image advertisement

image advertisement
image advertisement





























 

Nơi bầy ong trở lại (truyện ngắn) – Mai Văn Phấn

Nơi bầy ong trở lại

(Truyện ngắn)

 

 

Mai Văn Phấn

 

Trằn trọc mãi không ngủ được, gần sáng Hưng thiếp đi trong một giấc mơ nơi cánh đồng trải dài vô tận. Xác ong chất thành đống, dồn đến tận chân đê mới đắp. Những thân thể bé xíu, cánh nhàu nát, rỉ mật đen sẫm, đặc quánh như máu. Trên cao, một đứa trẻ đeo mặt nạ một loại côn trùng dữ tợn, quay mặt ra biển. Gió lùa qua những lỗ nhỏ trên mặt nạ, vi vu như tiếng ong gọi nhau về tổ cũ...

Hưng bừng tỉnh giữa mùi đất mặn nồng và tiếng mái tôn lạch tạch trên đầu. Trước nhà, những cây sú vẹt non đang vươn lên từ lớp bùn vàng sậm màu phù sa. Đây là vùng đất mới bồi cuối làng Kim Trạch[1], ven đê quai lấn biển thuộc huyện Kim Sơn. Tại đây, rừng sú vẹt mới được trồng để giữ đất, chắn sóng, giảm thiểu thiên tai, cũng là chốn người dân nuôi ong lấy mật mỗi mùa hoa nở. Anh châm điếu thuốc, lặng lẽ nhìn bầu trời đang rạng dần. Tiếng máy xúc từ công trường kè biển vọng về, chát chúa và đột ngột, như báo hiệu một ngày mới nhiều biến động. Mai vẫn chưa về. Đêm qua, cô trực ở trạm kỹ thuật.

Hưng múc nước mưa trong chum sành rửa mặt. Nước mát lạnh táp vào da thịt, giúp anh dứt ra khỏi dư âm của giấc mơ đêm qua. Mùa này, đất chưa kịp ngọt lại đã phải tiếp những đợt thủy triều mới. Đám thanh niên trong xã vừa được điều ra trồng rừng phòng hộ kiểu mẫu ven đê. Rừng nhân tạo, họ gọi thế, với mật độ trồng dày, cây cùng lứa, thẳng hàng như cọc tiêu cắm xuống đất lầy. Hưng chợt nhớ đến lời anh Toán – tổ trưởng kỹ thuật, vốn là thợ nề, mới đi tập huấn mười ngày trước khi triển khai dự án –  "Cần nhất là tốc độ cây sinh trưởng và mẫu chuẩn để báo cáo, không cần lo con ong."

Trạm kỹ thuật nằm chếch về hướng tây, ánh nắng buổi chiều đổ nghiêng lên những chồng hồ sơ bìa bọc nylon đã ố màu. Trong lúc chờ đồng bộ số liệu lên máy chủ, Hưng lật tìm chồng hồ sơ, thấy một tệp tài liệu, trên bìa in dòng chữ “Đánh giá tỷ lệ rừng trồng – giai đoạn 1. Không phổ biến.” Anh cau mày. Những con số hiện lên như nhảy múa: tỷ lệ cây bám rễ đạt 97%, độ che phủ tăng đều, độ mặn chỉ dao động nhẹ. Anh chụp lại từng trang. Khi truy cập hệ thống giám sát, Hưng đã thấy những bất thường này, nhưng chọn im lặng. Chỉ là vài dòng bị chỉnh, vài con số "làm đẹp" cho kịp tiến độ. Không ai bảo anh gian dối – chỉ cần biết điều. Và anh đã biết điều... Ngoài cửa, nắng vừa lên. Tiếng ve rền rã như trùm kín cả bầu không. Hưng tắt máy tính, bước nhanh ra phía bờ rừng.

