Thơ văn xuôi: Diễn ngôn và tiếp biến

Tranh của Phil Greenwood, Anh quốc
Mai
Văn Phấn
“Hạt giống rơi trong bùn ngấu thảnh thơi
Ngày mai mặt đất này
Và thế giới sẽ đổi khác.”
M.V.P
1.
Mở đầu
Thơ
văn xuôi không phải hiện tượng ngẫu nhiên của văn học hiện đại, mà có truyền
thống lâu đời, khởi nguồn từ buổi sơ khai lịch sử nhân loại. Trong nhiều nền
văn minh cổ đại, con người đã sáng tạo những trường ca, sử thi và truyện kể
bằng lối văn xuôi giàu nhạc điệu, hình tượng và cảm xúc; vừa ghi chép sự kiện,
lịch sử, vừa cất lên tiếng ca tâm linh và khát vọng tự do, đặt nền móng cho sự
hình thành và phát triển của thơ văn xuôi qua các thời đại.
Ở
vùng Lưỡng Hà, sử thi
Gilgamesh (khoảng 2100 TCN) – khắc trên những phiến đất sét chữ hình nêm – được
coi là áng trường ca cổ xưa nhất, nơi câu chữ tự do, vận dụng lặp lại, song
hành và điệp khúc thay vì vần luật, tạo nhịp điệu gần với thơ văn xuôi ngày nay.
Ở Ấn Độ, hai sử thi cổ đại viết bằng tiếng Phạn – Ramayana và Mahabharata – kể
lại những cuộc chiến, hành động anh hùng, đồng thời lồng ghép triết học, tôn
giáo, đạo lý, tạo lập vũ trụ ngôn từ giàu kịch tính và nhạc tính. Trong văn học
Trung Hoa, bài phú Ly tao (thế kỷ III TCN) của Khuất Nguyên (khoảng 340 TCN –
278 TCN) cho thấy lối diễn đạt tự do, phóng túng, thấm đẫm chất trữ tình – tự
sự, khác với hình thức thơ niêm luật chặt chẽ ở các triều đại sau. Những tác
phẩm này minh chứng rằng, ngay từ phương Đông, ranh giới giữa thơ và văn xuôi
chưa hề được xác lập dứt khoát, và chính ở vùng giao thoa ấy, mầm mống của thơ
văn xuôi đã sớm hình thành.
Ở phương
Tây, trường ca Iliad và Odyssey của Homer (Hy Lạp, thế kỷ VIII TCN) được xếp
vào thể loại sử thi, khi đọc, ta thấy câu chuyện giàu kịch tính, mang hơi thở văn
xuôi, đồng thời vẫn dư ba hồn vía thi ca; điều ấy chứng tỏ ranh giới giữa thơ
và văn xuôi trong các kiệt tác cổ đại thường được hòa quyện, mở ra truyền thống
lâu dài cho sự hình thành thơ văn xuôi. Sự kết hợp giữa câu chuyện của văn xuôi
và nhạc điệu của thi ca đã tạo nên sức sống lâu bền cho các sử thi, khiến chúng
vừa hấp dẫn về cốt truyện, vừa lắng sâu về cảm xúc. Đến thời La Mã, sử thi Aeneid
bằng tiếng La-tinh của tác gia Vergilius (29–19 TCN), nhằm tôn vinh nguồn gốc
thiêng liêng và chính thống của quốc gia La Mã, vận dụng lối kể mềm mại, giàu
nhạc tính và nhịp điệu, gần với phong cách thơ văn xuôi. Trong văn học
Anglo-Saxon, sử thi Beowulf
(Anh, khoảng thế kỷ X, khuyết danh) kết hợp nhịp điệu giàu âm hưởng với lối kể
chi tiết, mang dáng dấp một tiểu thuyết cổ, giữ khí chất uy nghi của trường ca.
Ở
Việt Nam, nhiều dân tộc sở hữu sử thi và trường ca gần với thơ văn xuôi nhờ câu
chữ tuôn chảy, nhịp điệu linh hoạt và giàu hình tượng. Tiêu biểu là sử thi Đăm
Săn của người Ê-đê (Bài ca về chàng Đăm Săn), dài 2077 câu, kể về tù trưởng anh
hùng Đăm Săn, các kỳ tích và yếu tố thần thoại như cầu hôn Nữ thần Mặt Trời.
Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, sáng tác đầu thế kỷ XIX theo thể lục
bát, được phóng tác bằng chữ Thái cổ và lưu hành trong cộng đồng người Thái ở
Tây Bắc, cũng thể hiện lối kể tự sự gần với thơ văn xuôi. Nhiều trường ca, câu
chuyện của các dân tộc Kinh, Tày, Nùng, Mường, Dao, H’mông cho thấy truyền
thống tự sự dài kỳ ở Việt Nam là tiền đề cho thơ văn xuôi hiện đại.
Những
tác phẩm kể trên, dù xuất hiện trong bối cảnh khác nhau, đều có điểm chung: lời
kể mang dáng dấp văn xuôi nhưng được nâng lên bởi nhạc điệu, hình tượng, cảm
xúc và tính chiêm nghiệm. Có thể xem đây là “cái nôi” sơ khai của thơ văn xuôi,
nơi ngôn từ không chỉ đảm nhiệm chức năng tường thuật mà còn được nâng lên
thành phương tiện thẩm mỹ để ca ngợi, suy tưởng và biểu đạt những khát vọng
tinh thần sâu xa của con người.
Bước
sang thời cận – hiện đại, đặc biệt ở châu Âu từ thế kỷ XIX, thơ văn xuôi được ý
thức và khẳng định như một thể loại độc lập. Nhà thơ Pháp Aloysius Bertrand (1807–1841)
với tập thơ văn xuôi “Gaspard de la
Nuit”
(tạm dịch: Người giữ báu vật của đêm), tiếp đến, nhà thơ Pháp Charles
Baudelaire (1821–1867) với tập thơ “Petits poèmes en prose”
(tạm dịch: “Những bài thơ nhỏ bằng văn xuôi”), rồi nhà thơ Pháp Arthur Rimbaud
(1854–1891), nhà thơ Pháp Stéphane Mallarmé (1842–1898), cùng nhà thơ Hoa Kỳ
Walt Whitman (1819–1892) đã mở ra không gian sáng tạo mới: nơi văn xuôi giải
phóng hình thức, đồng thời được thăng hoa bởi nhịp điệu, biểu tượng và sức ngân
vang của thơ. Đây là bước ngoặt quan trọng, đưa thơ văn xuôi từ phạm vi tiềm ẩn
trong các tác phẩm tôn giáo, triết học, trường ca cổ xưa, trở thành một thể
loại văn học hiện đại.
Ở
Việt Nam, thơ văn xuôi khởi phát từ phong trào Thơ mới, với những thử nghiệm
ban đầu của Phan Khôi, Tản Đà, Tương Phố, Hàn Mặc Tử, Thanh Tịnh, Yến Lan, Đinh
Hùng… Dù khởi đầu còn dè dặt, thể loại này nhanh chóng bộc lộ sức sống khi kết
hợp tinh thần giải phóng hình thức từ phương Tây với cảm quan thẩm mỹ Á Đông.
Sau năm 1945, thơ văn xuôi tiếp tục hiện diện, và từ công cuộc Đổi mới đến nay,
thể loại này đã trở thành lựa chọn quan trọng của nhiều tác giả, trong đó có
Xuân Diệu, Huy Cận, Bùi Giáng, Nguyễn Đình Thi, Hữu Thỉnh, Thi Hoàng, Thanh
Thảo, Nguyễn Đức Mậu, Trúc Thông, Bế Kiến Quốc, Hoàng Vũ Thuật, Nguyễn Quang
Thiều, Dương Kiều Minh, Inrasara, Giáng Vân, Nguyễn Chí Hoan, Nhã Thuyên,
Nguyễn Thị Thùy Linh…, đóng góp tích cực vào việc làm phong phú diện mạo thi ca
đương đại.
Trong bối cảnh đó, nghiên
cứu Thơ văn xuôi: Diễn ngôn và
tiếp biến mang một ý nghĩa khoa học và thực tiễn nhất định, nhằm
bước đầu nhận diện đặc trưng, thành tựu của thể loại, góp phần lý giải quá
trình tiếp biến, đồng thời gợi mở vài hướng tham khảo cho việc tìm hiểu sâu hơn
thơ văn xuôi trong diễn trình hội nhập văn học Việt Nam vào dòng chảy toàn cầu.
Thơ
văn xuôi là một hiện tượng thẩm mỹ đặc biệt, vừa mang tính phổ quát của thi ca
nhân loại, vừa mang tính đặc thù trong từng nền văn học dân tộc. Ở phạm vi thế
giới, sự xuất hiện và khẳng định của thơ văn xuôi từ thế kỷ XIX đã đánh dấu bước
ngoặt quan trọng trong lịch sử thi ca hiện đại. Thể loại này không chỉ phản ánh
tinh thần cách tân và giải phóng hình thức, mà còn mở rộng khả năng biểu đạt,
giúp thơ tiếp cận sâu hơn đời sống và những biến động nội tâm phức tạp của con
người hiện đại.
Tại
Việt Nam, sự hình thành và phát triển của thơ văn xuôi là kết quả của cả hai
yếu tố: một mặt tiếp nhận ảnh hưởng từ thơ văn xuôi quốc tế, mặt khác, là sự
vận động nội tại của văn học dân tộc trong quá trình hiện đại hóa. Từ những thử
nghiệm ban đầu ở giai đoạn Thơ mới cho đến các sáng tác đương đại, thơ văn xuôi
đã chứng minh sức sống bền bỉ, trở thành dòng chảy mạnh mẽ, có vị trí riêng
trong tiến trình thi ca Việt Nam.
2. Khái niệm về thơ văn xuôi
Nghiên
cứu thơ văn xuôi trước hết nhằm trả lời những câu hỏi cơ bản về bản chất thể
loại, từ đó mở ra hướng tiếp cận học thuật và sáng tác. Thơ văn xuôi có hình
thức trình bày như văn xuôi, song vẫn giữ những phẩm chất thi ca cốt lõi. Điểm
khác biệt với văn xuôi thuần túy nằm ở “tính thơ” – được biểu hiện qua nhịp
điệu nội tại, sự cô đọng ngôn từ, hệ thống hình tượng – biểu tượng giàu sức
gợi, cũng như khả năng khơi mở chiều sâu tinh thần. Văn bản thơ văn xuôi tạo
khoảng lặng cho tư tưởng, ký ức và trực giác vận động trong ngôn ngữ, vượt khỏi
khuôn khổ vần luật và niêm luật truyền thống. Tôi từng nhận thức khái quát về
thơ rằng, thơ là ánh sáng khai thị cho
con người bằng nghệ thuật ngôn từ, làm hiển lộ vẻ đẹp tâm hồn người viết, kiến
tạo một không gian mới, cõi sống khác.
Đó thực sự là những vẻ đẹp tinh tuyền và
quyến rũ, khúc xạ tâm hồn người viết, phản chiếu nền văn hóa của mỗi vùng đất,
mỗi dân tộc, điều này càng làm nổi bật chức năng tinh thần và thẩm mỹ của
thơ văn xuôi.
Nếu
văn xuôi thường hướng đến tự sự, miêu tả và lập luận, thì thơ văn xuôi chú
trọng nhiều hơn đến ấn tượng, cảm giác và nhạc điệu nội tại. Ngôn ngữ của thể
loại này giàu sức gợi, thiên về ám ảnh hơn là tường thuật. Có thể ví văn xuôi
như con đường thẳng, rõ ràng, còn thơ văn xuôi giống như dòng suối, đánh thức
những tầng sâu ký ức và tiềm thức, mở ra không gian tự do cho cảm xúc và suy
tưởng. Nhờ vậy, thơ văn xuôi dung hợp được tự sự, hồi tưởng, trữ tình và triết
luận, vừa giữ linh hồn thơ vừa kiến tạo lối biểu đạt riêng.
Đặc
trưng thi pháp của thơ văn xuôi thể hiện trên nhiều phương diện. Trước hết,
hình thức tự do giải phóng câu chữ khỏi ràng buộc của vần và luật, tuy mang
diện mạo văn xuôi nhưng không đồng nhất với tự sự hay nghị luận. Nhịp điệu tiềm
ẩn được kiến tạo qua ngắt câu, điệp cú pháp, sự cộng hưởng của âm thanh và hình
ảnh. Hệ thống hình tượng và biểu tượng nổi bật, có khả năng chuyển tải trực
giác, cảm xúc phức tạp và trải nghiệm tâm linh. Cơ chế cô đọng khiến mỗi đoạn
văn trở thành một “đơn vị cảm xúc” độc lập, buộc người đọc tham gia giải mã. Cuối
cùng, tính dung hợp thể loại cho phép thơ
văn xuôi kết hợp hài hòa các yếu tố tự sự, trữ tình và triết luận, đồng thời
tiếp nhận và biến đổi chất liệu bản địa – như truyện cổ tích, truyền thuyết,
dân gian, và ngôn ngữ đời sống – để kiến tạo giọng điệu vừa hiện đại, vừa gắn
bó sâu sắc với tâm thức người Việt.
Dựa
trên sự kế thừa lý thuyết quốc tế và đặc thù văn hóa dân tộc, có thể đề xuất
một khung lý thuyết bản địa để nhận diện thơ văn xuôi Việt Nam. Theo đó, văn
bản mang hình thức văn xuôi nhưng tổ chức ngôn ngữ giàu tính thơ; nhạc tính nội
tại thay thế cho vần luật; hình tượng gắn với tâm thức Việt; cơ chế cô đọng –
biểu cảm, mỗi đoạn văn là một đơn vị cảm xúc; và sự dung hợp ảnh hưởng phương
Tây với chất liệu bản địa. Những tiêu chí này giúp phân biệt thơ văn xuôi với
văn xuôi thuần túy và thơ truyền thống, đồng thời khẳng định bản sắc riêng của
thể loại trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Từ
một hình thức lai ghép có cội nguồn trong sử thi và kinh điển tôn giáo, thơ văn
xuôi đã phát triển mạnh mẽ như một thể loại hiện đại. Trong tiến trình văn học
Việt Nam, nó khẳng định vị trí độc lập khi dung hợp truyền thống Á Đông với ảnh
hưởng quốc tế, song hành cùng thơ vần luật và thơ tự do, đồng thời góp phần
quan trọng vào công cuộc hiện đại hóa văn học dân tộc.
3. Cơ sở lý thuyết tiếp cận
Để
nghiên cứu ảnh hưởng của thơ văn xuôi quốc tế tới lộ trình phát triển của thơ
văn xuôi Việt Nam, bài viết này đặt nền tảng trên một số hệ thống lý thuyết
hiện đại, cho phép soi chiếu đối tượng từ nhiều bình diện khác nhau, từ thi
pháp, hình thức đến mối quan hệ với bối cảnh xã hội – văn hóa.
Trước hết, thi pháp học
so sánh cung cấp cơ sở để đối chiếu những điểm tương đồng và khác biệt giữa thơ
văn xuôi quốc tế và Việt Nam. Phương pháp này không chỉ tập trung vào hình
thức, cấu trúc, giọng điệu hay thủ pháp biểu đạt mà còn xem xét cách thức tiếp
nhận, biến đổi và sáng tạo trong từng bối cảnh văn hóa riêng. Qua đó, ta nhận
diện được quá trình kế thừa – từ việc thấm nhuần cấu trúc, giọng điệu, thủ pháp
biểu đạt của các tác giả quốc tế – cho đến sự sáng tạo độc lập, gắn liền với
ngôn ngữ, lịch sử, thẩm mỹ và cảm thức dân tộc Việt Nam.
Sự hình thành thơ văn
xuôi ở châu Âu thế kỷ XIX không chỉ là một hiện tượng nghệ thuật mang tính thực
tiễn sáng tác mà còn được soi chiếu từ nhiều khung lý luận khác nhau. Trong đó,
học giả người Pháp Gérard Genette (1918–2018) với lý thuyết liên văn bản
(transtextualité) nhấn mạnh rằng mọi văn bản văn học đều tồn tại trong mối quan
hệ đối thoại với các văn bản khác. Theo quan điểm này, thơ văn xuôi là kết quả
của quá trình tích hợp và tiếp biến từ những hình thức đã có: trường ca, thơ
trữ tình cổ điển, văn xuôi tự sự. Nhờ vậy, thơ văn xuôi vừa kế thừa âm hưởng
thi ca, vừa hấp thụ lối kể của văn xuôi, tạo nên một hình thức trung gian giàu
khả năng biểu đạt, phản ánh rõ sự vận động của tư duy nghệ thuật hiện đại.
Học giả người Pháp Jean-Pierre
Richard (1922–2019), qua các nghiên cứu về Charles Baudelaire, Arthur Rimbaud
và thơ tượng trưng, đã nhấn mạnh đến phương pháp đọc chi tiết như một cách khám
phá tính vi mô của hình ảnh, âm thanh và nhịp điệu, từ đó làm sáng tỏ cấu trúc,
nguồn cảm xúc và thế giới quan ẩn chứa trong văn bản thơ. Ông cho rằng chính
những mảnh vụn của đời sống đô thị – con phố, hàng cây, một khuôn mặt, khoảnh
khắc thoáng qua – khi được nâng lên thành ngôn ngữ thi ca, đã làm nên bản chất
của thơ văn xuôi. Từ đó, có thể thấy sự ra đời của thể loại này không chỉ nằm ở
bình diện hình thức mà còn bắt nguồn từ nhu cầu khắc họa cái “vi mô” của kinh
nghiệm hiện đại, nơi cái tầm thường và cái siêu nghiệm dung hợp, làm nổi bật
nhịp sống đô thị và những biến chuyển tinh thần của con người.
