Nguyễn Thị Thúy Hạnh: Hành trình chữ đến thế giới thơ (phê bình) – Mai Văn Phấn
Nguyễn Thị Thúy Hạnh: Hành trình chữ đến thế giới thơ

Nhà
thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Ký họa của Đỗ Hoàng Tường
Mai
Văn Phấn
“nghĩa
âm
chữ
dương
đường
lời sinh tử”
Nguyễn Thị Thúy Hạnh
Thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh
là hành trình kiến tạo chữ. Với chị, ngôn ngữ vừa là phương tiện biểu đạt vừa
là đối tượng sáng tạo, một sinh thể có đời sống riêng: biết hít thở, đau đớn,
yêu thương, tái sinh. Chữ trong thơ chị trở thành trung tâm của mọi thao tác
nghệ thuật và suy tưởng, được hình dung như một thân phận, mở ra cho thơ khả
thể sáng tạo vô tận. Qua “Di chữ” (Nxb. Hội Nhà văn, 2017), “Văn học vết thâm”
(Nxb. Hội Nhà văn & Nhã Nam, 2021) và những sáng tác gần đây, có thể thấy
hành trình chữ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh luôn hướng tới một thế giới khác: vừa
khai mở tầng sâu nội tâm, vừa kiến tạo cõi thơ riêng biệt.
“tôi
chỉ có bàn tay
cầm
ngôn ngữ đau thương
không
bản mặt tuyệt đối
tôi
chỉ có một mình”
(Buồn thứ tự)
Khổ thơ tựa mảnh gương
soi chiếu những bước đi đầu tiên của tác giả trong tập thơ “Di chữ”. Ở đây, ngôn
ngữ không còn là lớp áo khoác, mà thành chính “bàn tay” để kiến tạo thế giới;
nó gợi mở một cảm quan thi ca quyết liệt: làm thơ không nhằm đi tìm sự vĩnh cửu
hay tuyệt đối, mà dấn thân vào hiện hữu mong manh, nhiều khi chỉ còn lại sự cô
đơn. Cũng chính từ đó, ngôn ngữ trở thành sức mạnh duy nhất để kiến tạo, để cất
tiếng, để tiếp tục tồn tại giữa những bất toàn.
Trong lời mở tập thơ “Di
chữ”, Nguyễn Thị Thúy Hạnh đã viết: “Ngôn
từ - một tồn tại cưu mang, cho phép tôi bất chấp mọi nỗi bi ai mà tin rằng,
ngay cả khi ở dưới vực thẳm, chúng ta vẫn có thể nhìn thấy những đám mây bay -
những đám mây thơ; cho phép tôi, khi tỉnh cuộc lẫn tàn canh, tạ ơn loài người
yêu dấu bên mình./ Người làm thơ, có thể bằng thơ ca mà sống một cuộc sống
khác, từ thơ ca để được tái sinh.” Những dòng tự bạch này khẳng định: chữ là
nơi trú ngụ của linh hồn, là sức mạnh để con người hồi sinh, ngay cả trong
tuyệt vọng.
Từ nhan đề tập thơ “Di
chữ”, nhà thơ đã gợi ra sự dịch chuyển, rời bỏ, tái định vị liên tục của chữ,
đồng thời cũng hàm nghĩa lưu giữ, di sản. Trong thơ chị, chữ không bao giờ đứng
yên trong những trường nghĩa quen thuộc, mà luôn chuyển động, va đập, mở ra dư
địa mới. Mỗi chữ vừa mang dấu ấn cá nhân, vừa chất chứa ký ức cộng đồng và ý
nghĩa phổ quát.
