image advertisement

image advertisement
image advertisement





























 

Lửa trong đá (truyện ngắn) – Mai Văn Phấn

Lửa trong đá

(Truyện ngắn)

 

 

"Phụ nữ Dao đỏ" – Chưa biết tên tác giả

 

 

Mai Văn Phấn

 

“Dây dài chém không bao giờ đứt”

(“Dòng nước” – Câu đố của người Dao)

 

Cuối tháng Hai, Lũng Tài vẫn lạnh. Cái lạnh len khe đá, xuyên qua vách nứa, ngấm vào tận xương cốt. Trên các mỏm đá tai mèo, tuyết chưa tan hết. Bản Nậm Lù nép mình giữa lưng chừng núi, nhà nào cũng quay về hướng nắng sớm, gió lành. Người Dao đỏ đã sống ở đây từ lâu đời. Tương truyền tổ tiên của mười hai họ Dao từng vượt biển tìm đất sống, dập dềnh giữa sóng dữ, không ngớt cầu khấn Bàn Vương – vị thủy tổ được tôn kính nhất trong tín ngưỡng của người Dao – phù hộ độ mạng. Nhờ ơn trời đất và thần linh, họ mới sống sót để lên rừng, lập bản. Nậm Lù là nơi người Dao đỏ tụ về đông nhất, bên sườn đông dãy Lũng Tài. Những bản quanh vùng đan xen các ngành Dao: Dao Tiền, Quần Chẹt, Lô Gang, Quần Trắng, Thanh Y, Làn Tẻn… Mỗi ngành một tiếng nói, trang phục, phong tục riêng, nhưng cùng thờ Bàn Vương, cùng giữ lửa tổ tiên trong đá núi.

Sân nhà sinh hoạt cộng đồng bản Nậm Lù hôm nay như có hội. Trẻ nhỏ ngồi quanh chiếc bàn tre, đứa cầm nhành cây làm ống nghe tim phổi, mấy đứa nhét bông vào tai nhau, chơi trò làm thầy thuốc. Người lớn xếp hàng chờ khám sức khỏe. Một phụ nữ trẻ bế con nhỏ hỏi cách xông lá cúc tần, lá chanh và lá sả chữa nhức đầu, cảm sốt. Một cụ ông chìa cánh tay đầy vết côn trùng cắn, rụt rè hỏi nên đắp gì cho đỡ ngứa. Anh Trung – y sĩ người Kinh – giảng giải cách phòng bệnh theo mùa, chỉ vào tranh vẽ minh họa dán trên tấm liếp. Giọng anh chậm rãi, từ tốn, dùng những lời giản dị để bà con dễ nhớ. Mẩy ngồi mép bàn, ghi chép tên người, bệnh trạng, bài thuốc tương ứng. Bên cạnh cô là chiếc gùi mây miệng tròn, thân đáy vuông, trong đó xếp gọn các bó lá xạ đen, kim ngân, an xoa, cà gai leo, đinh lăng, cỏ nhọ nồi, rau má, cúc tần, vòi voi, xấu hổ, vông nem, ba chạc, bạch đồng nữ, hoàng bá, ké đầu ngựa, cỏ roi ngựa… Mỗi bó buộc bằng lạt giang, kèm mảnh giấy ghi nhãn.

Một bé gái khoảng sáu tuổi níu áo Mẩy, hỏi: “Cô ơi, lá này sao đắng vậy?” Mẩy cười, xoa đầu nó: “Đắng mới khỏi bệnh.” Một cụ già đi ngang qua, nhìn Mẩy gật đầu. Có người vào hỏi cách sao thuốc, cô nhẹ nhàng trả lời từng người. Anh Trung vẫn mải phát tài liệu. Nhưng mỗi lần bà con chen vào, ánh mắt họ lại hướng về phía Mẩy – người phụ nữ từng sống lặng lẽ bên rìa bản, bị đồn mang “vía độc”, nay lại là chỗ dựa để dân bản tìm đến.

Giữa tiếng cười nói rộn ràng, ánh mắt Mẩy bỗng chùng xuống khi thoáng thấy làn khói lam bên triền thông già, nơi có căn nhà mái tranh giống căn nhà xưa của cô. Mùi khói lẫn trong gió, ngai ngái hương lá khô, củi ẩm, bỗng gợi về một hương quen cũ. Mùi ký ức. Cô như nghe tiếng mẹ vọng lên từ sâu thẳm lòng mình: “Con đừng sợ con ạ! Thấy ai đau thì cứu!”

