một trong hai thành phần chính cấu tạo nên hạt
nhân nguyên tử – đơn vị cơ bản của vật chất. Gjekë Marinaj muốn coi
việc thực hành phê bình văn học là một trong những thành tố cơ bản
trong việc đánh giá và khẳng định một tác phẩm văn học.
“Thuyết Proton” được Gjekë Marinaj viết bằng tiếng
An-ba-ni và trình bày tóm tắt bằng tiếng Anh. Qua trao đổi với tác giả được
biết, “Thuyết Proton”, hiểu đơn
giản nhất có nghĩa là tác giả cũng như đối tượng tiếp nhận văn
bản văn học luôn cần có thái độ tích cực, xuất phát từ nhu
cầu nghệ thuật thuần túy, không đánh đồng tác phẩm với bất
kỳ ý thức hệ chính trị nào. Đặc biệt, người tiếp nhận văn bản văn
học không nên dừng lại ở những khiếm khuyết, mà tập
trung vào việc phân tích, làm nổi bật các mặt tích cực và vẻ đẹp của tác
phẩm đó. Điều đó được coi như một phần thiết yếu của đạo đức tiếp
nhận văn bản. Tâm điểm của lý thuyết là, khi nhà phê bình đối
diện với một văn bản văn học, đầu tiên anh ta nên kiếm tìm “chìa
khóa” để bước vào không gian thẩm mỹ của tác giả, tìm
đến giá trị của trí tuệ và đạo đức trong tác phẩm ấy. Nếu nhà phê
bình nhận thấy tác phẩm ấy ít giá trị nghệ thuật, thì
nên gạt nó sang một bên, tạm để nó trong bóng tối, thay vì đưa
ra những luận điệu chỉ trích, phủ định. Lối vào một tác phẩm văn học cũng
giống như con đường dẫn tới một khu vườn, có thể đầy gai góc, hoặc có thể bị
rào kín, nhưng người muốn vào khu vườn ấy không vì thế mà vội vàng đưa ra kết
luận rằng nó đẹp xấu, hay dở thế nào khi chưa biết hết những gì có trong đó.
“Thuyết Proton” của Gjekë Marinaj có thể tóm tắt
trong năm nguyên tắc trung tâm như sau: sự bù đắp, tính
chất Proton, đạo đức, thẩm tra, và sự thật.
1.Sự bù đắp: Nhà phê
bình văn học được coi như một cố vấn đắc lực cho độc giả. Vì vậy anh ta phải bù
đắp cho những tác động tiêu cực trong quá khứ của phê bình văn học và tìm cách
đền bù cho độc giả những tổn thất trước đó, hoặc những thiệt hại mà họ có thể
đã phải chịu trong quá khứ bằng việc hướng họ đến những khía cạnh tốt đẹp của
cuốn sách chứ không phải những phần vô giá trị có thể hiện diện trong đó.
2. Tính chất Proton: Nhà
phê bình văn học nên hiểu và hành động bằng thứ ngôn ngữ hết sức tích cực, và
hiểu rõ tính biểu tượng trong văn chương là một thành tố của hành vi giao tiếp
khi người đó viết một bài phê bình văn học về một cuốn sách cụ thể. Anh ta phải
am hiểu các ngành ngữ dụng học, ngữ nghĩa học và cú pháp học.
3. Đạo đức: Nhà phê bình
văn học cần có một hệ thống nguyên tắc đạo đức và phải tuân theo những quy tắc
ứng xử được công nhận đối với một loại cụ thể trong hành động của con người,
hoặc một nhóm, một nền văn hóa cụ thể v.v. Hành động theo cách tích cực khi
viết về một cuốn sách.
4. Thẩm tra: Nhà phê
bình văn học phải luôn theo đuổi sự thật tuyệt đối, nhưng cũng cần tìm kiếm
thông tin và kiến thức về cách lựa chọn và trình bày nó cho người đọc.