“thân
thể tôi liệm bằng chữ, chữ cười buôn buốt”
(I-------I);
“Nơi
hợp chủng quốc ngôn ngữ
tôi
phiên dịch tôi
tôi
chảy một dòng sông khác”
(Những cuộc gặp dưới chân
thánh giá)
Trải nghiệm chữ được dồn
tụ thành ranh giới giữa hiện hữu và hư vô, giữa sự tan rã của thân thể và khả
năng cứu rỗi của ngôn từ. Ở đó, chữ trở thành chất liệu để khâm liệm, là dòng
chảy để tái sinh; mang tính hủy diệt nhưng cũng mở ra khả năng chuyển hóa. Không
phải ngẫu nhiên, hình ảnh chữ được đặt vào những tình thế cực điểm – nơi con
người bị thử thách khốc liệt, để rồi từ chính ngưỡng cửa ấy, ngôn ngữ lại khai
mở một lối đi khác. Có thể xem đây như một bước vượt thoát: chữ không còn gắn
với nỗi đau cá nhân đơn lẻ, mà nhập vào dòng chảy mạnh mẽ, trở thành hành trình
dịch chuyển bất tận. Thơ, vì thế, là cuộc lưu trú miên viễn trong – qua – sau
chữ, nơi mọi giới hạn lại mở ra một cơ hội hóa sinh.
Từ cuộc khởi hành “Di
chữ”, Thúy Hạnh đã khai mở thế giới chữ quấn quyện, sinh sôi: “những con chữ múa gươm”, “chữ lim dim”,
“chữ rầu bóng tối”, “chữ vô nghĩa ý”, “những con chữ gân xanh chằng chịt”,
“những con chữ sốt rét”, “cung phi chữ”, “dan díu chữ”, “những câu thơ chữ
thập”… Sự phong phú ấy được tiếp nối trong những bài thơ mang tên “Phố
chữ”, “Chữ”, “Cung phi từ”… như một khẳng định rằng mọi sáng tạo đều khởi phát
từ chữ, xoay quanh chữ và trở về với chữ. Trong kiến tạo này, chữ trở thành một
xã hội thu nhỏ, nơi nhà thơ trao cho nó thân phận con người, với cảm xúc, dục vọng
và cả sự bất toàn. Tính đa hình sắc ấy đặt nền móng cho thế giới thơ đặc thù
của Nguyễn Thị Thúy Hạnh: một thế giới “thậm phồn”, luôn triển sinh và tự lấp
đầy, nơi chữ có thể phân thân để nhân lên sức sống, mở ra những chiều kích thẩm
mỹ không giới hạn.
“Di chữ” đã hiện diện như
chính khát vọng và lý tưởng của người viết: “ta
đi giặt áo thơ/ mặc mới một mùa chữ” (bờ cổ), “tôi tái sinh lời/ chữ tái sinh tôi” (Thanh minh), “tôi một đời ăn chữ/ nay tôi nhả ra
tim" (lựa chọn), “không ai có
thể giết tôi được, tôi tự vệ bằng từ/… tôi thở bằng ngôn ngữ khác, tôi xới hành
trình khác, tôi mặc một thế giới khác, tôi cầm tay những người lạ mặt./ đám ma
tôi quan tài chất đầy sách, thân thể tôi liệm bằng chữ” (I-------I)… Ngôn
ngữ được đẩy đến giới hạn: trở thành thân thể, thành vũ khí tự vệ, thậm chí
thành cả cỗ áo quan để khâm liệm. Nó đồng thời mang tính song trùng: nuôi dưỡng
và hủy diệt, triển nở và ám ảnh bởi cái chết. Chính trong nghịch lý ấy, chữ mở
ra biên độ và hàm nghĩa mới. Với Nguyễn Thị Thúy Hạnh, chữ vừa là môi sinh, vừa
là lối vượt thoát.
“Trên
dây đàn
lả
lướt
những
ngón tay như hoa huệ như sóng lượn như cầu vồng
như
con thuyền
đậu
vào một bến sông.”
(Nhạc tranh)
Chữ biến thành cõi sống,
chạm vào ký ức, khơi dậy niềm vui, nỗi buồn, khát vọng, đồng thời kiến tạo một
thế giới phồn sinh, xung động, hủy diệt, tái tạo... Hành trình trong “Di chữ”
là cuộc thử nghiệm cực điểm, nơi chữ vượt khỏi chức năng ký hiệu để trở thành
nguồn năng lượng sáng tạo, cuộn xoáy và lan tỏa trong đời sống tinh thần. Từ
đó, nhà thơ mở ra một thế giới thơ không ngừng biến đổi, luôn tiềm ẩn những khả
năng trong đối thoại giữa ngôn ngữ, thân phận và nhân sinh.