Mưa rền rĩ suốt đêm. Bếp nhà Mẩy vẫn hồng lửa, nhưng hơi nóng không đủ sưởi ấm. Cô ngồi bên giỏ lá khô, chầm chậm chọn từng bó thuốc theo cách mẹ dặn. Mẩy sống một mình đã lâu. Những đêm mưa gió, nhà chỉ còn tiếng củi nổ lách tách và mùi lá thuốc phảng phất. Đêm đó có tiếng gõ cửa. Cô gạt đống lá đang phân loại, đứng dậy mở then. Gió lùa tạt nước mưa vào mặt. Ngoài hiên, vợ chồng anh Sình chị Lai ướt sũng từ đầu đến chân. Anh chồng ôm chặt đứa bé quấn chăn dày, chị vợ run rẩy bên cạnh, mắt thâm quầng. Đứa bé tái nhợt, môi khô nứt, mắt nhắm nghiền. Anh Sình nhìn Mẩy, nói như van xin: “Chúng tôi không biết đưa nó đi đâu nữa.” Mẩy nhẹ nhàng đỡ đứa trẻ, đặt lên giường tre gần bếp. Cô nhóm thêm lửa, lấy lá thuốc sắc nước, bón từng thìa nhỏ cho nó. Rồi cô hơ nóng nắm lá, chườm khắp người đứa bé, chậm rãi theo từng chỉ dẫn của mẹ. Chị Lai ngồi im lặng, hai bàn tay đan chặt vào nhau, mắt không rời con. Anh Sình tựa lưng vào vách, trân trân nhìn ánh lửa. Nhà chỉ còn tiếng củi cháy, nước thuốc sôi lăn tăn. Ngoài trời, mưa vẫn nặng hạt. Mẩy ngồi bên đứa trẻ suốt đêm, thi thoảng đặt tay lên trán nó. Khi trời hửng sáng, đứa bé hạ sốt, lim dim ngủ trong vòng tay mẹ. Anh Sình đứng dậy, cúi đầu lí nhí cảm ơn, rồi bế con về. Lửa bếp vẫn cháy. Lần đầu sau bao năm, Mẩy thấy lòng mình ấm áp lạ thường.

Mẩy cho thêm mấy thanh củi vào bếp. Lửa bùng lên, khói xộc thẳng vào mặt, cay nồng. Tự nhiên cô nhớ lại mười năm trước, khi còn là đứa bé nép sau cánh cửa nứa, mắt dõi xuống sân nhà. Trời chiều hôm ấy xám xịt, gió hun hút. Cả bản kéo đến, đứng chật lối đi, mọi ánh mắt đều hướng về phía ông trưởng bản Triệu Tài Khé. Ông mặc áo chàm, nách gài những chiếc khuy bạc nhỏ, tay cầm gậy gỗ. Giọng ông khàn khàn, dằn từng tiếng như đinh đóng vào thân gỗ: “Từ nay, bản ta không ai được nhờ bà Lưu chữa bệnh nữa.” Cả sân im phăng phắc. Có tiếng trẻ con khóc váng lên đâu đó, rồi tiếng rì rầm không rõ lời như gió miết qua rặng lá. Một cụ già thở dài, lắc đầu rồi chống gậy lặng lẽ ra về. Vài phụ nữ trẻ thì thầm to nhỏ, ánh mắt đảo quanh, vừa hoang mang vừa e dè. Cái lạnh hôm ấy như rắn độc quấn chặt lấy tay chân Mẩy. Cô kéo vạt áo lên che miệng, cố nín không khóc. Một đứa bé trạc tuổi quay sang bảo: “Mẹ mày bị cấm làm thuốc rồi.” Mẩy im lặng, siết chặt chiếc túi nhỏ mẹ dúi vào tay trước đó.