Từ góc nhìn của Genette
và Richard, có thể khẳng định rằng thơ văn xuôi là một hình thức văn học tất
yếu trong tiến trình hiện đại hóa nghệ thuật. Nó vừa mang tính liên văn bản –
luôn trong quan hệ đối thoại với truyền thống thi ca trước đó – vừa mang tính
vi mô – gắn bó mật thiết với đời sống hàng ngày, đồng thời mở ra khả năng biểu
đạt mới cho con người trong xã hội đô thị và tinh thần hiện đại.
Trong bối cảnh Việt Nam,
thơ văn xuôi chịu ảnh hưởng sâu sắc từ dòng chảy quốc tế, đặc biệt trong nửa
cuối thế kỷ XX, khi các nhà thơ bắt đầu thử nghiệm ngôn ngữ, cấu trúc và giọng
điệu mới. Việc tiếp nhận không chỉ sao chép mà là quá trình chuyển hóa, điều
chỉnh phù hợp với nhịp sống, tư duy và cảm thức thẩm mỹ người Việt. Thơ văn
xuôi Việt Nam vì thế vừa thể hiện sự giao thoa giữa truyền thống và hiện đại,
vừa phản ánh nhu cầu biểu đạt cá nhân trong một xã hội đang biến chuyển mạnh mẽ.
Như vậy, cơ sở lý thuyết
được vận dụng trong nghiên cứu này gồm hai trục chính: Liên văn bản và tiếp
biến – giúp phân tích cách thức thơ văn xuôi Việt Nam hấp thụ, đối thoại và
biến đổi từ các dòng thơ văn xuôi quốc tế. Và, chi tiết và vi mô – giúp nhận
diện cách thức tác giả Việt Nam khai thác đời sống hàng ngày, biến những trải
nghiệm, dù nhỏ bé thành hình thức biểu đạt nghệ thuật độc đáo, gần gũi, và mang
tính hiện đại. Nhờ việc kết hợp hai trục lý thuyết này, nghiên cứu có thể giải
thích rõ mối quan hệ phức tạp giữa sáng tạo bản địa và ảnh hưởng quốc tế trong
lộ trình phát triển của thơ văn xuôi Việt Nam.
Tiếp đó, lý thuyết ảnh
hưởng văn học, tiêu biểu là các nghiên cứu của nhà phê bình văn học Hoa Kỳ
Harold Bloom (1930–2019) và nhà triết học ngôn ngữ và lý thuyết văn học Nga
Mikhail Bakhtin (1895–1975) đã cung cấp công cụ phân tích mối quan hệ phức tạp
giữa các văn bản. Harold Bloom, với quan niệm về nỗi “lo âu thế hệ” (anxiety of
influence), nhấn mạnh rằng mọi sáng tạo văn học đều chịu tác động từ những tác
phẩm đi trước, nhưng không đơn thuần là sao chép: tác giả luôn tìm cách vượt
qua ảnh hưởng để khẳng định cá tính sáng tạo. Trong bối cảnh thơ văn xuôi Việt
Nam, điều này giúp giải thích cách các nhà thơ tiếp nhận tinh hoa quốc tế – từ
cấu trúc, giọng điệu, đến thủ pháp biểu đạt – đồng thời chủ động tái sáng tạo
để thể hiện quan điểm, trải nghiệm và thẩm mỹ riêng. Mikhail Bakhtin, với “Lý
thuyết đối thoại”
(Диалогизм), bổ sung một chiều kích quan trọng: mọi văn bản đều tồn tại trong
một mạng lưới đối thoại liên văn bản. Văn bản không chỉ phản ánh ảnh hưởng mà
còn phản biện, phê phán, thậm chí biến đổi nguồn cảm hứng ban đầu. Nhờ lý
thuyết này, có thể nhận thấy thơ văn xuôi Việt Nam vừa tiếp nhận những thành
tựu của thơ văn quốc tế, vừa chủ động tham gia vào cuộc đối thoại văn hóa – tạo
nên những tiếng nói riêng biệt, vừa nối kết với truyền thống, vừa bộc lộ tinh
thần hiện đại.
Kết hợp lý thuyết của
Bloom và Bakhtin, ta thấy rằng ảnh hưởng văn học là một chuỗi tương tác phức
tạp: tác giả Việt Nam hấp thụ, điều chỉnh, phản biện và tái tạo các yếu tố nước
ngoài, từ đó hình thành bản sắc văn học riêng. Đây chính là cơ sở lý luận để
phân tích các tác phẩm thơ văn xuôi Việt Nam, giúp nhận diện những “dấu ấn quốc
tế” vừa được tiếp nhận, vừa biến đổi sáng tạo trong từng ngôn từ, hình thức và
nhịp điệu nghệ thuật.
Đồng
thời, lý thuyết liên văn bản của nhà lý thuyết văn học Pháp Gérard Genette
(1930–2018) mở ra cách nhìn thơ văn xuôi như một hiện tượng đối thoại liên tục
với các văn bản khác. Genette đã trình bày lý thuyết này trong nhiều công trình
quan trọng, tiêu biểu là “Palimpsestes: La littérature au second degré”
(tạm dịch: Văn học phái sinh – Bản thảo viết chồng), trong đó ông giới thiệu và
phát triển khái niệm liên văn bản, tức tổng thể các mối quan hệ tồn tại giữa hai
hoặc nhiều văn bản. Ông phân loại các mối quan hệ này thành năm loại: liên văn
bản trực tiếp như trích dẫn, ám chỉ (intertextualité), yếu tố bên ngoài như
tiêu đề, lời giới thiệu (paratextualité), bình luận, phê phán văn bản khác
(metatextualité), văn bản phái sinh, chuyển thể, biến thể (hypertextualité), và
mối quan hệ giữa văn bản và thể loại (architextualité). Genette sử dụng khái
niệm “bản thảo viết chồng” (palimpseste) để minh họa rằng một văn bản mới có
thể “viết lại” hoặc “ghi đè” lên văn bản cũ, nhưng vẫn giữ lại dấu vết của văn
bản gốc. Tác phẩm nhấn mạnh rằng mọi văn bản đều tồn tại trong mối quan hệ liên
văn bản, và việc phân tích các mối quan hệ này giúp hiểu rõ cách thức hình
thành, tiếp nhận và phát triển của văn học.
Ngoài
ra, trong cuốn “Discours du récit” (1983, được dịch sang tiếng Việt với nhan đề
“Diễn ngôn tự sự”) của
nhà lý thuyết văn học Pháp Gérard Genette (1930–2018), phân biệt rõ hai khía
cạnh cơ bản của văn bản tự sự: câu chuyện (nội dung sự kiện) và diễn ngôn (cách
kể chuyện). Genette phân tích các yếu tố như trật tự, tốc độ và tần suất kể
chuyện, điểm nhìn, và vai trò của người kể, đồng thời nhấn mạnh rằng cách kể
chuyện không chỉ truyền đạt sự kiện mà còn tác động trực tiếp đến ý nghĩa và
trải nghiệm của người đọc, do đó việc phân tích diễn ngôn là chìa khóa để hiểu
văn bản tự sự. Tác phẩm này trở thành nền tảng cho lý thuyết phân tích cấu trúc
tự sự hiện đại, cung cấp công cụ quan trọng để nghiên cứu thủ pháp nghệ thuật
và sự vận động của ngôn ngữ kể chuyện. Ngoài ra, Genette cũng khẳng định rằng
mọi văn bản đều tồn tại trong mối quan hệ liên văn bản, thông qua các dạng thức
như trích dẫn, ám chỉ, chuyển thể hay biến thể. Trong bối cảnh thơ văn xuôi,
điều này cho thấy thể loại không chỉ phát triển dựa trên sáng tạo cá nhân mà còn
gắn kết với lịch sử văn học toàn cầu, từ kinh điển cổ điển phương Đông, trường
ca phương Tây, đến những văn bản hiện đại và đương đại.
Tính
chất “giao thoa” văn bản này cho phép thơ văn xuôi tồn tại trong dòng chảy đối
thoại bất tận của văn học thế giới, vừa tiếp nhận, vừa biến đổi và tái tạo các
hình thức, giọng điệu, thủ pháp biểu đạt. Đồng thời, điều này cũng nhấn mạnh
tính chất mở và linh hoạt của thể loại, nơi tác giả có thể vừa kế thừa truyền
thống, vừa khai thác sáng tạo các nguồn cảm hứng đa dạng, từ đó hình thành
những bản sắc và tiếng nói riêng. Trong bối cảnh Việt Nam, cách tiếp cận này
giúp lý giải quá trình hội nhập và sáng tạo của thơ văn xuôi: các tác giả Việt
Nam không chỉ tiếp nhận tinh hoa từ văn học quốc tế mà còn chủ động biến đổi,
phản biện và kiến tạo những giá trị thẩm mỹ đặc thù, phù hợp với ngôn ngữ, lịch
sử và trải nghiệm văn hóa dân tộc. Như vậy, lý thuyết liên văn bản của Gérard Genette
không chỉ cung cấp công cụ phân tích các mối quan hệ giữa văn bản, mà còn làm
rõ bản chất mở, đối thoại và liên tục phát triển của thơ văn xuôi, giúp kết nối
các trục lý thuyết trước đó.
Cuối
cùng, từ góc nhìn ngôn ngữ học thi pháp của nhà ngôn ngữ học Hoa Kỳ gốc Nga
Roman Jakobson (1896–1982), nghiên cứu phân biệt rõ ngôn ngữ của thơ văn xuôi
với văn xuôi thông thường. Jakobson đã phát triển khái niệm “chức năng thi
pháp” (poetic function) trong giao tiếp ngôn ngữ, được trình bày chi tiết trong
bài viết “Closing Statement: Linguistics and Poetics”
(tạm dịch: Lời kết: Ngôn ngữ học và thi pháp học).
Ông phân tích cách thức ngôn ngữ được sử dụng trong văn học, đặc biệt là trong
thơ, để tạo ra hiệu ứng thẩm mỹ: ngôn ngữ không chỉ truyền đạt thông tin mà còn
khơi gợi hình ảnh, âm thanh, nhịp điệu và biểu tượng. Chính ở cấp độ ngôn ngữ
này, thơ văn xuôi thể hiện sức mạnh nội sinh, cho phép văn xuôi vượt khỏi tính
miêu tả thuần túy và mở ra những tầng ý nghĩa, chiều sâu thẩm mỹ đặc trưng. Nhờ
vậy, Jakobson giúp phân biệt ngôn ngữ thơ văn xuôi với văn xuôi thông thường,
đồng thời cung cấp công cụ lý thuyết quan trọng để phân tích thủ pháp ngôn ngữ
và sức biểu đạt thẩm mỹ trong văn học.
Tổng
hợp các hệ thống lý thuyết nêu trên, nghiên cứu thơ văn xuôi Việt Nam trong
tương quan quốc tế không chỉ dừng lại ở việc mô tả hay liệt kê các ảnh hưởng mà
còn hướng đến việc giải thích bản chất sáng tạo, các quy luật tiếp biến, cũng
như vị trí của thể loại này trong tiến trình thi ca hiện đại. Lối tiếp cận này
cho phép phân tích một cách có hệ thống cách thức thơ văn xuôi tiếp nhận,
chuyển hóa và khai thác các nguồn cảm hứng từ văn học quốc tế, đồng thời vừa
gắn kết với truyền thống, vừa phát triển những đặc trưng ngôn ngữ, thi pháp và
thẩm mỹ riêng của văn học Việt Nam. Như vậy, nghiên cứu không chỉ làm rõ giá
trị lịch sử, văn hóa và thẩm mỹ của thể loại, mà còn đặt thơ văn xuôi Việt Nam
trong mối quan hệ đối thoại liên tục với dòng chảy văn học hiện đại.
4. Nguồn gốc và định hình thể loại
Như đã điểm xuyết trong
phần Mở đầu, thơ văn xuôi có cội nguồn xa xưa trong lịch sử văn hóa nhân loại,
từ những áng trường ca cổ đại như Sử thi Gilgamesh cho đến các hình thức kể
chuyện bằng văn xuôi ở các nền văn hóa khác, và trải qua quá trình tiếp biến
liên tục, thể loại này dần dần được định hình trong phong cách hiện đại, vừa kế
thừa truyền thống vừa mở rộng khả năng biểu đạt thẩm mỹ và ngôn ngữ. Sử thi
Gilgamesh, vùng Lưỡng Hà, là dấu mốc lịch sử của văn học cổ đại, cho thấy những
nguyên lý về nhịp điệu và thủ pháp ngôn ngữ đã góp phần hình thành cơ sở thẩm
mỹ cho thơ văn xuôi sau này. Sử thi kể về vua Gilgamesh của Uruk, người có sức
mạnh siêu phàm nhưng bạo ngược. Các vị thần tạo ra Enkidu để kiềm chế ông; sau
khi giao đấu, họ trở thành bạn thân và cùng nhau giết quái vật Humbaba và Thiên
ngưu. Các thần trừng phạt bằng cái chết của Enkidu, khiến Gilgamesh tuyệt vọng
đi tìm bí mật trường sinh. Ông gặp Utnapishtim – người sống sót sau Đại hồng
thủy và được ban bất tử – nhưng cuối cùng hiểu rằng con người không thể thoát
khỏi cái chết. Trở về Uruk, Gilgamesh chấp nhận kiếp người hữu hạn, để lại di
sản qua thành tựu và ký ức. Tác phẩm là hành trình từ quyền lực và tình bạn đến
mất mát và sự giác ngộ rằng ý nghĩa đời người không nằm ở bất tử mà ở những gì
được để lại. Qua đó, Sử thi Gilgamesh phản ánh những giá trị nhân văn cổ đại, minh
chứng cho nguyên lý cấu trúc và nhịp điệu trong văn xuôi, mở ra cơ sở thẩm mỹ
và nghệ thuật kể chuyện mà thơ văn xuôi hiện đại kế thừa và phát triển.
Sử thi Ramayan (khoảng
500–100 TCN) của Ấn Độ, gồm 24.000 câu thơ đôi trong 7 tập, kể về hoàng tử Rama
của Ayodhya. Vì lời hứa của vua cha Dasaratha với hoàng hậu Kaikeyi, Rama bị
đày 14 năm vào rừng cùng vợ Sita và em trai Lakshmana. Trong thời gian đó, Sita
bị quỷ vương Ravana ở Lanka bắt cóc. Rama liên minh với vua khỉ Sugriva và
tướng khỉ Hanuman, đem quân đánh Ravana và giải cứu Sita. Sau chiến thắng, Rama
nghi ngờ tiết hạnh của Sita; nàng bước vào lửa để chứng minh sự trong sạch và
được thần lửa Agni cứu thoát, khiến Rama chấp nhận. Cả hai trở về Ayodhya trong
niềm hân hoan của dân chúng. Tác phẩm ngợi ca lý tưởng anh hùng Rama, lòng
chung thủy và hy sinh của Sita, sức mạnh trung thành của Hanuman, đồng thời
phản ánh khát vọng công lý, đạo đức và sự chiến thắng cái ác. Với giá trị nhân
văn và triết lý sâu sắc, Ramayana trở thành một trong hai sử thi vĩ đại nhất
của Ấn Độ, có ảnh hưởng lâu dài đến văn học, nghệ thuật và tư tưởng Ấn Độ cũng
như nhiều nước châu Á. Ramayana là bản anh hùng ca về Rama và Sita, ca ngợi
tình yêu, đạo nghĩa, lý tưởng anh hùng và khát vọng chiến thắng cái ác của nhân
loại.
Tiếp theo là sử thi
Mahabharata của Ấn Độ, thường gắn với tên tuổi nhà hiền triết Vyāsa,
được hình thành từ khoảng thế kỷ 5 TCN đến thế kỷ 4 CN. Sử thi dài hơn 200.000
câu thơ, gấp tám lần Iliad và Odyssey cộng lại. Nội dung chính xoay quanh cuộc
chiến 18 ngày ở Kurukshetra giữa hai dòng họ hoàng tử: Pandava và Kaurava, hậu
duệ của vua Bharata. Trường ca không chỉ kể trận chiến và số phận các nhân vật,
mà còn chứa đựng nhiều truyện thần thoại, ngụ ngôn, triết lý và giáo lý tôn
giáo. Phần nổi bật nhất là Bhagavad Gita (Chí Tôn Ca) – cuộc đối thoại giữa anh
hùng Arjuna và thần Krishna, bàn về đạo lý sống, nghĩa vụ (dharma), nghiệp
(karma), giải thoát (moksha). Mahabharata được coi như “đại bách khoa toàn thư”
của văn hóa Ấn Độ, phản ánh toàn diện đời sống xã hội, tôn giáo và triết học,
với tầm tư tưởng có thể so sánh với Kinh Thánh hay kịch của Shakespeare trong
văn minh nhân loại. Mahabharata là trường ca vĩ đại về cuộc chiến Kurukshetra,
đồng thời là kho tàng triết lý, văn hóa và tín ngưỡng của Ấn Độ cổ đại.
Hai sử thi vĩ đại –
Ramayana và Mahabharata – đóng vai trò quan trọng trong tiến trình hình thành
và phát triển thơ văn xuôi. Cả hai tác phẩm cung cấp khuôn mẫu kể chuyện bằng
văn xuôi kết hợp với tinh thần thi ca, thể hiện qua nhịp điệu, điệp ngữ, đối
thoại và hình ảnh sống động, đồng thời mở rộng khả năng biểu đạt ngôn ngữ và
thẩm mỹ. Những nguyên lý này tạo nền tảng quan trọng cho sự hình thành thơ văn
xuôi, từ tự do tổ chức câu chữ, gợi nhịp điệu và biểu tượng, đến kết hợp triết
lý, giá trị nhân văn và trải nghiệm đời sống con người trong một hình thức kể chuyện
thấm đẫm chất thơ. Nhờ đó, các sử thi này đã góp phần định hình các thể loại
văn học kể chuyện hiện đại, đồng thời cung cấp cơ sở lý thuyết và thực hành cho
việc phát triển ngôn ngữ, thủ pháp và thẩm mỹ của thơ văn xuôi về sau.