“Di chữ” mở ra thế giới
thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh, nơi cảm xúc và trải nghiệm cá nhân mở rộng thành suy
tư về tình yêu, tuổi trẻ, ký ức, những chuyến đi xa, về Hà Nội, lịch sử và văn
hóa. Đồng thời, thơ chạm tới những ám ảnh thân phận, nỗi đau và sự mất mát,
những dằn vặt dục vọng, những day trở của tôn giáo – tâm linh, ký ức chiến
tranh và bi kịch nhân loại. Đó là không gian đối thoại đa tầng, nơi ý nghĩa
chồng lấn và đan xen, buộc người đọc vừa theo dõi nhịp xao động của nội tâm,
vừa nhập cuộc vào các liên tưởng rộng mở của cộng đồng, nhân loại. Trong chiều
sâu ấy, văn chương, nghệ thuật và ngôn ngữ hiện lên như định mệnh, như vết
thương, cũng là nơi cưu mang và giải thoát.
*
Nếu “Di chữ” khẳng định
chữ như một hữu sinh
gắn với thiên tính nữ, thì tập thơ “Văn học vết thâm” đã đưa hành trình chữ của
Nguyễn Thị Thúy Hạnh đi xa hơn: chữ xuyên qua vùng tối, lắng đọng ký ức cá nhân
và cộng đồng, hòa giữa nỗi đau riêng và thương tích lịch sử. Ngay từ nhan đề,
tập thơ đã gợi một sắc thẫm ám ảnh: chữ mang trên mình vết bầm, dấu chỉ khó
phai, trở thành chứng nhân cho những trải nghiệm của cá nhân lẫn tập thể.
“anh
chờ em mùa thu
nói
rằng sẽ gửi cho anh
một
email khi nỗi nhớ tràn vực chữ
cơ
thể anh đã chất đầy mưa úa”
(Email);
“em
bảo anh đừng buồn nữa nghe không
dẫu
ngày mai cuộc đời khép cửa
anh
biết mình vẫn sống được qua ngày
bằng
chữ”
(Xô nát thị thành)
Chữ trở thành dòng chảy
phức hợp, nơi dồn tụ khát vọng và cả tuyệt vọng. Trong "Email", chữ mở
ra tựa vực thẳm, gắn với mất mát, chia lìa, ở "Xô nát thị thành", chữ
lại hóa nơi nương náu cho bi kịch, đổ nát. Cả hai khổ thơ đều cho thấy chữ đã
rời khỏi quỹ đạo thuần túy, mở biên độ rộng lớn, nơi chữ va đập trực diện với
đời sống, với sự xói mòn, với khát vọng tồn sinh. Sự chuyển dịch ấy cho thấy
trong hành trình của Nguyễn Thị Thúy Hạnh, chữ đã vượt khỏi tính nữ trong
"Di chữ" để kiến tạo một thế giới khác: phong phú mà hỗn loạn, chan
chứa tình cảm mà cũng đầy bất trắc. Chữ ở đây bạo liệt và mong manh hơn, có thể
nâng đỡ con người vượt qua vực thẳm, nhưng cũng phơi bày những thương tích khó
lành. Chính sự căng kéo ấy đã làm nên một thế giới đa thanh, biến động, chạm
tới những cung bậc sâu nhất của tâm hồn.
Trong “Văn học vết thâm”,
cảm hứng thơ được mở rộng từ kinh nghiệm riêng tư, tình yêu và khoái cảm, đến
những ám ảnh mang tính xã hội và lịch sử. Các bài thơ như “Người ch/nữ”, “Đường
về nhà” không chỉ phơi bày bi kịch của phụ nữ, mà còn gợi nhắc ký ức chiến
tranh và hậu chiến. Ở giai đoạn này, thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh cộng hưởng với
những tầng ký ức tập thể, khơi dậy âm vang của những mất mát chưa từng được bù
đắp. Chữ, vì thế, trở thành phương tiện ký thác, nơi lưu giữ và khắc ghi những
thương tích lịch sử.