Đêm ấy, Mẩy hỏi mẹ vì sao trưởng bản nói vậy. Bà Lưu chỉ im lặng ôm chặt con hồi lâu. Hôm sau, Mẩy biết có sản phụ bị băng huyết, mẹ đã hết lòng cứu chữa nhưng bà ấy không qua khỏi. Người ta đồn mẹ bốc nhầm thuốc, kẻ bảo mẹ chạm vía dữ, giờ độc. Rồi họ đồn rằng oan hồn người chết vẫn lởn vởn trên mái nhà Mẩy. Mẩy đến trường, không đứa nào muốn ngồi cùng bàn, trẻ con trong bản cũng tránh mặt. Từ ấy, bà Lưu không bốc thuốc cho ai nữa. Bà hầu như chỉ ở trong nhà, lặng lẽ viết lại từng bài thuốc vào một cuốn sổ. Cửa nhà luôn đóng. Đêm xuống, chỉ nghe tiếng bà thở dài lẫn trong tiếng mưa rơi trên mái. Rồi một sáng, bà không dậy nữa. Không đau ốm gì nặng, cũng không một lời trăn trối. Bà đi như giấc ngủ trôi qua lúc gà gáy sáng.

Mẩy sống một mình từ dạo ấy. Không ra khỏi bản, sáng lên nương, chiều gùi củi về nhóm bếp, tối ăn cơm với con chó nằm canh ngoài hiên. Nó chính là con chó mẹ để lại, ngày xưa nhỏ xíu, giờ lưng đã bạc, nghe gió rít lại ngẩng đầu sủa rồi nằm im. Giỏ thuốc và cuốn sổ mẹ để lại là hơi ấm còn sót lại trong căn nhà lạnh lẽo. Không ai bước vào nhà Mẩy. Người ta bảo vía bà Lưu còn quanh quẩn, nhẹ như khói mà đè nặng, khiến ai cũng sợ. Sự lặng lẽ kéo dài suốt bao năm, cho đến đêm vợ chồng anh Sình bế đứa nhỏ đến gõ cửa, khiến mọi thứ trong căn nhà Mẩy thay đổi.

Mấy ngày nay mưa không dứt, như ai đó giũ mãi những đám mây ướt sũng trên đỉnh Lũng Tài. Trạm y tế đã cạn thuốc, đường xuống huyện sạt lở, xe không đi nổi. Trong căn nhà cuối bản, Mẩy vẫn cặm cụi sao tẩm thuốc. Cô lật từng bó lá khô, chọn kỹ rồi bọc vào từng gói nhỏ. Tay làm, mắt dõi theo ngọn lửa nhỏ. Có lúc, cô dừng lại, ngón tay đặt lên dòng chữ run run trong cuốn sổ cũ, như nghe thấy tiếng mẹ thầm thì.

Gà đã gáy ba lần mà ngoài sân vẫn tối. Mẩy đang nhóm lại bếp thì con chó già bỗng chồm dậy sủa. Cô bước ra mở cửa. Trước thềm, một người đàn bà quỳ gối, ôm chặt đứa bé quấn trong chiếc áo dày. Mặt chị ta tái nhợt, mắt đỏ hoe, môi run run: “Xin cô... cứu lấy nó!” Mẩy vội bế đứa bé vào nhà, chườm nóng cơ thể, rồi sắc gấp nắm lá thuốc. Đứa bé thở gấp, mặt hốc hác, chân tay lạnh ngắt. Trong ánh lửa bập bùng, Mẩy nhận ra người đàn bà ấy là Man – cháu ruột ông Khé, nhưng cô không do dự. Tay cô ấn nhẹ vào huyệt dưới rốn, bấm dọc sống lưng, rồi bón từng thìa thuốc vào miệng đứa bé. Chị Man ngồi co ro bên bếp, hai tay ôm lấy vai, người run lên từng chặp. Mẩy không rời mắt khỏi đứa trẻ, ngồi đó cho tới khi nó rên khe khẽ, hé mắt nhìn mẹ. Chị Man òa khóc. Nước mắt Mẩy cũng trào ra. Mười năm rồi, cô lại thấy nước mắt người khác rơi vì một sự sống được giữ lại bằng chính đôi tay mình.

Ngay sáng hôm đó, trong bản đã có tiếng rì rầm: “Mẩy lại dám chữa bệnh rồi.” Đến trưa, ông trưởng bản đẩy cửa bước vào nhà Mẩy, mặt lạnh như đá, giọng giận dữ: “Ai cho cô động đến người nhà tôi?” Mẩy đứng lên, tay vẫn còn cầm nắm lá thuốc, nhìn thẳng vào mắt ông: “Cháu đã cứu nó. Ông hãy nhìn đi!” Ông Khé sững lại, ánh mắt lướt nhanh về phía gian bếp nơi đứa bé đang ngủ say. Chị Man chạy theo, nắm lấy tay ông Khé, nghẹn ngào: “Cậu ơi, Mẩy đã cứu thằng bé!” Ông đứng lặng hồi lâu, rồi thở mạnh, thả tay cháu gái, lặng lẽ bước ra khỏi căn nhà.