5. Sự thật: Nhiệm vụ cơ
bản nhất của nhà phê bình văn học là nói ra sự thật về những giá trị văn chương
mà anh ta thấy trong cuốn sách, không bóp méo cái hay và bới tìm những yếu tố
tiêu cực có thể dẫn người đọc trệch hướng khỏi những giá trị đích thực của cuốn
sách. Anh ta phải am hiểu nhiều loại sự thật, chẳng hạn như trạng thái thực của
một vật chất, sự phù hợp với sự thật hay thực tế, và những định lý toán học. Và
anh ta nên hành động theo ý tưởng rằng, sự thật thường mang tính chủ quan và
một người chỉ coi đó là sự thật khi đó là những điều họ tin là sự thật.
Năm nguyên tắc nêu
trên có thể coi như những phương châm cần thiết cho một nhà phê bình chuyên
nghiệp và đạo đức, giúp anh ta vượt qua những định kiến chính trị, và cả những
cảm quan đang thống trị anh ta.
Đối chiếu với bối cảnh
văn học Việt Nam đương đại, ta thấy một số điểm trong nội dung cơ bản của lý
thuyết thực hành phê bình văn học Proton của Gjekë Marinaj cũng đã manh nha
xuất hiện từ những năm đầu thế kỷ XX và đã nằm trong nội hàm của một cuộc tranh
luận văn học tại Việt Nam, nhưng rất tiếc ngay sau đó nó đã mau chóng chìm
khuất. Đó là cuộc tranh luận nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân
sinh, sôi nổi nhất, có tầm ảnh hưởng rộng lớn nhất diễn ra chủ yếu từ năm 1935
đến 1939, và có thể nói, dư âm của nó vẫn còn vang vọng tới tận bây giờ.
Sáng
tạo luôn là công việc đặc thù của nghệ sỹ để làm ra cái mới, cái khác, làm
phong nhiêu đời sống tinh thần dân tộc, cộng đồng. Trọng tâm của “Thuyết Proton” không chỉ cụ thể hóa các thao tác thực hành khi phê
bình văn học, mà tác giả còn nỗ lực tạo ra một đời sống thực tế sinh động cho
nền tảng lý thuyết mới mẻ này. Báo Dallas Morning News (Hoa Kỳ) đã đánh giá
rằng “Thuyết Proton” của Gjekë Marinaj đã tìm hướng “thúc đẩy tính tích cực và tư duy hòa bình” thông qua phê bình văn học.
Thực tế phê bình văn học
Việt Nam gần cho thấy, phần lớn các nhà phê bình đều dựa vào những lý thuyết đã
có sẵn, chủ yếu của phương Tây để đánh giá, thẩm định tác phẩm. Nhà phê bình
văn học Đỗ Lai Thúy coi đó là cách nhìn “từ
trên xuống”. Trong phần “Đôi
lời thưa trước” của cuốn sách “Phê
bình văn học, con vật lưỡng thê ấy[6]”, Đỗ Lai Thúy cũng đưa ra một lý thuyết phê bình văn
học “từ dưới lên”, tức là “kết hợp với kinh nghiệm sống và kinh nghiệm
thẩm mỹ nhằm kiến tạo những mô hình nghiên cứu”. Hướng nghiên cứu của Đỗ
Lai Thúy khá tương đồng với “Thuyết
Proton” của Gjekë Marinaj, nhưng tiếc rằng xu hướng phê bình này hiện nay chưa
thành phổ biến. “Thuyết Proton”
khuyến nghị việc thực hành phê bình văn học theo hướng kiếm tìm những gì thuộc
về giá trị thẩm mỹ, trí tuệ và đạo đức trong tác phẩm, theo nghĩa riêng của nó
mà không lệ thuộc những lý thuyết phê bình đã định hình từ trước. Hy vọng “Thuyết Proton” do Gjekë Marinaj đề xuất
sớm được các phê bình văn học của chúng ta vận dụng, tạo ra nhiều hướng mở cho
việc tiếp cận tác phẩm văn học.
17/11/2018
Tác giả Đỗ Lai Thúy; Nxb Hội Nhà văn, 2010.
Tập thơ "Những nguyên âm trong sương sớm" do Gjekë Marinaj dịch sang tiếng An-ba-ni