Về nghệ thuật, “Văn học
vết thâm” tiếp tục đẩy mạnh tính khai phá từ “Di chữ”, nhưng với cường độ và
phạm vi rộng hơn. Nếu “Di chữ” thiên về thử nghiệm chữ như một hữu sinh, thì ở
“Văn học vết thâm”, chữ được đặt trong những cực hạn biểu đạt, gắn với thương
tích cá nhân và ký ức cộng đồng.
“một
thân thể phì nhiêu chữ
mọc
lên như cái cây xanh tốt mà
nỗi
buồn là con sâu đo bầu trời
dằng
dặc bản nháp gió”
(Bóc một lớp vỏ);
Sự chuyển dịch của chữ
tạo nên một không gian nghệ thuật linh hoạt và đa tầng, nơi chữ có khả năng đối
diện với mất mát, ghi lại những vết tích thời gian, đồng thời mở ra các liên
tưởng vượt ra ngoài đời sống nhân sinh. Thế giới thơ hình thành từ sự vận động
của chữ trở nên giàu năng lượng, gợi cảm giác bền bỉ, phơi bày những khoảng
trống, những dấu vết khó phai. Chính nhờ sự di chuyển và biến đổi liên tục của
chữ, thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh kiến tạo một cõi riêng, nơi ký ức, cảm xúc và ý
niệm hội tụ, đồng thời mở ra những năng lực khả dĩ trong cảm nhận và đối thoại.
Trong “Văn học vết thâm”,
tác giả sử dụng thơ văn xuôi, cấu trúc liệt kê, dòng ý thức phi logic, tạo dựng
một trường ngôn ngữ vỡ vụn, xoắn vặn, chập chờn. Chính sự phân mảnh ấy phản ánh
tinh thần tác phẩm: một thực tại thiếu khuyết, rạn nứt, luôn trong tình trạng
bất an. Ở đây, chữ trình hiện một cơ thể chằng chịt vết thâm, mang ký ức tập
thể.
“anh
trượt trên thân thể nàng một bờ dốc tuyết. người đàn ông xa lạ. người đàn ông
thân thuộc. sau cửa kính quán cafe. khuấy đôi mắt loãng. cuối con đường nhỏ.”
(Yoko Yoko);
“Một
siêu thị nước mắt không bán có, không bán không, không bán không có, không bán
có không không có, không bán không không không có có có, không bán có không
không có có không”
(Khả thể)
Chữ trở thành lực đẩy để
khai mở những chiều kích mới, làm nổi bật mối quan hệ phức tạp giữa cá nhân,
cộng đồng và dòng chảy thời gian. Sự chuyển dịch này tạo ra một thế giới thơ
luôn dao động, vừa tập trung, lan tỏa, hiện thực và tưởng tượng, đồng thời mở
ra những khả năng liên tưởng đa dạng, từ những mảnh ký ức, nỗi đau, đến những
trăn trở về tồn sinh và văn hóa. Thế giới thơ ấy là không gian của vận động
liên tục, nơi chữ không ngừng thay đổi vị trí, chất liệu và chức năng, khiến
người đọc phải theo sát những biến chuyển tinh vi, cảm nhận được những khoảng
trống, những vết tích và những tiềm năng chưa được khai mở.
Trong giai đoạn này, dòng
chữ trở thành phương tiện mở rộng hư huyễn, gia tăng tính ám ảnh và phức hợp
của hình ảnh, cho phép người đọc tiếp cận những khoảng không tiềm ẩn, vừa thực
vừa ảo diệu, nơi các cấu trúc ngôn từ và ý nghĩa liên tục biến đổi, đồng thời
khơi gợi nhận thức sâu sắc về ký ức, cảm xúc và bản sắc văn hóa.