Từ đó, bà con bắt đầu tìm đến nhà Mẩy. Ban đầu vài người tới, ngập ngừng hỏi: “Con tôi sốt hai ngày, ăn vào lại nôn, giờ phải uống thuốc gì?” Rồi có cụ già được con cháu dìu tới, tay chân run rẩy, khớp xương sưng tấy. Mẩy không từ chối ai. Ai đến, cô cũng giúp, lấy những nắm lá thuốc đã phơi khô, dặn sắc lấy nước uống, hoặc đắp đúng cách như mẹ từng làm. Lửa bếp nhà cô luôn ấm. Mẩy làm mọi việc lặng lẽ, cẩn thận. Người đến ngày một đông hơn. Mẩy không mong ai trả ơn, nhưng có sáng mở cửa thấy gùi măng tươi, con gà mái buộc chân, túi gạo nếp, dăm quả bưởi đặt trước hiên. Không lời nhắn, chỉ lặng lẽ như cách người Dao dành cho nhau sự tin cậy.

Người trong bản giờ gọi “cô Mẩy,” không còn gọi “con bà Lưu” như trước. Trẻ con không tránh mặt cô, thậm chí có đứa chạy theo hỏi: “Cái lá đắng hôm nọ tên gì thế cô?” Vài người lớn ghé lại, dè dặt hỏi cách sao tẩm cây ba chạc, lá ké đầu ngựa... Mẩy nhẹ nhàng chỉ dẫn, tay thoăn thoắt gói thuốc vào tấm lá chuối đã phơi mềm. Nắng chiều từ đỉnh núi hắt xuống sân, mái tóc cô buông rũ qua gò má gầy, nụ cười thoáng hiện trên khuôn mặt hiền hậu.

Chiều ấy, Mẩy hong bộ áo chàm viền đỏ trước hiên. Từng đường thêu tay hiện rõ sóng núi, chim én, hoa cỏ – những họa tiết thiêng gắn với người Dao đỏ. Gió đưa nhẹ vạt áo dài, dải thắt lưng ôm gọn quanh eo. Mai là ngày lễ hội Cầu mùa ở nhà sinh hoạt cộng đồng, Mẩy muốn mặc thử bộ đồ đẹp nhất – bộ áo mẹ từng để dành khi cô lớn để bước ra giữa bản làng. Gió đưa mùi thơm từ liếp lá thuốc mới phơi. Cô đứng dậy, đưa tay chỉnh lại chiếc xà tích bên hông thì tiếng xe máy dừng lại ngoài cổng. Anh Trung cùng hai cán bộ xã mang sổ sách, tài liệu. Nhìn thấy Mẩy, anh hồ hởi: “Chúng tôi xây dựng mô hình y tế bản – kết hợp thuốc Tây và lá rừng của đồng bào. Cần người hiểu thuốc, hiểu dân bản. Cô giúp được không?” Mẩy cúi xuống hồi lâu rồi ngẩng lên, giọng chậm rãi: “Em không biết nhiều chữ, chỉ học từ mẹ. Nếu bà con tin, em sẵn sàng.” Anh Trung vui mừng: “Chúng tôi sẽ hỗ trợ, miễn là cô nhiệt tình.” Mẩy khẽ gật đầu. Trong lòng cô, nhiệt huyết hun đúc như ngọn lửa âm ỉ trong đá núi bỗng chốc sáng rực. Đó là ngọn lửa tình yêu thương, sức sống mãnh liệt và bền bỉ của người Dao đỏ, giờ lan tỏa khắp cộng đồng.