Trong
văn học Trung Hoa, bài phú Ly tao (thế kỷ III TCN) của Khuất Nguyên (khoảng 340
TCN – 278 TCN) cho thấy lối diễn đạt tự do, phóng túng, đậm chất trữ tình – tự
sự, khác với hình thức thơ niêm luật chặt chẽ ở các triều đại sau. Những tác
phẩm này minh chứng rằng, ngay từ phương Đông, ranh giới giữa thơ và văn xuôi
chưa hề được xác lập dứt khoát, và chính ở vùng giao thoa ấy, mầm mống của thơ
văn xuôi đã sớm hình thành.
Trong
văn học Trung Hoa, bài phú Ly tao của Khuất Nguyên minh chứng rằng, ngay từ phương
Đông, ranh giới giữa thơ và văn xuôi chưa hề được xác lập dứt khoát; chính ở
vùng giao thoa ấy, mầm mống của thơ văn xuôi đã sớm hình thành. Tương tự, trong
văn học Nhật Bản, trường ca “Truyện Heike” (Heike Monogatari, thế kỷ 13) là áng
văn bất hủ của Nhật Bản, tiêu biểu cho thể loại chiến ký và văn học trung cận
đại. Tác phẩm kể về cuộc chiến Genpei (1180–1185) giữa hai dòng họ Taira
(Heike) và Minamoto (Genji), dẫn đến chiến thắng của Minamoto và sự sụp đổ của
Taira, đồng thời phản ánh số phận, tâm lý và nhân cách của các nhân vật lịch sử
và hư cấu. Qua 12 quyển chính và một quyển phụ, truyện mô tả cuộc sống vinh hoa
trước chiến tranh, nỗi bi ai của các nhân vật, những cảnh thương tâm và tinh
thần anh hùng, dũng cảm, sự hy sinh trước thịnh suy, sinh tử phù du. Văn phong
kết hợp văn xuôi kể chuyện với điệu ngữ, thấm đẫm chất “aware” – nỗi buồn dịu
dàng trước sự phù du của cái đẹp – tạo tiền đề cho các thủ pháp của thơ văn
xuôi. Ban đầu được truyền miệng qua các khúc hát Heike do các nhà sư mù mang
đàn tỳ bà trình diễn, Truyện Heike được Kakuichi biên soạn hoàn chỉnh năm 1371
và trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều hình thức nghệ thuật Nhật Bản, từ kịch
Noh, Kabuki, tranh khắc gỗ đến thơ haiku và văn học hiện đại.
Như
vậy, có thể nhận thấy một dòng chảy liên tục trong việc kết hợp yếu tố kể
chuyện và nhịp điệu thi ca, tạo nên nền tảng thẩm mỹ, thủ pháp và ngôn ngữ cho
sự hình thành và phát triển của thơ văn xuôi trong lịch sử văn học nhân loại.
Những tác phẩm này không chỉ phản ánh các giá trị văn hóa và nhân văn đặc trưng
của từng nền văn minh, mà còn minh chứng cho sức sống lâu bền cũng như khả năng
thích ứng và tiếp biến liên tục của thể loại thơ văn xuôi, đặc biệt ở phương
Đông, qua các thời đại.
Trường
ca Iliad và Odyssey của Homer (Hy Lạp, thế kỷ VIII TCN) là hai tác phẩm nền
tảng của văn học phương Tây, phản ánh tư tưởng và giá trị văn hóa của Hy Lạp cổ
đại. Iliad kể về cuộc chiến thành Troy, nhấn mạnh lòng dũng cảm, danh dự, xung
đột giữa các anh hùng và hậu quả của thịnh suy, chiến tranh, trong khi Odyssey
kể hành trình trở về đầy gian nan của Odysseus, khám phá lòng trung thành, trí
tuệ, sự kiên trì và ý chí con người trước số phận. Cả hai tác phẩm không chỉ
ghi nhận trường ca sử thi mà còn thể hiện ngôn ngữ kể chuyện giàu nhịp điệu,
hình ảnh sống động và đối thoại – những yếu tố gần gũi với thủ pháp thơ văn
xuôi sau này. Thông qua việc kết hợp miêu tả, kể chuyện và thủ pháp nhịp điệu,
Homer đã mở ra khả năng biểu đạt cảm xúc, trải nghiệm và triết lý sống của con
người, đồng thời tạo nền tảng cho các thể loại văn học kể chuyện sử thi và tự
sự sau này. Như vậy, Iliad và Odyssey không chỉ là biểu tượng văn hóa của Hy
Lạp cổ đại mà còn góp phần định hình cấu trúc, nhịp điệu, và hình thức kể
chuyện trong thơ văn xuôi, mở rộng phạm vi biểu đạt từ việc ghi lại sự kiện
lịch sử, chiến công anh hùng, đến việc phản ánh triết lý nhân sinh và tâm lý
nhân vật một cách sinh động.
Kinh
Thánh Kitô giáo được xem là một trong những tác phẩm thơ văn xuôi bất hủ của
nhân loại, với ảnh hưởng sâu rộng đến văn học, nghệ thuật và tư tưởng. Kinh
Thánh hình thành trong khoảng thời gian dài, từ thế kỷ 12 TCN đến thế kỷ I CN,
gồm nhiều sách do nhiều tác giả biên soạn, chia thành Cựu Ước và Tân Ước. Cựu
Ước tập trung vào lịch sử và niềm tin của dân Do Thái, ghi lại luật pháp, lời
tiên tri, ngụ ngôn, thánh vịnh, và tiên báo về Đấng Cứu Thế sẽ đến. Tân Ước
xoay quanh Chúa Giêsu Kitô: cuộc đời, lời giảng dạy, cuộc khổ nạn trên thập giá
và sự phục sinh của Ngài, khẳng định Ngài là Đấng Cứu Thế, trung tâm của lịch
sử cứu độ. Như vậy, toàn bộ Kinh Thánh không chỉ xoay quanh sự hy tế mà rộng
hơn, kết hợp Cựu Ước chuẩn bị và tiên báo, Tân Ước kể lại và khẳng định chương
trình cứu độ của Thiên Chúa, với đỉnh cao là cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa
Giêsu. Dù đa dạng về thể loại – sử ký, luật pháp, tiên tri, ngụ ngôn, tường
thuật – Kinh Thánh nổi bật ở chỗ kết hợp văn xuôi kể chuyện với nhịp điệu, hình
ảnh và biểu tượng đặc trưng của ngôn ngữ thi ca. Những câu chuyện về Abraham,
Moses, David, hay các dụ ngôn trong Phúc Âm không chỉ truyền tải giá trị đạo
đức, triết lý và tín ngưỡng mà còn thể hiện thủ pháp kể chuyện giàu nhịp điệu,
đối thoại, và hình ảnh sống động. Nhờ vậy, Kinh Thánh đã trở thành nguồn cảm
hứng lâu dài cho văn học tự sự và thơ văn xuôi, góp phần hình thành những
nguyên tắc về cấu trúc, thủ pháp biểu đạt và tính thẩm mỹ trong thể loại này.
Tuy
nhiên, phải đến thế kỷ XIX, thơ văn xuôi mới được ý thức và khẳng định như một
thể loại độc lập, gắn liền với các cách tân thi pháp của văn học phương Tây.
Nhà thơ Pháp Aloysius Bertrand với tập thơ “Gaspard de la Nuit” (Người giữ báu vật của đêm) được coi là
người khởi xướng thơ văn xuôi hiện đại, nhưng chính nhà thơ Pháp Charles Baudelaire
mới là người khai sinh ý thức thể loại này một cách đầy tự giác.
Tập
thơ “Petits poèmes en prose” (Những bài thơ nhỏ bằng văn xuôi) của C.
Baudelaire gồm 50 đoản thi văn xuôi, khắc họa những mảnh đời thường nhật của đô
thị Paris thế kỷ XIX: người lang thang, gái điếm, nghệ sĩ, trẻ nhỏ, kẻ say,
người nghèo khổ... cùng những cảnh huống nơi phố xá, quán rượu, quảng trường...
Qua đó, Baudelaire phơi bày tâm trạng bất an, nỗi buồn u uất, sự lạc lõng của
con người trong xã hội hiện đại, đồng thời vẫn khát khao vươn tới cái đẹp và sự
cứu rỗi bằng nghệ thuật. Đây là tác phẩm tiên phong trong việc khai phá kiểu
thức thơ văn xuôi, giải phóng ngôn từ khỏi ràng buộc vần luật, đồng thời giàu
nhạc tính, hình ảnh và nhịp điệu, kết hợp hài hòa giữa chất trữ tình và suy
tưởng triết lý. Với ngôn ngữ giàu biểu tượng, tập thơ trở thành nền tảng cho
chủ nghĩa Tượng trưng và thơ hiện đại sau này, để lại ảnh hưởng sâu rộng đến
nhiều thế hệ thi sĩ châu Âu và thế giới. Dưới đây là trọn vẹn đoản thi số 3 rút
từ tập thơ của Charles Baudelaire:
TỰ
THÚ CỦA NGHỆ SĨ
Chiều
cuối thu thấm thía đến nhói đau. Những cảm giác tinh tế, mơ hồ không làm giảm
cường độ; mũi nhọn của Vô cùng chẳng gì sắc bén hơn. Tôi chìm đắm trong bao la
giữa trời và biển. Cô đơn. Im lặng. Sự tinh khiết vô song của bầu trời xanh.
Một cánh buồm run rẩy nơi chân trời, bé nhỏ, cô lập, như mô phỏng sự tồn tại
không thể cứu vãn của tôi. Khúc đơn điệu của sóng, thoáng qua suy tư tôi, hay
tôi trượt qua chúng. Chúng suy tư, nhưng âm nhạc, hình họa, không lý lẽ, không
suy luận, không kết thúc.
Nhưng
những suy tư ấy, từ tôi hay từ vật thể, mau chóng dữ dội. Năng lượng trong
khoái cảm tạo ra khó chịu, đớn đau. Dây thần kinh căng thẳng giờ chỉ còn rung
lên chói gắt.
Độ
sâu của bầu trời làm tôi choáng váng, sự trong sáng của nó làm tôi bực bội. Sự vô
cảm của biển, sự bất biến của cảnh vật khiến tôi nổi giận… Phải chăng con người
sẽ phải chịu đựng mãi, hay chạy trốn vẻ đẹp vĩnh cửu kia?
Thiên
nhiên – nữ phù thủy không thương xót, đối thủ luôn chiến thắng – hãy buông tôi
ra! Ngưng thử thách những khao khát của tôi và lòng kiêu hãnh! Việc thấu cảm vẻ
đẹp là một trận đấu, nơi nghệ sĩ hét lên sợ hãi trước khi phải phục tùng.
(Ngọc Mai dịch từ bản
tiếng Pháp)
Đoản
thi “Tự thú của nghệ sĩ” đã biến thiên nhiên thành đối tượng phản chiếu và thử
thách tâm hồn, nơi cái đẹp, cô đơn và ý thức cùng đồng hiện, thúc đẩy suy tưởng
triết lý mà vẫn giữ nhịp điệu trữ tình. Thơ văn xuôi ở đây giải phóng ngôn từ
khỏi ràng buộc hình thức, để âm thanh, nhịp điệu và hình ảnh trở thành phương
tiện truyền đạt cảm xúc. Tác phẩm mở ra cách tiếp cận thẩm mỹ nơi trải nghiệm
nội tâm hòa hợp với hiện thực, giữa khoái cảm và đau đớn, giữa hữu hạn con
người và vô tận thiên nhiên. Nó cho thấy sức mạnh của thơ văn xuôi trong việc
chuyển tải những trạng thái tinh thần phức tạp, sâu sắc và đa lớp, đồng thời
gợi mở những suy ngẫm về bản chất sáng tạo và thẩm mỹ nghệ thuật.
Tiếp
đến, Arthur Rimbaud với tập thơ “Illuminations” (tạm dịch: Ánh sáng, có bản dịch là Cảm giác, 1874)
đánh dấu bước ngoặt trong sự phát triển của thơ hiện đại và thơ văn xuôi. Về tư
tưởng, tập thơ thể hiện thái độ phá vỡ tính truyền thống, giải phóng ngôn ngữ
khỏi các khuôn mẫu cổ điển, hướng tới tự do khám phá cảm giác, trực giác và
tiềm thức. Rimbaud khắc họa thế giới nội tâm đa chiều, vừa huyền ảo vừa thực
tế, vừa cá nhân vừa phổ quát, mở ra những trải nghiệm mới về con người, xã hội
và vũ trụ. Tập thơ nổi bật với phần thơ văn xuôi, kết hợp nhịp điệu với tự do
câu chữ, hình ảnh sống động, ánh sáng, màu sắc, và các ẩn dụ phong phú. Tác giả
sử dụng tự sự mơ hồ, không giới hạn liên tưởng, đối thoại và đối lập, tạo cảm
giác vừa kể vừa chiêm nghiệm, khiến người đọc trải nghiệm cảm giác trực tiếp
thay vì logic trật tự. Tập thơ trở thành mô hình điển hình cho việc xóa nhòa
ranh giới giữa thơ và văn xuôi, đồng thời ảnh hưởng sâu rộng đến các thế hệ nhà
thơ tượng trưng, siêu thực và hiện đại cùng thời và sau này.
Nếu
Arthur Rimbaud mở ra chân trời ngôn ngữ rực rỡ và siêu thực, thì Stéphane
Mallarmé (1842–1898) lại tìm đến sự tinh luyện, ám gợi, hướng thơ văn xuôi tới
miền huyền nhiệm của tư tưởng và biểu tượng. Mallarmé chủ trương “giải huyền”
hiện thực bằng cách giảm thiểu trực tả, nhường chỗ cho khoảng trống, cho những
gợi mở của ngôn từ, biến văn bản thành một mê cung của liên tưởng và ám chỉ.
Với Mallarmé, ý nghĩa không nằm ở câu chữ hiển lộ mà ở sự im lặng, sự gián
đoạn, ở cách ngôn từ vang vọng trong tâm thức người đọc. Chính tư duy này đã
góp phần đặt nền móng cho các trường phái nghệ thuật hiện đại, đồng thời khẳng
định khả năng của thơ văn xuôi như một ngôn ngữ nghệ thuật của sự huyền nhiệm
và tinh thần.
Bên
kia Đại Tây Dương, nhà thơ Hoa Kỳ Walt Whitman với tập thơ “Leaves of Grass”
(Lá cỏ, 1855, tái bản nhiều lần) đã kiến tạo một hình thức thơ tự do mang hơi
thở của văn xuôi nhưng vẫn ngân vang nhạc điệu. Cấu trúc câu thơ dài, phi niêm
luật, giàu tính liệt kê và nhấn điệp, kết hợp hài hòa giữa chất hùng ca và đời
thường, giúp thơ của Whitman vừa gần gũi, vừa mang tính khai phá. Với việc
khẳng định cái tôi cá nhân, đồng thời mở ra tầm nhìn phổ quát, tác phẩm của ông
đã đưa thơ ca ra khỏi khuôn khổ truyền thống, mở đường cho sự hình thành của
thơ văn xuôi và nhiều thể nghiệm thi pháp hiện đại sau này.
“Trong sáng ngọt ngào là linh hồn tôi,
và tất cả những gì không phải hồn tôi cũng đều ngọt ngào trong sáng
Thiếu một thì thiếu cả hai, cái vô hình
được chứng minh bởi cái hữu hình
Cho đến khi hữu hình thành vô hình và
được chứng minh trở lại
Phô phang những điều hay ho nhất, tách
bạch điều hay điều dở, các thời đại làm mếch lòng nhau
Thấu hiểu sự an bài và sự trường tồn
tuyệt vời của muôn vật, khi người ta tranh cãi, tôi lặng im, đi tắm và giở thân
thể mình ra ngắm
Xin chào mỗi cơ quan, mỗi thuộc tính của
người tôi, và của bất cứ ai có lòng và trong sạch
Không một mẩu nào, một chút xíu nào là
hạ tiện và kém thân thương so với phần còn lại trong người
Tôi thoả thích, tôi nhìn, tôi múa, cười
và hát
Khi người bạn cùng giường suốt đêm ngủ
bên tôi yêu thương ôm ấp và lúc tinh mơ nhẹ bước rút lui
Để lại cho tôi những sọt phủ trắng khăn
bông, ngồn ngộn quanh mình cảnh nhà sung túc
Lẽ nào tôi hoãn tiếp thu, hoãn ghi nhận
và thét hai con mắt
Phảu quay nhìn nơi khác, không được dán
xuống đường theo dõi người đi
Và tức thì tính toán cho tôi xem không
một xu sai sót
Thật chi li giá trị thứ này, giá trị thứ
kia, và trong hai thứ, thứ nào hơn?”
(Bài
hát chính tôi – Bản dịch của Vũ Cận)
Whitman
dung hòa giữa trải nghiệm cá nhân và cảm quan vũ trụ. Ở ông, đời sống thường
nhật, thân thể và những chi tiết tưởng chừng “tầm thường” lại được nâng lên
thành biểu tượng của sự tồn tại thiêng liêng. Nhà thơ không phân biệt cao –
thấp, tinh thần – vật chất, hữu hình – vô hình; tất cả đều gắn bó trong vòng
tuần hoàn bất tận. Giọng thơ phóng túng, chan chứa niềm vui sống, khẳng định
tính thiêng liêng của cơ thể con người, đồng thời mở ra tầm nhìn khoáng đạt về
sự hòa hợp giữa cái tôi cá nhân và vũ trụ. Chính sự hòa quyện giữa trực giác
đời thường và chiều sâu triết lý đã khiến thơ ông tạo bước ngoặt quan trọng
trên hành trình hoàn thiện thơ văn xuôi hiện đại.