“trong
thư viện người thủ thư ngủ gục
thế
mà anh lại mơ
về
một dãy thuyền đậu như dải khăn
quấn
quanh cổ sông
em
ba ngấn”
(Tình nhân/Mở cửa)
Sự hòa quyện tinh tế giữa
tính trừu tượng và cụ thể, giữa cảm xúc cá nhân và liên tưởng vượt ra ngoài bản
thân, khiến mỗi bước đi của chữ mở rộng biên độ tưởng tượng và khơi dậy những
rung động sâu kín nơi người đọc.
"Văn học vết
thâm" đánh dấu giai đoạn chín muồi trong hành trình chữ của Nguyễn Thị
Thúy Hạnh, mở rộng các mối liên hệ với cộng đồng, lịch sử và xã hội, trở thành
phương tiện ghi lại ký ức, lưu giữ thương tích, đồng thời phản chiếu những dang
dở, ngổn ngang của đời sống. Tập thơ là nơi chữ hiện hữu như một chứng nhân, chuyển
dịch, biến đổi để kiến tạo những không gian trải nghiệm đa chiều, nơi cảm xúc,
trăn trở và những dấu vết lịch sử hội tụ. Thế giới thơ trong "Văn học vết
thâm" vì thế vừa phong phú vừa căng thẳng, gợi nhắc những thương tổn khó
có thể chữa lành, đồng thời mở ra những khả thể nhận thức và liên tưởng mới cho
người đọc. Đây là cõi nghệ thuật, nơi chữ là hiện thực sống động, luôn vận động
và mời gọi người đọc tham dự, khiến mỗi trải nghiệm thơ đều trở thành cuộc đối
thoại giữa quá khứ, hiện tại và những dư địa chưa định hình.
*
Sau hai tập thơ đã công
bố, Nguyễn Thị Thúy Hạnh đã đẩy “con đường chữ” đi xa hơn trong những bài thơ
mới viết gần đây: chữ được giải phóng khỏi ranh giới định hình, mở rộng biên
độ, trở thành không gian liên văn bản. Trong những bài thơ như
"Symphony", "Trong đầm", "Bên dòng Hogsmill",
"Vào mùa thu", “Trôi từ Huế đến Quảng Trị sẽ mất bao lâu?”, “Nguyên
nhân mất ngủ”…, chữ vận hành theo những chuỗi ý tưởng phi lý, dòng ý thức bất
định, khiến ngôn ngữ phóng khoáng, chảy trôi. Người đọc ngỡ đi vào một giấc
mộng, nơi mỗi chữ, mỗi hình ảnh luôn dao động, tạo ra những khoảng trống đầy cạm
bẫy, nơi hiện thực ẩn khuất trong huyền hồ, khiến trải nghiệm thơ vừa mê hoặc
vừa gai gợn.
“Bàn
tay nàng vẫn ở lại với anh, ngọ nguậy, trong căn phòng tối tăm này
Nó
cầm ánh sáng, đốt cháy cặp mắt
Màu
xanh nở, những ý nghĩ về nàng phồng lên
Màu
vàng bốc cháy, một nụ hôn xám
Tiếng
vó của thân xác”
(Symphony);
“Vào
mùa thu, một người câm mở miệng, một người ao ước được câm hoàn toàn, những
tiếng nói chỉ tồn tại bên dưới lớp da.
Mỗi
cánh rừng là một âm tiết. Trong đêm tối, hãy thử chơi với những cơn bão, sau
đó, dựng lại một con đường đã bị lũ cuốn vào mùa thu.”
(Vào mùa thu)
Hành trình chữ của Nguyễn
Thị Thúy Hạnh đang ở giai đoạn tràn đầy sức sống và triển nở. Chữ trở thành
chất liệu kiến tạo một thế giới, nơi màu sắc, âm thanh, nhịp điệu hòa quyện với
mê mị, kiến tạo chiều sâu thẩm mỹ, làm nên dấu ấn riêng biệt. Sự chuyển dịch ấy
khiến thơ gần gũi và cũng xa lạ, cụ thể và trừu tượng, tạo những liên tưởng ám
ảnh, nơi cảm xúc và ký ức liên tục biến đổi, xô giật, phục hồi. Trong không
gian ấy, chữ là động lực sống, chất kích thích tưởng tượng, trở thành những điểm
nút mở rộng biên độ ảo mộng. Thế giới thơ vì thế mở ra phong nhiêu, bất tận,
nơi mỗi chữ, mỗi hình ảnh đều dẫn dắt người đọc vào những cung bậc cảm xúc sâu
kín, khiến trải nghiệm thi ca trở thành một hành trình xuyên qua ánh sáng, bóng
tối, tiếng động và những rung động tiềm thức.