Tối ấy, Mẩy ngồi bên bậu cửa, lặng nghe gió từ khe núi thổi về, mang theo hơi ẩm của đất rừng sau cơn mưa chiều. Trăng non vắt ngang đỉnh Lũng Tài, ánh bạc mờ phủ lên những bậc đá rêu xanh. Cô nhớ mẹ da diết, nhớ buổi sáng xa xưa khi còn bé, được mẹ chải tóc, đội cho chiếc mũ tròn làm bằng vải bông nhuộm chàm. Trên nền chàm sẫm là hoa văn nhỏ xinh, hạt ý dĩ trắng, cườm bạc ghép thành hình quả núi. Chóp mũ đính một túi nhỏ đựng hạt thảo quả, tua rua sợi đỏ rung rung. Nhưng đặc biệt nhất là chiếc vòng bạc mẹ đeo cho cô, chạm khắc hình quả trám, mái chèo, chim muông, hoa lá... Mẹ gói nó trong lá thuốc, nói để giữ vía lành. Màu bạc ánh lên dịu dàng, như ánh mắt ngày xưa của mẹ…

Sương chưa tan, nắng sớm tràn từ lưng núi xuống sân nhà cộng đồng. Tiếng trống, kèn Pí Lè vang vọng, lan dọc triền núi, theo con suối nhỏ, len lỏi vào từng nhà. Cả bản Nậm Lù như bừng tỉnh. Người gùi gà, khiêng lợn, người xách gạo nếp, vò rượu – tất cả là của nhà làm ra, góp vào lễ bằng lòng thành. Trưởng bản trong áo chàm chỉnh tề, kính cẩn đặt lễ vật lên bàn thờ giữa sân để cả bản cùng nguyện cầu tổ tiên, thần linh phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, người người mạnh khỏe. Lễ Cầu mùa do thầy Mo, thầy Tào chủ trì. Họ chuẩn bị tranh thờ, giấy sớ, nước thuốc từ mấy ngày trước để tắm gội sạch sẽ. Mọi người tụ tập ở nhà chủ thờ thần linh, dâng hương rước các vị thần về ngự. Thầy Mo nối nhau đọc lời khấn, mời Bản Vương khai đàn, cầu phúc, tạ ơn. Mùi hương lan khắp sân, quện vào gió, như nối người Dao với núi rừng, với trời đất. Sau lễ là phần hội. Tiếng trống, chuông, tiếng kèn rộn ràng. Trẻ con đi cà kheo, ném còn; người lớn thi đẩy gậy, kéo co, bắn nỏ…

Lễ hội kết thúc, bà con vẫn nán lại, quây thành vòng tròn giữa sân. Một buổi phổ biến y tế cộng đồng được tổ chức theo sáng kiến của xã, phối hợp cùng cán bộ y tế bản. Anh Trung đứng cạnh Mẩy, giảng giải cách phòng sốt rét, tiêu chảy, hướng dẫn bà con dùng thuốc đúng liều, không lạm dụng kháng sinh. Mẩy bày ra từng bó lá thuốc đã phơi khô, giới thiệu công dụng, chỉ dẫn tỉ mỉ cách sao tẩm, nấu xông, đắp hay đun uống. Mấy cụ già cũng góp chuyện, nhắc lại cách bắt mạch, hạ sốt, cầm máu từ thuở ông bà truyền lại. Có khi chỉ cần nắm lá rừng, hơ trên bếp than, miệng khấn tổ tiên, là người bệnh qua khỏi. Cả sân rôm rả như một phiên chợ thuốc, tiếng Dao lẫn tiếng Kinh, thơm mùi lá khô và lửa bếp.

Chiều xuống chậm. Gió lướt qua mái nhà cộng đồng, mang theo hương nếp thơm từ gian bếp. Mấy bà khéo léo đồ từng mẻ xôi ngũ sắc, màu nào cũng được nhuộm từ lá rừng: đỏ từ gấc, vàng từ nghệ, xanh từ lá gừng dại. Tiếng nói cười rộn rã, khói thơm quyện với mùi lá thuốc, mùi thảo quả. Có người rót rượu thảo dược ra bát sành, nâng lên bảo: “Rượu cũng có vía đấy, phải uống đúng lúc mới khỏe mạnh”.

Mẩy xếp những bó lá thuốc còn lại vào trong gùi. Nghe trẻ con bi bô bằng tiếng Dao, cô quay lại mỉm cười, ngồi xuống phiến đá cuối sân, tay đặt lên miệng gùi. Gió từ núi thổi tới hất tung tấm khăn trên đầu, cô vội đưa tay giữ lại, lòng nhẹ như mây trôi qua đỉnh Lũng Tài.

 

23/7/2025

M.V.P

 

 

 

 

 

 

image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement




























Thiết kế bởi VNPT | Quản trị