Ảnh
hưởng của Whitman không dừng ở phạm vi Hoa Kỳ, mà lan tỏa mạnh mẽ ra thế giới,
trong đó có châu Á và Việt Nam, nơi các thi sĩ đầu thế kỷ XX tìm cách giải
phóng câu thơ khỏi niêm luật cổ điển, mở ra không gian biểu đạt mới cho cái tôi
cá nhân và cho cảm thức hiện đại. Các học giả quốc tế nhìn nhận Walt Whitman
như một nhân tố trung tâm mở rộng ranh giới thể loại, góp phần quan trọng vào
quá trình hình thành thơ văn xuôi như một xu hướng toàn cầu. Từ Walt Whitman,
thơ văn xuôi không còn là thử nghiệm rời rạc mà trở thành dòng chảy sáng tạo
mạnh mẽ và liên tục, ảnh hưởng sâu rộng đến thơ hiện đại, từ Ezra Pound,
T. S. Eliot ở
phương Tây đến nhiều nhà thơ phương Đông trong thế kỷ XX.
Bước
sang thế kỷ XX, thơ văn xuôi chịu ảnh hưởng sâu rộng từ các trào lưu nghệ thuật
trên thế giới. Chủ nghĩa siêu thực, với khát vọng giải phóng vô thức và tưởng
tượng, đã tạo nên những văn bản giàu hình tượng phi lý, dồn nén sức gợi. Ở Mỹ
Latin, sự kết hợp giữa di sản văn hóa dân gian và tinh thần siêu thực đã sản
sinh phong cách hiện thực huyền ảo, không chỉ làm nên diện mạo độc đáo của tiểu
thuyết mà còn để lại dấu ấn rõ nét trong thơ văn xuôi. Chính tại đây, thể loại
cho thấy sức mạnh dung hợp, khi có thể đồng thời phản ánh hiện thực và nâng hiện
thực ấy lên tầm biểu tượng kỳ ảo.
Thơ
văn xuôi quốc tế, từ nguồn gốc cổ đại đến hiện đại, đã trở thành dòng chảy
phong phú với những đặc điểm nổi bật: giải phóng hình thức khỏi vần luật, khẳng
định tính tự do trong sáng tạo; khai thác ngôn ngữ giàu hình tượng và nhịp điệu
nội tại; dung hợp tự sự, trữ tình, triết luận; đồng thời mở rộng sức lan tỏa
toàn cầu. Những đóng góp của Baudelaire, Whitman, các trào lưu siêu thực, hiện
thực huyền ảo, cùng với truyền thống thơ văn xuôi phương Đông đã tạo nên bức tranh
ảnh hưởng đa chiều. Trong tiến trình ấy, thơ văn xuôi Việt Nam không chỉ tiếp
nhận mà còn chủ động biến đổi, Việt hóa và sáng tạo, để vừa hội nhập vừa khẳng
định bản sắc dân tộc. Việc đặt thơ văn xuôi Việt Nam trong tương quan quốc tế
cho thấy hiện đại hóa thi ca là sự tiếp thu tinh hoa Đông – Tây, đồng thời là cuộc
đối thoại khu vực, từ đó khẳng định vị trí độc đáo của thể loại này trong dòng
chảy văn học thế giới.
5. Thơ văn xuôi Việt Nam giai đoạn (1932–1945)
Phong
trào Thơ mới (1932–1945) mở ra một cuộc cách mạng thi ca chưa từng có trong
lịch sử văn học Việt Nam. Từ dấu mốc bài thơ “Tình
già” của Phan Khôi
đăng trên Phụ nữ Tân văn
năm 1932, thơ ca Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ giải phóng hình thức và ý
thức cá nhân. Thơ mới không chỉ phá vỡ niêm luật gò bó của thơ Đường luật, mà
còn khẳng định cái tôi cá nhân như trung tâm sáng tạo, thể hiện những tình cảm
riêng tư, những khao khát và trải nghiệm trực tiếp của con người hiện đại.
Trong dòng chảy ấy, thơ văn xuôi xuất hiện như một thử nghiệm thể loại, góp
phần làm phong phú diện mạo Thơ mới và tạo nền tảng cho những sáng tạo sau này.
TÌNH
GIÀ
Hai mươi bốn năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa
mưa,
Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ, hai cái
đầu xanh kề nhau than thở:
- “Ôi đôi ta, tình thương nhau thì vẫn nặng,
mà lấy nhau hẳn đà không đặng:
Để đến nỗi tình trước phụ sau, chi bằng sớm
liệu mà buông nhau!”
- “Hay nói mới bạc làm sao chớ! Buông nhau
làm sao cho nỡ?
Thương được chừng nào hay chừng ấy, chẳng qua
ông Trời bắt đôi ta phải vậy!
Ta là nhân ngãi, đâu phải vợ chồng, mà tính
chuyên thuỷ chung!”
*
Hai mươi bốn năm sau, tình cờ đất khách gặp
nhau:
Đôi cái đầu đều bạc. Nếu chẳng quen lung, đố
có nhìn ra được?
Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi,
con mắt còn có đuôi.
(1932)
“Tình già” của Phan Khôi
là bài thơ mang tính mở đường, cũng là bản tuyên ngôn nghệ thuật bằng hình
tượng; ở đó, nhà thơ dám chạm đến một thứ tình cảm bị xã hội phong kiến coi là
“trái đạo”: tình yêu đôi lứa ngoài khuôn khổ hôn nhân. Nhưng điều quan trọng
hơn là ông đã trao cho tình yêu ấy tiếng nói bình dị, không hoa mỹ, không ước
lệ. Cái “bình dị” ấy lại chính là điều mới mẻ, vì nó đặt đời sống thực, với
những dở dang, bất lực và sự thủy chung mong manh vào trung tâm thi ca. Điểm
đặc biệt của “Tình già” còn nằm ở giọng điệu đối thoại, tái hiện cuộc trò
chuyện đời thường mà giàu sức khái quát; Đó không còn là sự độc thoại của thi
nhân trong khung cảnh thiên nhiên như truyền thống, mà là hai cá thể đang trực
diện trò chuyện về tình yêu, về sự bất lực trước số phận. Nhờ vậy, bài thơ đã
tạo bầu khí nhân bản, nơi tình yêu không bị lý tưởng hóa hay lên án, mà được thừa
nhận như một phần tự nhiên của kiếp người. Sức mạnh của tác phẩm nằm ở sự kết
hợp giữa lối nói giản dị và chiều sâu cảm xúc. Câu chữ ngắn gọn, có khi gần như
lời ăn tiếng nói hằng ngày, nhưng đằng sau là cả một bi kịch âm thầm của con
người hiện đại: tình yêu đối diện với thời gian, với định kiến xã hội, và với
sự hữu hạn của kiếp sống. Chính ở đó, bài thơ không chỉ phá bỏ một công thức
nghệ thuật cũ, mà còn đưa thơ ca đến gần hơn với đời sống. Có thể xem “Tình
già” như cánh cửa mở ra một thi pháp mới, nơi ngôn ngữ bình dân cũng có thể trở
thành ngôn ngữ thơ, nơi tình cảm riêng tư của cá nhân được coi là giá trị nghệ
thuật. Từ cuộc gặp gỡ muộn màng của đôi tình nhân, bài thơ đã khơi gợi chân
trời mới cho thi ca Việt Nam: thi ca không còn là chốn cao xa của ước lệ, mà là
nơi lưu giữ những giây phút đời thường, mong manh, nhưng có sức chấn động sâu
xa đối với tâm thức cộng đồng.
Nếu đặt “Tình già” của Phan Khôi bên cạnh
những thử nghiệm cùng thời, ta sẽ thấy rõ sự khác biệt. Tản Đà, trong nhiều
sáng tác cuối đời, đã dùng giọng văn xuôi pha chất thơ, với nhịp điệu tự do và
lời văn như kể lể tâm tình. Ông không từ bỏ vần điệu, nhưng câu thơ kéo dài,
mang hơi hướng miêu tả, giãi bày. Chẳng hạn: “Người ta lúc mới sinh
mà tình cũng sinh, rồi hình thể mỗi ngày mỗi nhớn./ Tri giác hẹp mà thuần thời
tình ít; tri giác rộng mà tạp thời tình nhiều./ Tình ít cho nên có ran ríu thời
thương, có biệt ly thời nhớ; không thương người không biết, không nhớ người vu
vơ.” (Đưa thư). Đây
là một bước mở, thoát khỏi niêm luật Đường thi, đưa ngôn ngữ đời thường hòa
nhập vào cảm xúc thi ca.
Thanh
Tịnh trong “Tôi đi học” lại
mang đến một dạng văn xuôi đằm thắm, nhạc tính mềm mại, giàu hình tượng. Đoạn
mở đầu: “Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và
trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang
mang của buổi tựu trường./ Tôi không thể nào quên được những cảm giác trong
sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời
quang đãng.” (Tôi đi học) – vừa giản dị, vừa được
sắp đặt nhịp điệu du dương. Đây là minh chứng tiêu biểu cho khả năng “thơ hóa”
của văn xuôi.
Ở Tương Phố, chất thơ văn
xuôi hiện ra trong giọng buồn man mác, ít lệ thuộc vào niêm luật. Đoạn thơ văn
xuôi “Anh vui non nước bấy lâu, bụi hồng khuất nẻo dứt đường cá
chim, trông bốn phương trời mây buồn vơ vẩn, em còn biết đâu là lối phượng bay
mà tìm. Chốn phòng loan từ thủa vắng anh, lệch làn chăn gối đượm sầu, giường
xưa chiếu cũ nghiêng xiêu, thu đông đến chẳng cùng em ân ái nữa. Giấc cô miên
trằn trọc suốt canh dài mắt muốn nhắm đi, lòng nào có ngủ, đường kia nỗi nọ,
trăm năm tâm sự, khôn đem hồn mộng gửi chiêm bao!” (Giọt lệ thu) gợi cảm giác nhung nhớ sâu lắng, nỗi cô đơn triền
miên và sự bâng khuâng trước thời gian, đồng thời cho thấy khả năng biểu đạt tự
nhiên, mềm mại của văn xuôi khi truyền tải trạng thái nội tâm phong phú. Tuy
nhiên, “Giọt lệ thu” của bà vẫn còn mang dấu ấn vần điệu cổ điển, chưa dứt
khoát rời khỏi truyền thống, nhưng chính sự kết hợp giữa nhịp điệu cũ và lối
diễn đạt tự do, linh hoạt đã mở ra hướng đi mới, gợi ý cho những thử nghiệm sâu
hơn của thơ văn xuôi hiện đại về sau.
Xuân Diệu trong những câu
thơ văn xuôi như “Trái sắp đậu thì hoa
phải tàn, nếu hạt thóc không chết đi, thì cây lúa cũng không sống, em cũng biết
rằng ta muốn ôm em lại mãi, nhưng có thể như thế được đâu. Thế là em đi, còn ta
thui thủi về một mình, con đường thơ mộng đã trở thành con đường đời, ta bước
đau thương, vì lòng ta trống cả em! Ta không muốn quay đầu lại nhìn; em đi rồi,
ta phải thành một người lớn, phải siêng năng chứ, nào là công việc, nào là cuộc
sống, nào là cái đời...” (Giã từ tuổi nhỏ) bộc lộ cái tôi bùng nổ, trực
tiếp, gần gũi với nhịp điệu đời thường. Ngôn ngữ thơ giản dị, tự nhiên nhưng
giàu hình ảnh và cảm xúc, vừa thể hiện nỗi cô đơn, sự trống trải sau chia ly,
vừa phản ánh quá trình trưởng thành đầy giằng xé của con người trước thực tại.
Qua đó, Xuân Diệu mở rộng khả năng biểu đạt của thơ, phá vỡ ranh giới giữa mộng
mơ và đời sống, giữa nhịp điệu cổ điển và giọng nói hiện đại, góp phần định
hình những thử nghiệm ban đầu của thơ văn xuôi.
Yến Lan xây dựng một nhịp
điệu tuần hoàn, thiên về kể – tả hơn là bộc lộ cảm xúc cá nhân dữ dội: “Đêm qua, mùa thu sang không tiếng động./
Trăng như dồn cả về phương đông, vì ở bên tây ‘Chàng’ đang thổi sáo./ Người
chàng như đúc bằng pha lê và ống trúc chàng cầm như tiện bằng ngọc thạch.”
(Trinh bạch). Nhà thơ ghi lại những khoảnh khắc tinh tế của đời sống và thiên
nhiên, nơi hình ảnh và âm thanh hòa quyện tạo cảm giác trôi chảy, thanh thoát;
ngôn ngữ giản dị nhưng mang hiệu ứng thị giác mở ra khả năng biểu đạt mới cho
thơ văn xuôi, vừa ghi nhận thế giới xung quanh vừa mang tính thi vị, gợi hướng
tiếp cận trong những thử nghiệm.
Thơ
văn xuôi trong giai đoạn này mang tính chất thể nghiệm rõ rệt. Nó không chỉ là
văn xuôi có chất thơ, mà là một hình thức trung gian, nơi đoạn văn xuôi mang
nhịp điệu, hình tượng, biểu tượng và sự cô đọng của thơ. Các tác giả sử dụng
câu văn dài ngắn linh hoạt, giải phóng khỏi ràng buộc vần luật, nhưng vẫn giữ
nhạc tính ngầm qua nhịp điệu nội tại, sự lặp cú pháp, trường liên tưởng và độ
ngân của cảm xúc. Bằng cách đó, thơ văn xuôi trở thành “phòng thí nghiệm” nghệ
thuật, cho phép nhà thơ mở rộng biên độ biểu đạt, đồng thời thách thức và làm
mờ ranh giới giữa thơ và văn xuôi.
Sự
hình thành thơ văn xuôi trong phong trào Thơ mới là kết quả của quá trình tiếp
biến đa chiều. Một mặt, nó chịu ảnh hưởng từ các khuynh hướng thơ hiện đại
phương Tây, đặc biệt là Baudelaire, Rimbaud, Mallarmé với mỹ học tượng trưng, siêu
thực, cùng với Walt Whitman với nhịp điệu phóng túng và tinh thần dân chủ trong
ngôn từ. Mặt khác, nó vẫn gắn bó với mạch nguồn Á Đông, hấp thụ tinh thần trữ
tình, tính biểu tượng và những lớp ngôn ngữ ca dao, tục ngữ quen thuộc. Nhờ sự
dung hợp này, thơ văn xuôi Thơ mới vừa mang hơi thở hiện đại, vừa giữ được sắc
thái bản địa, trở thành bằng chứng rõ nét cho khả năng Việt hóa sáng tạo của
các nhà thơ.
Nhiều tác giả tiêu biểu
đã để lại những văn bản giàu giá trị nghệ thuật trong tiến trình thử nghiệm này.
Hàn Mặc Tử với “Chơi giữa mùa
trăng” xây dựng nhịp điệu tuôn trào, phóng túng, chứa chan hình
tượng siêu linh và tôn giáo. “Ánh sáng tràn trề, ánh sáng tràn lan,
chị tôi và tôi đều ngả vạt áo ra bọc lấy, như bọc lấy đồ châu báu... Tôi bỗng
thấy chị tôi có vẻ thanh thoát quá, tinh khôi, tươi tốt và oai nghi như pho
tượng Đức Bà Maria là đức tinh truyền chí thánh. Tôi muốn sốt sắng quỳ lạy mong
ơn bào chữa. Nhưng trời ơi, sao đêm nay chị tôi đẹp đẽ đến thế này. Nước da của
chị tôi đã trắng, mà vận áo quần bằng hàng trắng nữa, trông thanh sạch quá đi.” (Chơi giữa mùa trăng). Ngôn ngữ trở thành phương
tiện để biểu đạt trạng thái nội tâm cực đoan, sự ngây ngất trước vẻ đẹp, sự
thuần khiết và sự chuyển động của cảm giác tinh thần. Thơ của Hàn Mặc Tử gợi cảm
nhận mở rộng về thế giới, nơi ranh giới giữa thực và mộng, giữa đời sống vật
chất và chiều sâu tâm linh trở nên mờ nhạt, đồng thời mở ra khả năng khai thác
tri giác, tưởng tượng và cảm xúc cá nhân một cách tự do và phong phú.
Huy Cận, sau thành công
của “Lửa thiêng”,
tìm kiếm sự đổi mới bằng “Kinh
cầu tự”, nơi ông chuyển từ giọng sầu cảm cổ điển sang những phát
biểu trực tiếp, giàu tính triết luận, nhịp văn xuôi rõ rệt: “Và ta chớ ngạc nhiên nếu sớm mai thi sĩ sẽ
chết. Thi sĩ chết nhưng sự sống vẫn còn, trăng sao vẫn đẹp, trăng sao đã mê
chàng thi sĩ đêm đêm lại về”; “Tôi muốn lòng anh như đóa hoa gạo nở mạnh, chói
hồng, dâng lên trời xanh”; “Khi chết đi, hồn anh xanh; hồn anh xanh để rộng
khoáng với trời”, “Thi sĩ ơi! Tôi yêu anh vì anh là người cổ nhất. Cổ nhất mới
thành mới nhất được. Trong máu anh còn sôi giòng lửa sơ khai của Vũ Trụ buổi
đầu…” (Kinh cầu tự). Cách
viết giàu nhịp văn xuôi, tràn đầy khí lực, mang tính khai mở, tựa như một lời
khải thị. Những hình ảnh Huy Cận sử dụng đã đặt con người, đặc biệt là thi sĩ,
trong mối tương giao sâu xa với sự khởi nguyên và tiếp nối của vũ trụ. Sự hòa
quyện giữa cảm xúc và tư tưởng làm đoạn thơ văn xuôi tựa một nghi lễ ngôn từ,
nơi thi sĩ dâng hiến và cũng tự khẳng định vai trò của mình như một kẻ trung
gian kết nối cái hữu hạn với cái vô cùng.