*
Hành trình thơ của Nguyễn
Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con
người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn
thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở
thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ
tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Từ nền tảng hiện sinh,
thơ chị từng bước triển nở thành diễn ngôn nữ quyền mạnh mẽ, nơi chữ trực tiếp
gánh vác và biểu đạt thân phận người nữ: gợi cảm, nhục cảm, vừa chịu nhiều
thương tích. Nhà thơ khẳng định quyền được nói, được cất tiếng bằng chính ngôn
ngữ của giới mình. Chữ thành nơi hiển lộ sự khác biệt, khẳng định bản ngã. “chúng tôi nằm bên nhau, sau tấm rèm của một
bài thơ/ mở tìm và sắp xếp/ ý nghĩa của cơ thể/ lắng nghe/ sự cọ xát/ nhịp điệu
khô hoặc ướt, những chuyển động từ không gian khác” (Những bản dịch). Chữ ở
đây vừa chuyển tải nhịp điệu, va chạm, vừa lưu giữ những rung động nội tâm, hòa
quyện giữa thân thể và ngôn ngữ. Tác giả đã biến chữ thành nội lực sống, gợi
cảm mà ám ảnh, mở ra hành trình trải nghiệm thơ không giới hạn, nơi mọi rung
động đều được khuếch đại và nhân lên trong nhịp điệu chữ.
Một chiều kích quan trọng
trong thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh là tinh thần phản tỉnh xã hội gắn liền với ký ức
cộng đồng. Từ những trang thơ viết về hậu chiến, về miền Trung khắc nghiệt, về
hình tượng người mẹ, cho đến những giấc mơ phi lý của hiện tại, thơ chị không
khép kín trong biên độ riêng tư, mà luôn mở ra đối thoại với số phận cộng đồng.
Chữ trở thành chứng nhân lịch sử, nơi ký thác và lưu giữ những “vết thâm” của
thời đại. Chính từ vai trò ấy, chữ vừa cất giữ nỗi đau, vừa gợi nhắc, cảnh
tỉnh, như cách nhấn mạnh rằng quá khứ không thể và không được phép rơi vào quên
lãng. “Mẹ, vẫn mở to hai hố mắt, mở mãi,
tìm tôi trong đêm/ Và tôi, nhảy qua hai hố sâu đó/ Để tìm đường về nhà” (Đường
về nhà). Hình ảnh người mẹ biểu tượng của ký ức cộng đồng, in đậm dấu ấn đau
thương, mất mát. Không gian thơ ám ảnh, liên kết quá khứ và hiện tại, biến hành
trình tìm kiếm và đối diện với nỗi đau thành trải nghiệm nội tâm của nhân vật
trữ tình.
Điểm độc đáo trong thơ
Nguyễn Thị Thúy Hạnh là kiến tạo một mỹ học chữ mang tính cá nhân. Thông qua
các thủ pháp như tách, ghép, kéo giãn, liệt kê…, chữ không chỉ giữ chức năng
biểu đạt mà còn hiện lên như một hiện hữu cụ thể, buộc người đọc không chỉ tiếp
nhận bằng tri giác ngôn ngữ mà còn chiêm ngắm, chạm tới và cảm nhận bằng nhiều
giác quan. Trong các bài thơ đồ hình, thơ thị giác của "Văn học vết
thâm" ("Đàn bà", "Lá", "Mộc", "Nhịp
điệu"), chữ được sắp xếp theo khoảng trống, chồng lớp, tạo ra nhịp điệu và
hiệu ứng thị giác mạnh mẽ, cho người đọc chiêm ngưỡng hình tướng và chuyển động
của chữ. Trong bài thơ "Đàn bà", chữ như trải theo thân thể người nữ,
gợi sự mềm mại và tạo cảm giác dao động; bài "Lá" rải chữ như mạng
lưới hoặc vết rạn, gợi liên tưởng đến thiên nhiên và vòng đời. Hai bài thơ "Mộc"
và "Nhịp điệu" mở ra không gian chồng lớp, phân tách và hội tụ, làm
nổi bật tính dồn nén, bật nảy của cảm xúc. Thời gian trong thơ cũng trở nên
linh hoạt: các lớp chữ chồng chập, xen kẽ quá khứ, hiện tại và tưởng tượng,
khiến nhịp điệu vang động mà tĩnh tại, vừa ghi lại ký ức vừa mở ra viễn mộng.
Thơ vì thế trở thành bức tranh sống động, nơi chữ kiến tạo không gian trải
nghiệm trực tiếp, thị giác và xúc giác.
Thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh
vận hành như một hữu sinh, gắn bó mật thiết với nhịp điệu tâm/ sinh lý, hơi
thở, cử động và cảm xúc, khiến chữ vừa gợi hình thể, vừa hàm chứa sinh lực.
Nhạc tính của chữ được khai thác tinh tế, để mỗi âm tiết, mỗi dòng thơ vận hành
như một giai điệu, cộng hưởng giữa cảm xúc và thi ảnh, gia tăng sức ám ảnh và
cảm giác huyền hồ, mộng mị. Trong cấu trúc ấy, chữ trở thành hệ sinh thái tự hành,
nơi các yếu tố ngôn ngữ không ngừng phân tách và hội tụ; đồng thời, chữ luôn
trong trạng thái hóa sinh, mở ra những viễn tượng trong nhận thức và trải
nghiệm thẩm mỹ. Nhờ đó, thế giới thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh hiện ra như một
không gian bất định/ tận, không ngừng biến đổi nhưng vẫn duy trì trật tự nội
tại, nơi sự hỗn loạn và hài hòa cùng tồn tại trong thế cân bằng mong manh mà
bền vững.
Ở giai đoạn gần đây, thơ
Nguyễn Thị Thúy Hạnh cho thấy khả năng liên văn bản, trở thành một trường lực
phức hợp, dung hòa nhịp điệu cảm xúc, ký ức, hình ảnh và trải nghiệm.
“vì
trăng sáng, vì thiếu máu lên não, vì huyết áp thấp, vì mùi khuynh diệp, vì
tiếng chuông gió, vì màu xám, vì những chữ cái đang già đi trong bóng tối, vì
người chết, vì người – chết – vì – người chết, vì ăn chay, vì Irene của Poe, vì
Insomnia của Linda Pastan, vì một cơ thể trôi dạt, vì nước mắt, vì nốt muỗi đốt
đã sưng to bằng con chim bồ câu, vì tiếng chiếp chiếp của ánh sáng, vì khuôn
mặt bệnh nhân như quả cau héo, vì thuyền tròng trành, vì tiếng ngáy mở ra một
đường hầm, vì một tiếng động ướt, vì xương sống của câu thơ kêu răng rắc, vì
hiện thực, vì hiện thực xã hội chủ nghĩa, vì mưa tháng giêng.”
(Nguyên nhân mất ngủ)
Sự dồn nén và cách “liệt
kê” liên tiếp hình ảnh tạo ra hiệu ứng ảo mộng, đưa người đọc vào một không
gian vừa hỗn loạn vừa trật tự, nơi mọi giác quan bị kích thích và liên tục bị
thử thách. Con đường chữ mở ra một thế giới thơ vô tận, nơi chữ mang trọng
lượng vật chất và năng lượng cảm xúc, đồng thời ghi lại những vết tích cá nhân
lẫn tập thể.