Nguyễn Xuân Sanh với “Giọt
mưa rơi” “Giọt mưa rơi, mưa rơi, giọt mưa rơi... Mưa rơi kết tinh suy tưởng của
hồn ta. Tương tư của hai ta có phải cầm giữ đâu vô bờ bến? Nó thành giọt, để
đọng giọt nhớ thương. Nó nhẹ nhàng, êm ái, nhưng nó bao la như những cõi vô
cùng, hàng vạn triệu. Chiều nay ngoài khung cửa sổ đời ta, từng giọt, từng
giọt, từng giọt, nhưng ta biết lấy gì đếm được.” (Giọt mưa rơi), thể hiện sự tinh giản nhưng sâu lắng,
tái lập nhịp điệu và hình ảnh tượng trưng tạo ra không gian suy tưởng trôi
chảy, như một dòng nội tâm bất tận. Ngôn từ giản dị, nhưng từng chi tiết lại
mang sức gợi, cho phép người đọc cảm nhận được chiều sâu của cảm xúc và tri
giác, đồng thời mở ra cách tiếp cận thi pháp mới: thơ không chỉ bày tỏ tâm
trạng mà còn trở thành phương tiện để suy tư, chiêm nghiệm về đời sống và những
mối quan hệ tinh thần. Qua đó, Nguyễn Xuân Sanh góp phần khẳng định khả năng
biến thơ văn xuôi thành một hình thức biểu đạt vừa nội tâm, triết lý, vừa giàu
nhạc tính.
Đinh
Hùng trong “Cảm Thu” cũng tạo dựng những không gian thơ đượm chất suy tư, nơi
ký ức, thiên nhiên và cảm xúc hòa quyện một cách tinh tế: “Thương nhớ vì sao! Tôi
sớm giã từ hồn niên thiếu, hôm nay đi giữa cánh đồng lại thấy tuổi nhỏ của mình
tản mạn trên từng cánh bướm, sắc hoa, và chân bước đi những bước ngậm ngùi, bởi
chưng lòng tưởng con đường tan tác cánh hương của đóa xuân hồng thuở cũ.
(Cảm Thu). Thơ Đinh Hùng hướng tới việc khơi gợi những rung cảm nội tâm nhẹ
nhàng, nhịp điệu mềm mại, lúc như trôi, lúc như dừng lại để người đọc chiêm
nghiệm. Hình ảnh được chọn lọc tỉ mỉ, giàu sức gợi, khiến những trải nghiệm cá
nhân trở nên phổ quát, đồng thời mở ra chiều kích thi pháp mới: thơ văn xuôi vừa
diễn đạt cảm xúc mới lạ vừa tạo ra sự kết nối tinh tế giữa quá khứ, hiện tại và
thế giới tự nhiên. Qua đó, Đinh Hùng khẳng định khả năng biến văn xuôi thành
phương tiện để chiêm nghiệm và khám phá nội tâm.
Thơ
văn xuôi giai đoạn này dần lộ diện những đặc trưng riêng. Nhịp điệu không còn
dựa vào vần luật cổ điển, mà ẩn sâu trong độ dài câu, trong những vòng lặp và
âm vang ngân xa, khiến lời thơ mở rộng, khoáng đạt, mang nhạc tính riêng. Hình
tượng và biểu tượng nối nhau từ cõi tôn giáo, thiên nhiên đến phố thị, vừa cô
đọng, vừa hé mở những tầng nghĩa chưa khép lại. Ở đó, tự sự hòa cùng trữ tình,
triết luận xen vào cảm xúc, mở ra những cách diễn đạt mới, cho phép thi sĩ vừa
soi chiếu nội tâm, vừa đối thoại với thế giới. Ngôn ngữ được Việt hóa, gần gũi
và thân thuộc, nhưng vẫn giữ ánh sáng truyền thống trong dáng vẻ hiện đại.
Tuy
nhiên, trong khuôn khổ Thơ mới, thơ văn xuôi mới dừng lại ở mức thử nghiệm,
chưa đủ sức tạo nên một thể loại ổn định. Nhiều văn bản còn mang dấu phác thảo,
như những vệt phá cách tìm đường. Nhưng chính sự dò tìm ấy đã mở ra một “cửa
ngõ” cho thơ Việt đi vào hiện đại, đặt nền tảng cho sự triển nở mạnh mẽ ở các
thập niên tiếp theo.
Nhìn
lại, Thơ mới đã khơi dậy và phác vẽ những đường nét đầu tiên của thơ văn xuôi
Việt Nam. Dù chưa thành một dòng chảy lớn, sự hiện diện của nó vẫn phản ánh
khát vọng đổi mới, năng lực tiếp nhận và biến cải của văn học dân tộc. Từ đó,
thể loại này từng bước xác lập vị trí riêng trong thi ca hiện đại, nhất là sau
1945 và trong giai đoạn Đổi mới.
6. Thơ văn xuôi Việt Nam sau 1945
Sau Cách mạng tháng Tám, văn
học Việt Nam chứng kiến bước chuyển hướng mạnh mẽ, ưu tiên phục vụ chính trị và
kháng chiến. Trong bối cảnh này, thơ văn xuôi không trở thành dòng chủ lưu,
nhưng vẫn hiện diện dưới dạng những nỗ lực lặng lẽ, âm thầm. Nhiều tác giả tiếp
tục khai thác hình thức thơ văn xuôi để diễn đạt cảm xúc trữ tình, nhưng đồng
thời gắn chúng với ý thức sử thi và tinh thần kháng chiến. Thơ kháng chiến khắc
họa cuộc sống và tâm trạng của con người trong chiến tranh, đồng thời truyền
tải thông điệp về tinh thần đoàn kết, lòng yêu nước và ý chí quật cường. Trong
những trường hợp này, văn xuôi vẫn giữ được chất thơ, nhưng được định hướng
phục vụ mục tiêu chung của xã hội hơn là khai phá tự do cá nhân.
Một minh chứng cho sự
giằng co giữa khát vọng cách tân và sức ép chính trị thời đó là hiện tượng “thơ
tự do không vần” của Nguyễn Đình Thi trước Hội nghị tranh luận văn nghệ 1949.
Những bài thơ không vần tiêu biểu của Nguyễn Đình Thi như “Đêm sao”, “Sáng mát
trong”, “Đường núi”, “Không nói”, “Đôi mắt”…, song sau đó chính tác giả đã phải
sửa lại cho có vần điệu, phần nào do áp lực từ đoàn thể và đặc biệt là sự định
hướng cứng rắn của Tố Hữu. Trường hợp này phản ánh rõ bối cảnh thơ ca giai đoạn
kháng chiến: những thử nghiệm hình thức dù có tiềm năng mở rộng nhưng thường bị
điều chỉnh để phù hợp với yêu cầu chung của nhiệm vụ chính trị.
Nguyễn
Đình Thi trong bài “Nơi dựa” thể hiện khả năng khai thác thơ văn xuôi như một
phương tiện diễn đạt trữ tình gắn với ý thức sử thi, nơi cảm xúc cá nhân và
hiện thực chiến tranh hòa quyện:
“Người chiến sĩ nào đỡ bà
cụ trên đường kia?
Đôi mắt anh có cái ánh
riêng của đôi mắt đã nhiều lần nhìn vào cái chết.
Bà cụ lưng còng tựa trên
cánh tay anh, bước từng bước run rẩy.
Trên khuôn mặt già nua,
không biết bao nhiêu nếp nhăn đan vào nhau, mỗi nếp nhăn chứa đựng bao nỗi cực
nhọc gắng gỏi một đời.
Ai biết đâu, bà cụ bước
không còn vững lại chính là nơi dựa cho người chiến sĩ kia đi qua những thử
thách.”
(Nơi dựa)
Thơ văn xuôi của Nguyễn
Đình Thi khai thác chiều sâu tâm lý và khắc họa mối quan hệ giữa con người với
con người trong bối cảnh khốc liệt, đồng thời kiến tạo những hình ảnh giàu tính
biểu tượng, nơi mỗi hành động, dù nhỏ, đều chứa đựng sức nặng tinh thần và giá
trị nhân văn. Nhịp điệu câu văn uyển chuyển, kết hợp với lặp cú pháp và trường
liên tưởng, khiến dòng văn vừa trôi chảy vừa sâu lắng, mở ra không gian suy
tưởng cho người đọc. Tác phẩm “Nơi dựa” minh chứng rằng thơ văn xuôi thời kháng
chiến vừa là công cụ tuyên truyền vừa là phương tiện khám phá và biểu đạt những
trải nghiệm nội tâm phong phú, đồng thời nhấn mạnh ý thức cộng đồng, sự sẻ chia
và tinh thần kiên cường trong chiến đấu. Qua đó, Nguyễn Đình Thi gợi mở khả
năng vận dụng văn xuôi để vừa kể vừa suy tư, kết hợp trữ tình và sử thi, góp
phần mở rộng biên độ thử nghiệm nghệ thuật trong thơ ca Cách mạng.
So với giai đoạn Thơ mới,
dấu ấn của thơ văn xuôi sau 1945 ít được nhắc đến, hầu như mờ nhạt trong các
nghiên cứu và tuyển tập. Sự vắng bóng này phần lớn phản ánh bối cảnh xã hội –
chính trị đặc thù: thi ca lúc này cần mạch lạc, dễ tiếp nhận, giàu tính tuyên
truyền, trong khi những thử nghiệm cá nhân hay lối văn tự do thường bị hạn chế
hoặc không phù hợp với yêu cầu của thời đại. Tuy vậy, chính những nỗ lực lặng
lẽ này đã duy trì một dòng mạch văn học không chính thức, giữ cho tinh thần thử
nghiệm của thơ văn xuôi tồn tại, chờ cơ hội được tiếp nối và phát triển mạnh mẽ
trong các giai đoạn sau.
Có thể thấy rằng, dù
không chiếm vị trí trung tâm, thơ văn xuôi trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp
đã chứng minh tính linh hoạt và khả năng thích ứng của thể loại này. Nó vừa đáp
ứng yêu cầu tuyên truyền và chính trị, vừa giữ được những yếu tố trữ tình, giàu
nhạc tính và biểu tượng, mở đường cho những sáng tạo giai đoạn sau. Dòng văn
học này, dù âm thầm, đã góp phần làm phong phú kho tàng thi ca Việt Nam, tạo cơ
sở cho sự hồi sinh mạnh mẽ của thơ văn xuôi trong những thập niên tiếp theo.
Sau Chiến thắng Điện Biên
Phủ năm 1954, Hiệp định Genève được ký kết, theo đó Việt Nam tạm thời chia cắt
làm hai miền, mở ra một giai đoạn lịch sử mới đầy biến động và thử thách. Thơ Việt
Nam nhanh chóng định hình hướng đi mang tính chiến đấu và tuyên truyền, được
gọi chung là “thơ chống Mỹ”. Thể loại thơ này tập trung vào việc cổ vũ tinh
thần cách mạng, khơi dậy ý chí chiến đấu, ca ngợi những chiến công và hình ảnh
anh hùng của quân và dân. Trong giai đoạn này, nội dung và hình thức thơ chủ
yếu gắn trực tiếp với nhiệm vụ chính trị, đề cao tính mạch lạc, rõ ràng và trực
diện trong biểu đạt, nhằm đáp ứng chức năng truyền thông và tuyên truyền của
bối cảnh lịch sử.
Trong giai đoạn này, thơ
văn xuôi xuất hiện thưa thớt, phần lớn bị giới hạn bởi yêu cầu chính trị và
tính tuyên truyền. Khi có mặt, thơ văn xuôi thường được sử dụng như một công cụ
để diễn đạt những cảm xúc trữ tình hoặc suy tư cá nhân trong khuôn khổ kháng
chiến, kết hợp với ý thức sử thi, song vẫn phải phục vụ mục tiêu chung của
phong trào. Sự hạn chế này khiến thơ văn xuôi trong giai đoạn chống Mỹ không
phát triển rộng rãi, nhưng những nỗ lực âm thầm ấy vẫn duy trì được nhịp điệu mềm
mại, khả năng hình tượng và chiều sâu cảm xúc.
Tuy vậy, giai đoạn hậu
chiến đã xuất hiện những bài thơ văn xuôi có sức lay động mạnh mẽ, khai thác
cảm xúc và trải nghiệm chiến tranh theo cách gần gũi, trực diện. Trong “Cánh
rừng nhiều đom đóm bay” (1998), Nguyễn Đức Mậu vận dụng ngôn từ văn xuôi để tạo
nhịp điệu tự nhiên, vừa mô tả thực tại chiến trường năm xưa vừa dẫn dắt cảm
giác nội tâm của nhân vật. Văn bản khai thác sự tương phản giữa hiện thực
nghiệt ngã và những hình ảnh mềm mại, huyền ảo, tạo ra chiều sâu biểu cảm đặc
trưng của thơ văn xuôi: nơi cảm xúc, tưởng tượng và hiện thực hòa quyện: “Cánh rừng nhiều đom đóm bay” của Nguyễn Đức
Mậu là một ví dụ: “Tôi rời võng, khoác súng vào phiên gác. Khi bước giữa hàng
cây tối đen, tôi vấp phải vật gì mềm nhũn, một mùi tanh lờm lợm xông lên. Có lẽ
xác một con hoẵng trúng bom? Tôi mệt mỏi nghĩ thầm. Hết phiên gác, tôi ngủ vùi
trong võng. Đom đóm rơi đầy giấc mơ của lính. Tôi đang ngủ, đang mơ, tôi nào
hay bên những gốc cây bầy mối đục mòn đêm trên những xác người?” (Cánh rừng
nhiều đom đóm bay). Đoạn thơ văn xuôi gợi mở khả năng diễn đạt cảm xúc cá nhân
và hiện thực chiến tranh mà không bị ràng buộc bởi cấu trúc cổ điển hay vần
luật, đồng thời duy trì nhạc tính tiềm ẩn thông qua nhịp điệu câu, trường liên
tưởng và cách tạo hình tượng. Qua đó, nó chứng minh sức sống và tính linh động
của thể loại, đồng thời mở ra hướng phát triển mới cho thơ văn xuôi Việt Nam:
vừa kể vừa chiêm nghiệm, vừa mô tả vừa suy tư, tạo nên sự phong phú về cả hình
thức lẫn nội dung, đặc biệt trong những giai đoạn lịch sử đầy biến động.
Hay trong “Đối thoại biển”
(rút từ Trường ca biển, công bố năm 1994), Hữu Thỉnh đã vận dụng thơ văn xuôi
để kiến tạo một không gian nghệ thuật mở, nơi con người và biển cả không chỉ
cất lời trò chuyện mà còn trở thành những tấm gương phản chiếu tâm thức. Biển
hiện lên vừa như một thực thể thiên nhiên bao la, vừa như một đối tượng tri âm,
khiến cuộc đối thoại mang tính chất triết luận và giàu âm vang biểu tượng. Ở
đó, thơ không còn bị giới hạn trong biên độ trữ tình quen thuộc, mà được mở
rộng thành một trường liên tưởng, cho phép con người tìm thấy chính mình qua
nhịp sóng, hơi thở và tiếng vọng của tự nhiên: “Đến một ngày kia những người lính đã tới
biển của mình. Cuộc gặp gỡ của triệu năm với đứa con trận mạc. Không chỉ là
người lính lạ lẫm, chính biển lạ lẫm đầu tiên. Biển thốt lên: "Người sắp
thắng trận sao mà hốc hác quá"./ Những người lính cầm le ta cành sú hoe
vàng, cầm luôn cả một miền che chở mới. Người lính nói: "Tôi đi qua nhiều
bóng mát để về đây"./ Bóng mát đã lùi xa. Mực tím đã trải lại cho tuổi học
trò. Tiếng gàu sòng đã trả về cho cơn hạn hán. Trước mặt là biển, bốn bề là
biển, hình như phải nói một câu gì với biển.” (Đối thoại biển). Mạch thơ
kết hợp nhịp điệu uyển chuyển với hình tượng giàu sức gợi, tạo cảm giác vừa
thực vừa mơ, vừa cụ thể vừa trừu tượng. Thơ văn xuôi của Hữu Thỉnh khai thác
chiều sâu tâm lý và suy tưởng, đồng thời gợi mở mối quan hệ giữa cá nhân, lịch
sử và thiên nhiên. Thể loại này trở thành phương tiện kết hợp trữ tình, sử thi
và suy tư, tạo dòng cảm xúc liên tục, nơi nhịp điệu, hình tượng và trường liên
tưởng cộng hưởng để người đọc vừa trải nghiệm hiện thực vừa chiêm nghiệm về đời
sống và thời gian. Đây là minh chứng cho sức sống và khả năng gợi mở của thơ
văn xuôi trong thơ ca Việt Nam hiện đại, tiếp nối truyền thống nhưng vẫn xác
lập hướng đi riêng.
Trong
dòng chảy xiết của thi pháp “thơ chống Mỹ”, Trúc Thông đã tạo ra một nhịp thơ
riêng, khai thác thơ văn xuôi để diễn đạt cảm xúc một cách tinh tế, tự nhiên,
đồng thời thử nghiệm cách kể – tả xen kẽ, gần gũi với nhịp sống hàng ngày.
NHO NHỎ MÙA THU
“đôi
chim câu son mỏ đỏ, bên bờ con sông nhỏ Sa Lung
Chim ơi
đi đâu đấy?
Cúc cù
cu chúng tôi kiếm mồi. Cúc cù cu chúng tôi rong chơi...
Rồi
chim bay vù. Một quãng đáp xuống. Chim lại đi đôi trong cỏ gật gù
Cỏ mùa
thu xanh ngả đượm chút vàng. Sông Sa Lung tháng bảy nước chảy phù sa. Trời mây
rộng rãi, gió nhè nhẹ trải
Vợ
chồng chim như hai anh em như hai người bạn. Áo trắng, mắt cườm, chân son, mỏ
đỏ. Gật gù đi trong cỏ pha thu...”
Tác giả chọn
cách ghi nhận những khoảnh khắc đời thường, nơi thiên nhiên và con người giao
hòa, gợi ra những rung cảm nội tâm nhẹ nhàng nhưng sâu sắc. Trúc Thông chứng
minh khả năng sử dụng nhịp điệu câu, hình tượng thị giác và âm thanh để tạo
không gian trữ tình vừa mở rộng, vừa thân mật. Văn bản mở ra cách tiếp cận thơ
văn xuôi độc đáo: vừa quan sát tỉ mỉ đời sống xung quanh, vừa cho phép người
đọc chiêm nghiệm về nhịp điệu tự nhiên, vẻ đẹp nhỏ bé mà tràn đầy sức sống. Đây
là minh chứng cho sức sống và tính gợi mở của thơ văn xuôi trong bối cảnh xã
hội – chính trị bị chi phối bởi chiến tranh và thời kỳ hậu chiến, đồng thời cho
thấy khả năng duy trì những giá trị trữ tình và mỹ học riêng, dù trong hoàn
cảnh yêu cầu tuyên truyền và chính trị chiếm ưu thế.
Nhìn tổng thể, thi pháp thơ
chống Mỹ và thơ hậu chiến, dù chủ yếu mang tính tuyên truyền, vẫn phản ánh sức
sống của thơ văn xuôi: nó tồn tại như một dòng mạch lặng lẽ, kết hợp trữ tình
và sử thi, vừa đáp ứng yêu cầu chính trị, vừa giữ được khả năng biểu đạt nội
tâm và giá trị nhân văn. Điều này cho thấy dù bị hạn chế về hình thức và khuôn
khổ thi pháp đương thời, thơ văn xuôi vẫn là một phần không thể thiếu trong
tiến trình phát triển thi ca hiện đại Việt Nam, tiếp tục mở rộng biên độ thử
nghiệm cho các thế hệ sau.
Đồng thời với thơ theo
thi pháp “thơ chống Mỹ”, thơ văn xuôi ở miền Nam có những biểu hiện đặc sắc,
phản ánh đời sống đô thị và nhịp sống thường nhật. Thi sĩ Bùi Giáng đã khai
thác hình thức thơ văn xuôi để diễn đạt cảm xúc cá nhân, suy tưởng và chiêm
nghiệm về con người, thiên nhiên và thời cuộc, cùng thời với những bài lục bát
tuyệt đỉnh. Những tác phẩm như “Trời
Nam Việt” hay “Trong vườn” của Bùi Giáng minh
chứng cho khả năng sáng tạo của thơ văn xuôi, vừa giữ nhịp điệu trữ tình, vừa
mở rộng biên độ biểu đạt, tạo ra không gian thẩm mỹ phong phú, tiếp nối dòng
mạch lặng lẽ nhưng đầy sức sống của thơ văn xuôi Việt Nam. “Tuổi trẻ qua đi xin em
ở lại bây giờ và lát nữa xưa sau. Cây cối mùa thu cúi nhìn đất cỏ đợi chúng
mình đi bộ tới bên. Nghe rụng lá cồn khe khẽ hơi buồn hơi lạnh một mình em mộng
với chiêm bao. Trời nước mông mông tán thành nhân gian thương nhớ rộng thênh
thu nào Lục Tỉnh bờ Tiền Giang Châu Đốc em Sa Đéc Hốc Môn mùa Lái Thiêu Sầu
Riêng Măng Cụt hương mật mớm chảy tràn môi nhau. Em nhe răng thánh thót cười
vui như tuổi trẻ đứng bên bờ ngồi bên bến tựa gốc cây chuồn chuồn bay bốn bên
như quay múa buổi nào bên nhau dưới đèn, con đếm bản địa đồ Nam Việt bốn mùa đi
còn để lại nguyên lành nguyên ngọt nước dòng sông chần chờ chậm chảy sóng lên
lời che chở em đi về Vũng Tàu nghỉ mát anh đi về Thủ Đức Thủ Dầu Một Thủ Thiêm
Bà Rịa Biên Hoà Rạch Giá Sóc Trăng trăm năm ròng rã anh quên rồi tên tuổi đã xô
về dấu tóc ngập mơ màng buồm sóng khói Hà Tiên.” (Trời Nam Việt). Bùi Giáng thể
hiện một phong cách thi ca đặc biệt, trong đó nhịp điệu biến ảo và dòng văn tự
do trở thành phương tiện dẫn dắt cảm xúc và liên tưởng. Ngôn ngữ thơ vừa tự
nhiên, đời thường, vừa thấm đẫm thiền vị, gợi mở một không gian tâm thức rộng
lớn, nơi ký ức, chiêm nghiệm và hiện thực đan xen. Hệ thống hình ảnh phong phú,
chi tiết sống động kết hợp với nhịp điệu trôi chảy đã kiến tạo nên một thế giới
trữ tình vừa gần gũi vừa huyền ảo, mang dấu ấn cá nhân đậm nét.
Đóng
góp quan trọng của Bùi Giáng đối với tiến trình cách tân thơ văn xuôi Việt Nam
nằm ở khả năng khai thác tối đa tiềm năng biểu cảm của văn xuôi mà vẫn duy trì
chất thơ. Ông mở rộng biên độ cảm xúc, phá vỡ ranh giới giữa trữ tình và tự sự,
đồng thời làm giàu cho mỹ học hiện đại bằng những liên tưởng tự do, hình tượng
giàu tính thị giác và nhịp điệu tự do nhưng vẫn thấm đẫm nhạc tính. Những thử
nghiệm này không chỉ khẳng định sức sống của thơ văn xuôi mà còn góp phần định
hình một khuynh hướng thẩm mỹ mới, khơi nguồn cảm hứng cho các thế hệ sáng tác
tiếp nối trong việc dung hợp trữ tình, suy tưởng và hiện thực đời sống vào một
thể loại linh hoạt và giàu sức gợi.
7. Sức sống và đa dạng hóa
Sau công cuộc Đổi mới (từ
1986), đời sống xã hội – văn hóa Việt Nam bước vào một giai đoạn biến động mạnh
mẽ. Cùng với sự mở cửa và giao lưu quốc tế, thơ Việt Nam cũng có bước chuyển
quan trọng, hình thành một khuynh hướng đổi mới, cách tân. Các nhà thơ đã mạnh
dạn phá bỏ khuôn khổ cũ, chủ động thử nghiệm nhiều phương thức biểu đạt. Thơ
đương đại không chỉ kế thừa truyền thống, mà còn tiếp biến thi pháp Đông – Tây,
hòa nhập vào dòng chảy thơ ca thế giới, đồng thời tìm cách khẳng định căn tính
văn hóa Việt Nam trong diện mạo mới, hiện đại.
Một
trong những đặc điểm nổi bật của thơ cách tân sau 1986 là sự từ bỏ cấu trúc
khép kín để trở thành không gian đối thoại, luôn vận động và mời gọi người đọc
đồng sáng tạo. Thơ không chỉ chuyển tải thông điệp, mà mở ra những khoảng trống
ý nghĩa. Thủ pháp bỏ lửng, phân mảnh, nhịp điệu tự do và hình ảnh đa nghĩa cho
phép người đọc tham gia vào quá trình kiến tạo văn bản. Trường hợp Dương Kiều
Minh trong bài thơ “Sực nhớ
núi đồi” cho thấy rõ đặc trưng này: “Tôi chợt nhớ núi đồi những đêm
tĩnh lặng trong trẻo, ngôi sao xanh ánh sáng bị làn hơi ẩm tách ra thành nhiều
sợi tinh khiết.../ Đêm đêm những nàng tiên cánh mỏng bay là là trên những cánh
rừng và dòng sông hắt ánh sáng dìu dịu bờ dốc thoai thoải.” (Sực nhớ núi đồi). Với những
liên tưởng giàu sức gợi, ông tạo dựng một thế giới nơi ký ức và tưởng tượng hòa
quyện, cảnh sắc thiên nhiên nâng thành miền cộng hưởng tâm linh. Nhờ đó, thơ
vượt khỏi nhịp điệu cũ, quen thuộc, nhưng vẫn giữ được âm vang nội tại, dịch
chuyển từ cái đẹp mô tả sang cái đẹp của liên tưởng, từ cái tôi hiện thực sang
cái tôi chiêm niệm. Cùng với Nguyễn Quang Thiều và Nguyễn Lương Ngọc, Dương
Kiều Minh được xem là một trong những gương mặt mở đường cho trào lưu thơ cách
tân đương đại.
Đồng hành với cách tân hình
thức là sự biến đổi của cái tôi trữ tình. Nếu trong truyền thống, cái tôi
thường nguyên khối hoặc hòa tan vào cái ta cộng đồng, thì sau 1986 nó trở nên
phân tách, đa diện. Thơ văn xuôi, với ưu thế trải rộng diễn ngôn, trở thành nơi
thích hợp để biểu đạt sự đa thanh này. Thi sĩ Inrasara là trường hợp tiêu biểu.
Trong “Tiếng trống Ginơng”, cái
tôi cá nhân hòa vào nhịp điệu tập thể, vang lên như tiếng vọng sử thi, đồng
thời vẫn giữ tính chất tự sự cá nhân: “Đêm của đêm Ánh sáng của ánh sáng Động từ và danh từ Cấp
số cộng tất cả tính từ của ngôn ngữ nhân loại Cấp số nhân tất cả thán từ trên
thế giới Đã chết hay đang sinh nở Thi ca của thi ca Cũ và mới Biệt li và sum
họp Hi vọng và tuyệt vọng Chiến tranh và hòa bình Gió của gió Tự do của tự do
Hữu hạn trong vô
hạn”. (Tiếng trống Ginơng). Cấu trúc liệt kê, chồng xếp và đối ứng
nhịp nhàng đã tạo nên một trường ngôn ngữ nơi cá nhân đối thoại với ký ức cộng
đồng và truyền thống Chăm, đồng thời cất lên tiếng nói chung của thời đại. Sự
kết hợp giữa âm hưởng sử thi và nhịp điệu hiện đại mang lại cho thơ ông sức
vang ngân độc đáo, vừa khắc khoải vừa cuồn cuộn. Đây là minh chứng cho khả năng
dung hợp giữa bản sắc văn hóa riêng biệt và tư tưởng phổ quát, góp phần mở rộng
biên độ tiếp nhận cho thơ văn xuôi Việt Nam đương đại.
Một đặc trưng nổi bật của
thơ đương đại, đặc biệt trong thơ văn xuôi, là cấu trúc phi tuyến, phân mảnh và
linh hoạt. Khác với mô hình thơ truyền thống vốn gắn liền với một trục cảm hứng
nhất quán, thơ văn xuôi sau 1986 thường vận hành theo cơ chế đứt gãy, ghép nối,
nhiều khi mang tính dòng ý thức hoặc nhật ký tâm trạng. Các đoạn, hình ảnh và
liên tưởng không nhất thiết tuân theo trật tự thời gian – không gian tuyến
tính, mà được triển khai theo mạch cảm xúc hoặc sự bùng phát của ý niệm. Điều
này biến văn bản thơ thành một trường đa tầng, nơi nhiều mảnh vỡ của ký ức,
hiện thực và tưởng tượng đồng hiện, buộc người đọc phải chủ động liên kết và
kiến tạo ý nghĩa.
Trong thơ văn xuôi, tính
phân mảnh còn biểu hiện ở cách tổ chức hình ảnh và ngôn ngữ, khi mỗi câu thơ
vừa mang đặc trưng tự sự, vừa chứa nhiều lớp cú pháp, khoảng trống gợi mở cho
liên tưởng và chiêm nghiệm. Câu thơ dài như dòng ý thức của nhân vật, nhưng
không theo logic tuần tự thông thường; thay vào đó, các hình ảnh, chi tiết, âm
thanh và cảm xúc chồng xếp, đan xen, tạo thành một mạng lưới tri giác phong
phú. Trong đoạn trích: “con cò bay khỏi
đầm lầy cánh bắt nhịp tiếng quẫy ký ức bức tranh thủy mạc nhìn vào sắc cây phù
sa lố nhố mặt người khuất khít bên nhau cho đất tươi non diệp lục tràn chân trời
khung tranh hồn vía người chết tức tưởi hiện về trầm hương bù vào chỗ không đủ
thân xác hiện hữu cách mấy tầng diệp lục phù sa mà xa lạ quá chừng mời người
xưa ngồi vào bàn cơm nóng đãi ma đói ma khát tiếng chén đũa hụt hẫng ước lượng
khoảng cách từ mặt đầm tới điểm chạm cánh cò chừng vài chục mét và âm thanh
tiếng quẫy kia không quá mấy đề-si-ben...” (Mai Văn Phấn – Khúc 3 “Mười bài
tập mùa xuân”) ta thấy các lớp hình ảnh, âm thanh, ký ức và không gian tương
tác liên tục nhưng không theo trình tự, tạo cảm giác vừa gần gũi vừa xa lạ.
Khoảng trống giữa các chi tiết gợi mở cho người đọc tự bổ sung và suy đoán,
đồng thời hình thành những “khoảnh khắc ý thức” dồn nén và lan tỏa. Nhịp điệu
dài, rời rạc, lúc dồn dập, lúc giãn ra, tương ứng với dòng chảy tâm thức của
nhân vật và hiện thực mà thơ biểu đạt. Tính phân mảnh không phải sự rời rạc vô
nghĩa, mà là thủ pháp mỹ học, cho phép nhiều lớp cảm nhận – thị giác, âm thanh,
xúc giác, trừu tượng – đồng thời hiện diện, tạo nên một không gian thơ mở nơi
hiện thực đời sống, ký ức cá nhân, hồn vía người chết và người đương thời cùng
thiên nhiên hòa quyện, phản chiếu trải nghiệm chủ quan và mở ra chiều sâu chiêm
nghiệm cho người đọc.
Sự linh hoạt này mở ra
nhiều hướng diễn giải: từ triết lý hiện sinh đến hồi tưởng cá nhân, từ suy tư
văn hóa đến những chi tiết đời thường. Nhờ cấu trúc phi tuyến và phân mảnh, thơ
văn xuôi có khả năng biểu đạt phức cảm tinh thần, mâu thuẫn và khủng hoảng của
con người trong xã hội hiện đại, phản ánh đời sống đương đại vốn đa giọng điệu,
thậm phồn nhưng giàu năng lượng sáng tạo. Chẳng hạn, Nhã Thuyên trong “Trò
chuyện về nước” dựng nên những thế giới tản mát, phân rã mà đầy sức gợi: “một ngày đẹp trời, hắn buồn bã nhận ra trái
tim chỉ đập, đập, đập, đập, những nhịp đập nô lệ hormone. đám lửa bùng cháy này
là một bức vẽ. từ độ ấy, luôn luôn, hắn cần đốt cái gì đó, cho đỡ nhớ ánh lửa”
(đồ thừa). Hay, “trong lúc đợi người, bởi
cơn đói đã lùi, tôi ngồi đào xới những con ma trốn trong đất xốp, nơi đây người
ta nhân giống một loài khoai lang kỳ lạ, những rễ củ to cỡ bắp đùi luôn dậy mùi
hương mê ngủ, đôi khi cơn sốt lên và gió chuếnh choáng, tôi nán lại hỏi chuyện
đất và rình rập từng ngọn cỏ nhen, huyền thoại kể ngọn cỏ đầu tiên luôn đọng
sẵn một linh hồn ân ái, ăn vào mình sẽ no đủ yêu thương bốn mùa” (trò
chuyện về nước). Trí tưởng tượng và ngôn ngữ được giải phóng tối đa. Nhã Thuyên
kiến tạo những mảnh hình ảnh và liên tưởng va chạm, sinh sôi, tạo nên dòng chảy
bất định. Thế giới thơ không phục hoạt hiện thực quen thuộc mà mở ra “hiện thực
khác” – nơi kỳ ảo, bản năng, tiềm thức và trò chơi ngôn từ cùng đồng hiện. Câu
thơ kéo dài như mạch văn xuôi nhưng vẫn ẩn giấu nhiều nhịp ngầm ẩn, đưa người
đọc vào trạng thái chập chờn giữa tự sự và mê niệm. Ngôn ngữ trượt khỏi nghĩa
quen thuộc, gợi mở những chiều kích mới. Ở cấp độ mỹ học, Nhã Thuyên chọn phân
mảnh và bất định làm nguyên tắc sáng tạo, qua đó biến thơ văn xuôi thành nỗ lực
giải cấu trúc, vừa phá bỏ vừa kiến tạo.
Thơ văn xuôi đương đại kế
thừa mỹ học phương Đông – đặc biệt là cảm thức vô thường của Phật giáo – và hòa
nhập với tư tưởng hiện sinh phương Tây. Giáng Vân, trong “Bài hát”, đã cho “lòng
bi mẫn” lan tỏa, biến khoảnh khắc thành năng lượng cứu rỗi: "Lòng bi mẫn tỏa rạng xuyên qua bóng tối u minh, làm tan chảy giá
băng, làm đầy lên dòng sông, làm cây từ bi nở hoa, làm cậu bé con bị sỉ nhục
nắm chặt tay và mỉm cười…/ Lòng bi mẫn
sẽ cứu chúng ta, em nói vậy, bàn tay của Pháp nói vậy, đơn giản và linh nghiệm,
giống như cơn mưa, giống như mầm cây, giống như hơi thở giống như mùa xuân bỗng
chốc đổi thay thế giới." (Bài hát). Dòng thơ trải dài
như văn xuôi, nhưng từng nhịp lại mang dáng dấp một thiền ngữ, giản dị mà mở ra
tầng nghĩa sâu xa. Đọc Giáng Vân, người ta không chỉ thấy sự thăng hoa của cảm
xúc cá nhân mà còn bắt gặp niềm tin vào khả năng biến đổi của thế giới nhờ sức
mạnh từ bi – một niềm tin vừa mang sắc thái huyền nhiệm phương Đông, vừa vang
vọng tinh thần nhân bản phổ quát.