Đồng hành cùng Nguyễn Thị
Thúy Hạnh, người đọc được dẫn dắt vào một thế giới thi ca khác biệt, đậm căn
tính sáng tạo. Từ góc nhìn cá nhân, có thể kỳ vọng rằng hành trình ấy sẽ mở ra
nhiều miền sáng hơn, nơi niềm vui và cảm giác an lành lan tỏa mạnh mẽ hơn. Bởi
suy cho cùng, thơ cũng là một liệu pháp chữa lành: giúp con người tìm lại sự
cân bằng sau những xáo động, nâng đỡ sau những đổ vỡ, nuôi dưỡng niềm tin để
tiếp tục tồn tại. Trong chiều kích ấy, thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh không chỉ cất
lên tiếng nói riêng tư, mà còn trở thành nơi nương náu tinh thần, minh chứng
rằng ngay trong bóng tối, chữ vẫn có thể tỏa sáng, gieo vào hồn người hạt mầm
hồi sinh.
Nhà thơ Nguyễn Thị Thúy
Hạnh từng giảng dạy tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, có thời gian tu nghiệp
tại Bắc Kinh (Trung Quốc). Tháng 12/2019, chị bảo vệ thành công Luận án Tiến sĩ
Văn học tại Học viện Khoa học xã hội. Hiện chị là nghiên cứu viên Phòng Văn học
nước ngoài, Viện Văn học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Ngoài sáng tác
thơ, chị còn viết tiểu luận, phê bình văn học và dịch một số tác phẩm từ tiếng
Anh, tiếng Trung sang tiếng Việt.
*
Con đường chữ của Nguyễn
Thị Thúy Hạnh trình hiện như nguồn năng lượng vận động liên tục, dồn nén thành
áp lực và có khả năng bùng nổ thành những mảnh vụn bất định. Dòng năng lượng ấy
dẫn dụ người đọc vào miền sáng tạo, nơi cảm xúc, ký ức và tưởng tượng hòa
quyện, từ đó mở ra những khả hữu thẩm mỹ bất ngờ cùng trải nghiệm ám ảnh khó
dứt. Chính sự kiến tạo này giúp thơ chị vượt qua lối viết của các tác giả cùng
thế hệ, tạo một sắc diện mới lạ cho thơ Việt đương đại, đồng thời mở ra tiềm
năng chưa từng được thử nghiệm trong tổ chức ngôn ngữ và hình dung về bản chất
thi ca.
Nếu nhiều tác giả trưởng
thành sau Đổi mới (từ 1986) chủ yếu dừng lại ở việc giải phóng cái tôi trữ tình
và làm rạn vỡ những khung khổ thi pháp truyền thống, thì Nguyễn Thị Thúy Hạnh
đã đi xa hơn khi kiến tạo một mỹ học riêng: biến chữ thành môi trường tồn sinh
tự thân. Trong không gian ấy, ký ức, xúc cảm, vô thức và tưởng tượng giao thoa,
cộng hưởng, từ đó sản sinh những hình thức thẩm mỹ mới mẻ, vừa gắn với trải
nghiệm cá nhân, vừa mở rộng biên độ đối thoại của thơ với đời sống đương đại.
Chính sự dịch chuyển từ giải phóng cái tôi sang kiến tạo một “cõi chữ” độc lập
đã cho thấy nỗ lực cách tân mạnh mẽ và bản lĩnh nghệ thuật của Nguyễn Thị Thúy
Hạnh.
Ở giai đoạn hiện tại, thơ
Nguyễn Thị Thúy Hạnh trở thành cuộc phiêu lưu của biến thể ngôn ngữ; không
hướng tới một đích cố định mà luôn vận động, dịch chuyển và biến hóa. Sự dịch
chuyển ấy vừa đặt ra thách thức vừa mở ra cơ hội: liệu thơ Việt đương đại có đủ
sức mạnh và độ mở để đồng hành, vượt thoát giới hạn cũ và kiến tạo một giai
đoạn mới trong tiến trình hiện đại hóa thi ca? Từ hành trình chữ, thơ Nguyễn
Thị Thúy Hạnh cho thấy: ngôn ngữ chỉ thật sự sống động khi không ngừng biến
hóa, và nhờ đó, thơ ca mới có thể hiện hữu như một thực thể bền lâu.
Hải
Phòng, 8–9/2025
M.V.P