Thơ văn xuôi đương đại
không chỉ hấp thu các khuynh hướng tiên phong thế giới, mà còn đối thoại với
thơ truyền thống Việt Nam. Nguyễn Chí Hoan, trong “Rừng xanh như tôi yêu” viết
bằng giọng văn xuôi nhưng tích hợp giữa ý thức cộng đồng và cái nhìn cá nhân: “Rừng xanh như tôi yêu trong nỗi cách xa lấp lánh tháng ngày ánh lân tinh
cửa bể/ Mùi nhựa cây và mùi đất đỏ trăng sáng đồi chè tiếng đại bác từng hồi
rung bóng núi và cỏ đen trên miệng chiến hào/ Rừng xanh như tôi yêu phố phường
xa khuất thành phố ngủ yên quầng sáng màu hồng mùa này đom đóm đêm thắp đèn gọi
bạn”. Đây nỗ
lực dung hợp giữa âm hưởng tập thể và giọng điệu riêng tư, tạo nên trường ngôn
ngữ vừa khoáng đạt vừa thấm đẫm cảm xúc. Mạch thơ vận hành tựa dòng chảy ký ức,
nơi chiến tranh, thiên nhiên và phố phường hòa vào nhau trong cùng nhịp cảm
xúc. Cấu trúc văn xuôi cho phép Nguyễn Chí Hoan mở rộng biên độ diễn ngôn, xâu
chuỗi những lát cắt hiện thực mà vẫn giữ được dư ba. Sự hòa quyện này làm nổi
bật khả năng của thơ văn xuôi đương đại trong việc đối thoại với truyền thống,
vừa tái hiện âm hưởng cộng đồng quen thuộc, vừa đặt cái tôi cá nhân vào trung
tâm trải nghiệm. Đọc Nguyễn Chí Hoan, ta nhận thấy thơ là sự hồi tưởng, cũng là
hành động tái khẳng định mối dây liên kết giữa cá nhân với lịch sử, thiên nhiên
và cộng đồng – một kiểu ký ức tập thể được làm mới qua lăng kính riêng của chủ
thể sáng tạo.
Nếu thơ văn xuôi mở rộng
khả năng giải phóng về cấu trúc, thì trường ca là minh chứng rõ nét cho việc mở
rộng biên độ diễn ngôn, đưa thơ Việt vào không gian sử thi – triết luận. Sau
1986, trường ca không chỉ là những bản hùng ca khẳng định tinh thần dân tộc, mà
trở thành diễn đàn để nhà thơ đối thoại với lịch sử, văn hóa, thân phận con
người và các vấn đề toàn cầu, từ chiến tranh, thiên tai, biến đổi khí hậu, bất
bình đẳng xã hội đến khủng hoảng niềm tin hay sự mai một bản sắc. Cấu trúc
trường ca giai đoạn này thường là diễn đàn đa thanh, nơi giọng kể sử thi hòa
cùng suy tư triết lý, xen lẫn ký ức cá nhân, chất liệu dân gian và ngôn ngữ đời
thường, tạo ra trường ngôn ngữ phức hợp, vừa kết nối riêng – chung, vừa mở ra
đối thoại sâu rộng về ý nghĩa tồn tại.
Trường ca đương đại thể
hiện nỗ lực dung hòa giữa cộng đồng và cá nhân. Nếu sử thi cổ điển chủ yếu khắc
họa anh hùng tập thể, trường ca sau 1986 đặt cái tôi trữ tình vào trung tâm,
vừa là nhân chứng lịch sử, vừa là kẻ chất vấn và phản tỉnh. Nhờ đó, trường ca
dung chứa những mâu thuẫn nội tại của thời đại, phản ánh khao khát gắn kết cộng
đồng nhưng đồng thời nhấn mạnh sự đơn độc của cá nhân, ca ngợi chiến thắng
nhưng không che lấp mất mát, khẳng định niềm tin nhưng vẫn đặt ra những câu hỏi
nghi vấn về chính niềm tin ấy. Tính chất đối lập này không chỉ tạo nên chiều
sâu biểu cảm mà còn mở rộng tầm nhìn của trường ca đến bình diện triết học và
nhân học, đồng thời đặt nền móng cho một thi pháp vừa mang tính phổ quát, vừa
bám sát trải nghiệm và thực tại Việt Nam.
Trường ca “Lò Mổ” của
Nguyễn Quang Thiều là cuộc đối thoại dữ dội giữa cái Đẹp và cái Ác, nơi con
người và con vật chịu bạo lực, lòng tham và cô độc. Tác phẩm vận dụng cấu trúc
xoáy ốc, máu vừa kinh hoàng vừa minh bạch, dẫn dắt độc giả nhìn thấu vòng tuần
hoàn sinh tử và bi kịch thời đại. Kết thúc “Lò Mổ”, cái Ác nhường chỗ cho sự
sống mới, chú bê con xuất hiện tượng trưng cho hy vọng và khởi đầu, mở ra tầm
nhìn vượt ra ngoài hiện thực, chiêm nghiệm về lịch sử, đạo đức và bản chất con
người.
"Không
có gì khác với đêm qua - thời khắc của những con bò về đến cánh đồng bất diệt
trước chúng ta.
Vẫn
từng ấy chiếc búa. Vẫn từng ấy dao chọc tiết. Vẫn từng ấy dây trói.
Chúng
ta chưa từng yêu cầu phải trói. Chúng ta chưa từng yêu cầu bịt mắt.
Chúng
ta không ký vào biên bản trước khi chết. Chúng ta đâu phải tử tù.
Chúng
ta là những con bò của Tự do và Đức tin đi qua thế gian
Để
về tới cánh đồng bất diệt."
(chương mười ba “cánh
đồng bất diệt”)
“Lò Mổ” là minh chứng
điển hình cho nỗ lực mở rộng biên độ biểu đạt của thơ Việt đương đại, nơi thơ
văn xuôi vừa giải phóng hình thức cũ, vừa mang tính triết luận sâu sắc. Tác
phẩm tạo ra đời sống thẩm mỹ phức hợp, nơi hiện thực khắc nghiệt và tưởng tượng
ám ảnh cùng hiện diện, biến sinh tử, bạo lực và cô độc thành chất liệu suy tư
về con người, lịch sử và đạo đức. Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã góp phần quan
trọng vào tiến trình cách tân thơ Việt đương đại: ông đưa trường ca vượt ra
khỏi khuôn khổ trữ tình hay sử thi truyền thống, dung hòa cái tôi cá nhân với
cộng đồng, khẳng định khả năng của thi ca đương đại trong việc phản ánh những
vấn đề lịch sử, xã hội và trăn trở toàn cầu.
Trong bối cảnh hiện nay,
trường ca của các tác giả trẻ tiếp tục khai thác chiều sâu nội tâm và trải
nghiệm cá nhân, đồng thời kết hợp các yếu tố huyền thoại, tôn giáo và triết lý.
Ngôn ngữ trong các tác phẩm linh hoạt, giàu hình ảnh và biểu tượng, tạo ra
những không gian tưởng tượng nơi cảm xúc, ký ức và tư duy gặp gỡ và đối thoại.
Chủ đề không chỉ dừng lại ở thân phận, khát vọng hay tình cảm cá nhân, mà phản
ánh các vấn đề xã hội, lịch sử và môi trường, mở rộng mối quan hệ giữa con
người và thế giới. Cấu trúc trường ca thường mang tính phi tuyến, phân mảnh,
vận dụng nhịp điệu tự do và lớp nghĩa chồng chéo, hình thành trải nghiệm đọc
vừa giàu cảm xúc, vừa gợi mở triết lý, cho phép độc giả tham gia vào quá trình
kiến tạo ý nghĩa. Những nỗ lực này vừa tiếp nối truyền thống cách tân trường ca
Việt Nam, vừa mở ra các hướng phát triển mới cho thi pháp đương đại.
Trường ca “Ngọn lửa đôi
và Bông hoa” của Nguyễn Thị Thùy Linh mở ra không gian nghệ thuật huyền nhiệm,
kết hợp thơ và văn xuôi, nơi con người, vũ trụ và linh hồn giao hòa trong hành
trình tìm kiếm giác ngộ và giải thoát. Tác phẩm khai thác các biểu tượng trung
tâm là “Ngọn lửa” và “Bông hoa”, thể hiện khát vọng chuyển hóa từ cô độc sang
hòa hợp, từ đau khổ sang tái sinh, từ phiền não đến an nhiên. Cấu trúc giải
trung tâm, kết hợp các lớp không-thời-gian, tạo trải nghiệm đa chiều về cảm
xúc, triết lý và tâm linh. Tác phẩm khai thác chi tiết đời sống thường nhật và
yếu tố siêu hình, phản ánh mối liên hệ giữa con người với vũ trụ, giữa hữu hình
và vô hình, thấm đẫm tinh thần Phật giáo về lòng từ bi, chu kỳ sinh tử và phát
triển tâm linh. "Đêm qua, linh hồn
tách ra từ thân thể tôi như ngọn lửa bay lên, sắc xanh mát dịu. Lần đầu tiên
tôi thấy linh hồn mình đẹp đẽ, trong ngần như thế. Nó tự cắt những sợi dây đang
trói chặt ánh lửa và bay lên như được giải phóng. Thì ra nó đã bị cột trói quá
lâu, những sợi dây tôi đã vô tình thít chặt. Tôi rùng mình nghĩ đến những tiếng
thét bất lực mòn mỏi của nó mà trước đó tôi không nghe thấy hoặc chỉ lờ mờ nhận
biết. Những vết trói trở thành những ánh sáng xước. Tôi đang cúi đầu xưng tội,
trước ngọn lửa linh hồn của chính mình." (Chương 6 – "Ngọn lửa
đôi"). Biểu tượng “Ngọn lửa” và “Bông hoa” không chỉ là hình ảnh thẩm mỹ
mà còn diễn đạt quá trình chuyển hóa nội tâm: từ cô độc, đau khổ đến hòa hợp,
tái sinh và giác ngộ. Khổ thơ minh chứng cho quá trình giải thoát nội tâm và
nhận thức về bản thể, cho thấy trường ca có thể trở thành trải nghiệm triết lý
và tâm linh sâu sắc. Trường ca “Ngọn lửa đôi và Bông hoa” là hành trình nội tâm
cá nhân, đồng thời mở rộng quan niệm về trường ca hiện đại, nơi thi pháp tự do,
đa tầng nghĩa, liên kết giữa thơ, văn, biểu tượng và triết lý, tạo nên sức mạnh
nghệ thuật mới cho thơ Việt đương đại.
Đặt “Ngọn lửa đôi và Bông
hoa” cạnh “Lò Mổ”, có thể nhận thấy hai khuynh hướng chính trong trường ca viết
bằng thơ văn xuôi sau 1986: một nẻo hướng ra đời sống – xã hội, một nẻo hướng
vào nội tâm – bản thể. Trường ca của Nguyễn Quang Thiều giàu tính sử thi và
triết luận, mượn hình tượng con bò trong lò mổ để phản ánh thân phận con người:
cái chết trở thành sự kiện cộng đồng, gắn với cõi tạm và “cánh đồng bất diệt”.
Giọng thơ dữ dội, biến hóa, khắc họa xung đột giữa bạo lực – tăm tối và khát
vọng tự do – ánh sáng. Ngược lại, trường ca của Nguyễn Thị Thùy Linh tập trung
vào thế giới bản thể và siêu nghiệm, đi sâu vào hành trình tâm linh, mô tả sự
tách – nhập, phân thân – hợp nhất của linh hồn. Thơ trở thành “nghi lễ nội
tâm”, nơi cái tôi tìm kiếm sự siêu thoát và tình yêu tinh thần, sử dụng ngôn
ngữ giàu biểu tượng, mang âm hưởng tôn giáo – huyền nhiệm, đồng thời gợi liên
tưởng đến tư tưởng hiện sinh và mỹ học tượng trưng phương Tây.
Sự khác biệt giữa hai
trường ca phản ánh không chỉ khác biệt thế hệ – Nguyễn Quang Thiều thuộc thế hệ
đầu đổi mới, Nguyễn Thị Thùy Linh thuộc thế hệ sau 2000 – mà còn minh chứng hai
hướng vận động song song của thơ đương đại: một hướng giàu tính xã hội, viết
lại sử thi cộng đồng bằng thi pháp triết luận; một hướng đào sâu bản thể con
người, gắn với huyền nhiệm và tâm linh. Việc tồn tại đồng thời của hai khuynh
hướng này góp phần làm phong phú, đa dạng hóa thi pháp và nội dung của thơ Việt
đương đại.
Thơ cách tân sau 1986 –
đặc biệt thơ văn xuôi – đã tạo dựng không gian đa tầng, nơi cái tôi đa diện cất
tiếng, cấu trúc phi tuyến mở ra nhiều hướng cảm thụ, và nơi thơ văn xuôi, đặc
biệt trường ca viết bằng thơ văn xuôi, khẳng định vai trò quan trọng trong việc
tiếp nhận và tiếp biến. Bằng cách nối nhịp giữa hơi thở quốc tế và hồn cốt dân
tộc, khuynh hướng này vẽ ra diện mạo thơ Việt đương đại – một không gian vừa
rộng mở, chan hòa với thế giới, vừa thấm đẫm sắc màu văn hóa bản địa, nơi từng
câu chữ như rung động cùng lịch sử và hơi thở dân gian.
Vận động của thơ văn xuôi
Việt Nam phản ánh một tiến trình lịch sử và thẩm mỹ vừa tiếp nhận, vừa tiếp
biến các dòng chảy văn chương quốc tế. Khởi nguồn từ Thơ mới, thơ văn xuôi Việt
Nam trình hiện với dấu ấn tượng trưng và siêu thực, mở rộng khả năng biểu đạt
nội tâm và không gian tưởng tượng. Sau 1945, dòng chảy này lặng lẽ, bị chi phối
bởi bối cảnh xã hội và chức năng chính trị của văn học, song vẫn tiềm ẩn hướng
phát triển nội tại. Từ sau Đổi mới, thơ văn xuôi tái sinh mạnh mẽ, đồng thời
đối thoại với các vấn đề xã hội, văn hóa, lịch sử và triết lý. Thơ văn xuôi
Việt Nam đương đại dần khẳng định bản sắc riêng, đồng thời thể hiện khả năng
tiếp nhận các thành tựu văn học quốc tế và tiếp biến chúng theo cảm quan,
truyền thống thẩm mỹ Việt. Tiếng nói nghệ thuật vừa hiện đại, vừa mang đậm dấu
ấn bản địa, phản ánh một tiến trình phát triển liên tục của thi pháp. Quá trình
này thể hiện sự hội nhập cùng lúc với việc khẳng định bản thể thi ca, trong đó
dòng chảy hiện đại hóa gắn kết các yếu tố toàn cầu và căn tính dân tộc, đồng
thời mở rộng khả năng thử nghiệm hình thức và chiêm nghiệm triết lý. Những đặc
điểm này minh chứng năng lực sáng tạo độc lập, chủ động của thơ văn xuôi Việt
Nam đương đại, đồng thời khẳng định vị trí của thể loại trong hệ thống văn học
hiện đại.
8. Tiếp biến và sáng tạo
Thơ
văn xuôi Việt Nam đương đại vừa tiếp nhận các mô hình quốc tế, vừa chủ động
biến đổi để phù hợp với nhịp điệu sống và cảm quan của người Việt. Các tác giả mạnh
dạn thử nghiệm cấu trúc phi trung tâm, phân mảnh, xen kẽ nhiều lớp thời gian và
giọng điệu, tạo ra một diễn ngôn mở nơi hiện thực, tưởng tượng và triết lý giao
thoa. Nhờ đó, ngôn từ không chỉ giàu sức gợi mà còn trở thành phương tiện mời
gọi độc giả tham dự vào tiến trình kiến tạo ý nghĩa.
Một
trong những đóng góp nổi bật của thể loại này là khả năng kết hợp giữa nhịp
điệu tự do và lớp nghĩa chồng lớp, vừa nuôi dưỡng cảm xúc, vừa khơi mở các tầng
triết lý. Từ “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều đến “Ngọn lửa đôi và Bông hoa” của
Nguyễn Thị Thùy Linh, trường ca thơ văn xuôi đã chứng minh tính linh hoạt của
cấu trúc như một công cụ biểu đạt triết học, tâm linh và trải nghiệm bản thể,
qua đó mở rộng biên độ nghệ thuật của thơ Việt đương đại.
Thơ
văn xuôi đương đại tích hợp nhiều lớp hình tượng: từ đời sống thường nhật,
thiên nhiên, ký ức cá nhân, đến huyền thoại, tôn giáo và triết học. Ngôn ngữ ở
đó vừa gần gũi, vừa giàu tính biểu tượng, dung nạp chất liệu dân gian và hiện
đại, đời sống và chiêm nghiệm. Hình tượng không chỉ mang chức năng thẩm mỹ mà
còn đảm đương vai trò triết luận, như biểu tượng “ngọn lửa” trong trường ca của
Thùy Linh – vừa là hành trình nội tâm, vừa gợi đến chu kỳ sinh tử và tái sinh –
minh chứng cho cách thơ Việt kết hợp nhãn quan bản địa với tư tưởng phổ quát.
Sự
tiếp biến còn thể hiện ở khả năng đối thoại liên văn bản và liên văn hóa. Các
tác giả vừa duy trì kết nối với truyền thống Việt, vừa tham chiếu đến trường ca
cổ đại, triết học, văn chương hiện đại thế giới. Nhờ đó, thơ văn xuôi trở thành
không gian thử nghiệm, dung hòa mỹ học Á Đông và thi pháp phương Tây, kết hợp
nhịp nhàng giữa ngôn ngữ đời thường và chiều sâu tâm linh, kiến tạo bản sắc
đương đại vừa mang dấu ấn Việt, vừa gắn kết toàn cầu.
Từ
đó, thơ văn xuôi khẳng định vị thế đặc biệt: không chỉ làm giàu kho tàng thi
ca, mà còn góp tiếng nói riêng vào tiến trình thơ ca thế giới. Nó chứng minh
năng lực hội nhập mà không đánh mất bản sắc, đồng thời mở ra khả năng sáng tạo
độc lập của văn học Việt trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Đặc
điểm đáng chú ý khác là sự gắn kết giữa trải nghiệm cá nhân với chiêm nghiệm
triết lý. Thơ không dừng ở phản ánh xã hội hay biểu đạt cảm xúc, mà còn mở rộng
sang các câu hỏi về vũ trụ, đạo đức và ý nghĩa tồn tại. Bằng việc đồng thời nắm
bắt cái cụ thể và gợi mở cái siêu hình, thơ văn xuôi cho phép độc giả trải
nghiệm nhiều lớp nghĩa trong một văn bản.
Tuy
nhiên, thể loại này vẫn bộc lộ giới hạn. Thơ văn xuôi chưa có một hệ hình thi
pháp ổn định, phần nào gây khó khăn cho việc tiếp nhận và nghiên cứu. Phạm vi
độc giả còn hẹp, bởi hình thức gần gũi văn xuôi nhưng lại đòi hỏi sự nhạy cảm
thẩm mỹ tinh tế. Nghiên cứu lý luận về thể loại này cũng còn thiếu hệ thống,
khiến việc nghiên cứu, phê bình và định hướng sáng tác chưa được củng cố vững
chắc. Dù một số tác phẩm thơ văn xuôi Việt Nam đã được dịch ra nhiều thứ tiếng,
thể loại này vẫn chưa tạo được dấu ấn mạnh trên trường quốc tế. Điều này phản
ánh cả quá trình thử nghiệm hình thức, phong cách chưa ổn định và hạn chế trong
việc quảng bá, tiếp cận độc giả toàn cầu. Tuy vậy, thơ văn xuôi Việt Nam đã và
đang chứng tỏ khả năng hội nhập, tiếp nhận ảnh hưởng quốc tế đồng thời gìn giữ
và khẳng định bản sắc dân tộc, mở ra triển vọng nâng cao vị thế trên bản đồ văn
học hiện đại.
Như
vậy, thơ văn xuôi Việt Nam đương đại vừa là thành tựu vừa là thử thách. Nó mở
rộng biên độ thể loại, khẳng định bản sắc đương đại, đồng thời đóng góp vào đối
thoại văn hóa toàn cầu bằng chiều sâu triết lý và tâm linh riêng biệt. Song, để
khẳng định vị thế bền vững, cần tiếp tục khắc phục những hạn chế về lý luận,
công chúng tiếp nhận và ảnh hưởng quốc tế. Việc nhận diện đầy đủ cả thành tựu
lẫn giới hạn sẽ giúp thơ văn xuôi trở thành một trong những trụ cột của thi ca
Việt Nam hiện đại.
Chính
vì vậy, việc xây dựng một khung thi pháp đặc thù cho thơ văn xuôi Việt Nam là
điều cần thiết, vừa để khắc phục những bất cập hiện nay, vừa định hình nền tảng
lý luận cho sự phát triển lâu dài của thể loại. Bộ khung thi pháp cho thơ văn
xuôi Việt Nam có thể được xác lập dựa trên những đặc trưng riêng biệt của thể
loại này. Trước hết, về hình thức, thơ văn xuôi được trình bày theo lối đoạn/
bài văn xuôi tự do, không chia dòng theo vần luật, nhưng câu chữ vẫn giàu nhịp
điệu ngầm ẩn, thường tạo hiệu ứng thi ca thông qua sự lặp lại, ngắt nhịp và
nhấn mạnh hình ảnh. Ngôn ngữ trong thơ văn xuôi có khả năng khơi gợi hình ảnh,
cảm xúc và hình tượng. Nó vừa lấy chất liệu từ dân gian và ngôn ngữ đời sống,
vừa tiếp nhận những biểu tượng hiện đại và ý nghĩa triết lý. Đồng thời, loại
ngôn ngữ này vẫn giữ được một dạng “nhạc tính không vần” nhờ nhịp điệu bên
trong và những liên tưởng rộng mở. Nhịp điệu của thể loại này chủ yếu được kiến
tạo từ sự lặp cú pháp, dòng chảy cảm xúc và khoảng lặng bất ngờ, khiến văn bản
vừa phóng túng vừa cô đọng. Hệ thống hình tượng trong thơ văn xuôi mang tính
dung hợp, kết hợp yếu tố tự sự, trữ tình và triết luận, thường hướng đến các
biểu tượng đa nghĩa gắn với tâm thức văn hóa Việt Nam. Mỗi đoạn văn vì vậy trở
thành một đơn vị cảm xúc độc lập, cho phép cảm xúc vận động theo dòng ý thức, đồng
thời tạo nên sự giao thoa giữa ký ức, hiện tại và dự phóng. Bên cạnh đó, thơ
văn xuôi luôn tồn tại trong mối đối thoại liên văn bản với thơ truyền thống,
văn xuôi nghệ thuật và các thể loại khác, thường xuyên gợi dẫn sử thi, kinh
điển văn học hoặc ảnh hưởng quốc tế nhưng qua quá trình Việt hóa sáng tạo. Trên
tất cả, bản sắc của thơ văn xuôi Việt Nam thể hiện ở sự kết hợp tinh thần Á
Đông – giàu hàm súc, thiên về ẩn dụ và cảm quan hài hòa với vũ trụ – với tính
tự do, giải phóng hình thức từ phương Tây, nhờ vậy vừa phản ánh trải nghiệm
lịch sử – xã hội của dân tộc, vừa mở ra khả năng hội nhập với thi ca nhân loại.
9. Kết luận
Từ
sau Đổi mới, thơ văn xuôi Việt Nam đã khẳng định vị thế như một hình thức biểu
đạt tự do, đáp ứng nhu cầu giải phóng thi pháp và tìm kiếm ngôn ngữ phù hợp với
tinh thần thời đại. Qua thực hành sáng tạo của nhiều tác giả, thể loại này
chứng minh sức sống bền bỉ: vừa dung nạp và chuyển hóa thi pháp thơ quốc tế,
vừa giữ vững chiều sâu bản sắc dân tộc. Nhờ khả năng kết hợp tự sự, trữ tình và
triết lý, thơ văn xuôi đã mở rộng biên độ nghệ thuật, kiến tạo không gian dung
hợp cho trải nghiệm cá nhân và cộng đồng.
Điểm
nổi bật của tiến trình này không chỉ đổi mới hình thức và hình tượng, mà còn
hình thành một quan niệm mới về thi ca; đặc biệt thơ văn xuôi như một diễn ngôn
mở, nơi người đọc tham dự trực tiếp vào quá trình kiến tạo ý nghĩa. Với tinh
thần cách tân, thơ văn xuôi đã tạo nên căn tính đương đại độc đáo – vừa bản địa
vừa toàn cầu – góp phần tái định nghĩa vị thế của thơ Việt trong bản đồ thi ca
thế giới.
Tuy
nhiên, nghiên cứu về thơ văn xuôi hiện nay vẫn chưa theo kịp thực tiễn sáng
tác. Đặc trưng thể loại chưa được xác lập ổn định; thiếu một khung lý thuyết
toàn diện để lý giải; phạm vi tiếp nhận còn hẹp; và ảnh hưởng quốc tế vẫn khiêm
tốn. Ngoài ra, nhiều khảo sát mới dừng ở phạm vi lịch sử văn học, trong khi mối
liên hệ với các ngành như mỹ học, ký hiệu học, phân tâm học hay truyền thông
hiện đại chưa được khai thác sâu. Bên cạnh đó, thơ văn xuôi trong thực tiễn
xuất bản vẫn ít được chú ý, dẫn đến khoảng cách giữa sáng tác – phê bình và
công chúng độc giả, cũng như chưa được quan tâm đúng mức trong giảng dạy và
nghiên cứu chuyên sâu.
Những
hạn chế này gợi mở hướng nghiên cứu tiếp theo. Cần bổ sung các tiếp cận liên
ngành – từ mỹ học tiếp nhận, ký hiệu học, phân tâm học, đến nữ quyền, sinh thái
học… – để nhìn nhận thơ văn xuôi như một hiện tượng văn học – văn hóa đa diện,
gắn bó mật thiết với đời sống xã hội và tinh thần con người. Đồng thời, việc
phát triển nghiên cứu thực nghiệm về phản ứng tiếp nhận, cũng như gắn kết thơ
văn xuôi với môi trường giáo dục đương đại, sẽ giúp thể loại này lan tỏa rộng
rãi hơn.
Trong
tương lai, thơ văn xuôi có khả năng trở thành một không gian nơi thi ca Việt
tham gia tích cực và sâu sắc vào các diễn ngôn toàn cầu về nhân sinh, ký ức,
môi trường, bản thể và những khủng hoảng đương thời. Sự dung hợp giữa căn tính
dân tộc và tính nhân loại phổ quát sẽ tạo nền tảng để thơ Việt khẳng định dấu
ấn riêng trong bản hòa âm đa dạng của thi ca thế giới. Việc nhận diện đồng thời
cả thành tựu và hạn chế, vừa khẳng định tiềm năng vừa chỉ ra thách thức, chính
là con đường để thơ văn xuôi Việt Nam phát triển bền vững, đồng thời hoàn thiện
một thi pháp riêng, góp tiếng nói độc đáo vào tiến trình hội nhập văn học đương
đại.
Ninh Bình, 12/2024 – Hải Phòng, 9/2025
M.V.P
___________________
Vùng Lưỡng Hà (Mesopotamia – “giữa hai con sông” Tigris và Euphrates), nằm chủ yếu trên lãnh thổ Iraq, và một phần thuộc Syria, Thổ Nhĩ Kỳ và Kuwait. Trung tâm của nền văn minh Lưỡng Hà cổ đại là khu vực miền Nam Iraq ngày nay.
Chữ hình nêm (cuneiform), còn gọi là văn tự hình nêm hoặc văn tự hình đinh, là một trong những hệ chữ viết cổ xưa nhất của loài người, phát triển ở Lưỡng Hà khoảng 3100–1000 TCN. Chữ viết này được khắc trên các phiến đất sét ẩm bằng que nhọn, tạo ra những ký hiệu hình nêm đặc trưng.
Sử thi Aeneis (29–19 TCN) của thi sĩ Vergilius (người La Mã, 70–19 TCN), nhằm tôn vinh nguồn gốc thiêng liêng và chính thống của La Mã. Tác phẩm gồm 12 tập với gần 10.000 câu thơ, kể về hành trình của Aeneas – hoàng tử thành Troia, con trai thần Venus. Sau khi Troia sụp đổ, Aeneas mang cha và dân vượt biển tìm miền đất hứa. Chàng lưu lạc nhiều nơi: ghé Carthago và mối tình bi kịch với nữ hoàng Dido; xuống âm phủ gặp cha, được báo trước tương lai huy hoàng của Roma; cuối cùng đến Latium (Ý), giao chiến với các bộ tộc bản địa và lập nền móng cho quốc gia La Mã. Con cháu Aeneas sau này là Romulus – người sáng lập thành Roma. Aeneis đề cao số phận, bổn phận, lý tưởng cộng đồng, đồng thời khẳng định tính chính thống của đế chế. Đây là kiệt tác nghệ thuật và văn hóa, ảnh hưởng sâu rộng đến văn học châu Âu và được xem như sử thi dân tộc của La Mã cổ đại. Sử thi Aeneis, được dịch giả Nguyễn Bích Như dịch qua bản tiếng Anh của tác gia G. Chandon, do NXB Mũi Cà Mau ấn hành năm 1986 dưới nhan đề “Thần thoại La Mã”.
Sử thi Beowulf – thiên anh hùng ca bằng tiếng Anh – gồm 3182 dòng thơ, lấy bối cảnh Scandinavia, kể về dũng sĩ Beowulf người Geats. Beowulf sang Đan Mạch giúp vua Hrothgar tiêu diệt quái vật Grendel và sau đó giết luôn mẹ Grendel để giải cứu cung điện Heorot. Trở về quê nhà, Beowulf được tôn làm vua và trị vì 50 năm. Khi một con rồng nổi loạn vì kho báu bị đánh cắp, Beowulf cùng chiến binh trung thành Wiglaf giao chiến, diệt được rồng nhưng cũng tử thương. Beowulf được an táng trong gò đất cùng kho báu, còn vương quốc Geats dần suy vong. Sử thi Beowulf là khúc ca về lòng dũng cảm, cái chết và vinh quang, phản ánh tinh thần chiến binh Anglo-Saxon: số phận bất trắc, danh dự tối thượng, và khát vọng lưu danh bất tử.
Tập thơ Gaspard de la Nuit (có bản dịch: "Gaspard trong Đêm"), tác giả viết năm 1836, được xuất bản lần đầu năm 1842 tại NXB V. Pavie (Pháp), sau khi tác giả qua đời.
Tập thơ “Petits poèmes en prose” (có bản dịch: “Những đoản thi văn xuôi”), được xuất bản lần đầu trong “Tập 4” của Œuvres complètes (Tuyển tập tác phẩm) của Charles Baudelaire, do NXB Michel Lévy frères, Paris ấn hành năm 1869.
“Lý thuyết đối thoại” của Mikhail Bakhtin được hình thành sớm nhất trong nghiên cứu về tác phẩm của Dostoevsky, thể hiện trong cuốn sách “Проблемы творчества Достоевского” (tạm dịch: Vấn đề thi pháp Dostoevsky), xuất bản lần đầu bằng tiếng Nga năm 1929 tại Leningrad, nhà xuất bản “Прибой”. Tác phẩm được tái bản mở rộng và chỉnh sửa năm 1963, do nhà xuất bản “Советская Россия” ấn hành cùng năm tại Moskva, Nga.
Cuốn sách "Palimpsestes: La littérature au second degré", do NXB Éditions du Seuil tại Paris ấn hành năm 1982. Tên sách bằng tiếng Anh “Palimpsests: Literature in the Second Degree”, do University of Nebraska Press xuất bản vào năm 1997.
Bản tiếng Việt với tựa đề “Diễn ngôn tự sự”, do Lê Lưu Oanh, Nguyễn Ngọc Minh và Phùng Hữu Hải dịch, được lưu hành nội bộ tại Bộ môn Lí luận văn học, Khoa Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội (chưa rõ năm).
Hiền triết Vyāsa (tên đầy đủ: Vedavyāsa, Kṛṣṇa Dvaipāyana Vyāsa) là nhân vật huyền thoại Ấn Độ giáo, được coi là người biên soạn Mahābhārata và phân chia kinh Veda.
Phan Khôi (1887–1959), hiệu Chương Dân, là học giả, nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà lý luận và phê bình văn học, sinh tại Điện Bàn, Quảng Nam. Cháu ngoại Tổng đốc Hoàng Diệu, ông xuất thân Hán học nhưng lại là người khởi xướng phong trào Thơ Mới, góp phần quan trọng vào công cuộc hiện đại hóa văn học Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu quốc tế
- Aloysius Bertrand, Gaspard de la Nuit, Paris: Renduel, 1842.
- Михаил Бахтин, Вопросы литературы и эстетики. Исследования разных лет, Moskva: Художественная литература, 1975.
- Mikhail Bakhtin, The Dialogic Imagination, University of Texas Press, 1981.
- Charles Baudelaire, Petits poèmes en prose (Le Spleen de Paris), Paris: Michel Lévy, 1869.
- Harold Bloom, The Anxiety of Influence, Oxford University Press, 1973.
- Jorge Luis Borges, Selected Poems, New York: Viking Penguin, 1999.
- Gérard Genette, Palimpsestes: La littérature au second degré, Paris: Seuil, 1982.
- Stéphane Mallarmé, Divagations, Paris: Gallimard, 1897.
- Octavio Paz, The Bow and the Lyre, University of Texas Press, 1973.
- Arthur Rimbaud, Illuminations, Paris: Vanier, 1886.
- Walt Whitman, Leaves of Grass, New York: Fowler and Wells, 1855.
- Roman Jakobson, Style in Language, Thomas A. Sebeok (ed.), MIT Press, 1960.
- Roman Jakobson, Language in Literature, Harvard University Press, 1987.
II. Tài liệu trong nước
- Lại Nguyên Ân, 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000.
- Nguyễn Phan Cảnh, Ngôn ngữ thơ, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2001.
- Nguyễn Thị Chính, Nghiên cứu ngôn ngữ thơ văn xuôi Việt Nam, bản thảo luận văn, 2010.
- Nguyễn Thị Chính, Đặc tính tạo hình của ngôn ngữ thơ văn xuôi, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 494, tháng 4-2022, tr.74-78.
- Nguyễn Văn Dân, Ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện đại trong văn học Việt Nam, Tạp chí Văn học, số 3, 2005.
- Nguyễn Văn Hoa, Nguyễn Ngọc Thiện (biên soạn), Tuyển tập thơ văn xuôi (Việt Nam và nước ngoài), NXB Hội Nhà văn, 1997.
- Thụy Khuê, Phê bình văn học thế kỷ XX, NXB Hội Nhà Văn, 2018.
- Lã Nguyên, Phê bình ký hiệu học, NXB Phụ nữ, 2018.
- Nguyễn Quang Thiều, trường ca Lò Mổ, NXB Hội Nhà văn, 2024.
- Nguyễn Thị Thùy Linh, trường ca Ngọn lửa đôi và bông hoa, công bố trên mạng xã hội, 2025.
- Roman Jakobson (Trần Duy Châu biên khảo), Thi học và ngữ học, NXB Văn học – Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Hà Nội, 2008.
- Roman Jakobson, Chủ nghĩa cấu trúc trong văn học, Trịnh Bá Đĩnh dịch, NXB Hội Nhà văn, 2010.
- Trần Đình Sử, Thi pháp học và các hướng tiếp cận văn học, NXB Giáo dục, 2002.
- Walt Whitman, tập thơ Bài hát chính tôi, Hoàng Hưng dịch, NXB Hội Nhà Văn, 2015.

Phiến đất sét V của
sử thi Gilgamesh