Ông Bình đang ngồi tước tre dưới hiên nhà. Những thanh tre già được vót mảnh, đều tăm tắp, xếp thành từng bó nhỏ bên cạnh. Ông vẫn giữ dáng người gầy nhưng rắn rỏi, bàn tay thoăn thoắt không cần nhìn. Ông là người đầu tiên được giao giữ rừng khi dự án mới bắt đầu. Suốt mấy năm, ông Bình dựng chòi giữa bãi bồi, ngày nào cũng lội bùn kiểm tra từng gốc sú, từng dấu chân lạ lạc vào rừng. Khi dự án chuyển sang tay đơn vị khác, ông lặng lẽ rút về thửa ruộng cũ, không nhận thêm trợ cấp. Thấy Hưng tới, ông ngước lên, ánh mắt rạng rỡ thật thà: "Hưng đấy à! Đến thăm rừng hay thăm ong đấy?" Hưng bước lên hiên, cười thân mật: "Cháu đến thăm chú. Chú tước tre đều tay thật đấy. Cái này để đan lờ hả chú?" "Ừ, làm chơi cho vui thôi. Mắt còn thấy, tay còn làm." Hưng ngồi xuống bên ông, tay lật một thanh tre. "Dạo này chú khỏe không? Nhà mình còn nuôi ong không ạ?" Ông Bình gật đầu, giọng trầm xuống: "Cũng tạm gọi là khỏe, nhưng mà buồn. Từ ngày ong bỏ đi, không còn giọt mật nào đem ra chợ. Ruộng nhiễm mặn, rau không lên nổi. Mật ong vốn là sinh kế của cả làng này đấy cháu ạ." Cơn gió biển lùa qua mái hiên, mang theo vị mặn quen thuộc. Hưng quay mặt nhìn ra bãi đất thấp: "Rừng đang được trồng thêm, phủ lại dần mà chú. Thêm rừng, thêm hoa, ong rồi sẽ lại về thôi." Ông Bình khẽ hắng giọng, rót nước chè từ cái siêu đen đáy vào hai chiếc bát sành đã ngả màu. "Ôi dào, rừng cũ thì bị chặt bị đào hết lên để làm đầm tôm, bơm cát lấp kín bãi. Trước đây cứ độ giữa xuân đến đầu hè là rừng trắng hoa, ong bay lấy mật như mây, thùng ong nào cũng cho đẫy mật. Giờ trồng lại toàn giống sú chịu mặn, sống dai thì có, mà không có hoa. Không có hoa thì lấy gì mà giữ được ong?" Hưng im lặng, lòng nặng trĩu. Rừng cũ giờ chỉ còn trong ký ức, hoa không nở, dân làng không dám nuôi ong nữa.

Cuối chiều, Hưng rẽ vào chợ làng. Bà Lành đang gói cá khô cho khách, chiếc áo bà ba bạc màu ướt đẫm mồ hôi, dính sát lưng. "Chào cậu kỹ sư! Lâu lắm mới thấy cậu." Hưng cười, mua một gói cá nục, rồi ngập ngừng: "Cháu nghe nói trước đây bà cũng nuôi nhiều ong, phải không ạ?" Bà Lành mỉm cười, khóe mắt nhăn lại. "Trước nhà cũng nuôi khá nhiều. Vào mùa hoa sú vẹt, sáng ra ong bay đi hút mật rợp cả trời. Nhưng rồi rừng cũ mất dần, rừng mới trồng thì không ra hoa, những đàn ong đói bay đi cả, chẳng còn gì."

Hưng nhìn mớ hàng khô bày trước mặt bà Lành: mươi bìa mực cay, tôm nõn, rong biển đóng gói sẵn – chẳng thứ gì gợi nhắc về mật ong sú vẹt, hay hương vị của một vùng đất ven biển. "Con gái bà vẫn ở trong Nam ạ?" "Ừ, nó đi làm công nhân. Nó bảo ở đây mà chết đói à. Ruộng không có, ong cũng không còn, chẳng giữ chân nó được." Hưng muốn nói điều gì đó, nhưng cổ họng bỗng khô khản.

Đêm ấy Hưng lại mơ, anh thấy mình lạc vào một tổ ong, nhưng không có ong, chỉ những lớp sáp xám lạnh, trống rỗng. Những bức tường phập phồng như lồng ngực hấp hối. Một dòng cảnh báo màu đỏ nhấp nháy trên vách sáp: "Độ mặn vượt ngưỡng an toàn, bắt đầu quá trình suy thoái." Hưng đi qua một hành lang dài chẳng chịt rễ cây, nơi những màn hình lập lòe hình ảnh rừng sú trắng hoa, từng cụm hoa vỡ vụn trong không khí như tro bụi. Cuối hành lang, một bà lão mù ngồi quay tơ bên cây sú mục. Mỗi sợi tơ hiện lên như biểu đồ đường cong mặn hóa, độ sụt lún, độ pH… nhưng khi vừa chạm vào guồng quay, chúng hóa thành những xác ong khô rỗng, rơi tơi tả. Hưng đến gần, hỏi: "Bà đang quay gì vậy?" Bà lão không trả lời, rút ra một suốt tơ chìa cho Hưng xem, sợi tơ từ suốt tở ra một hàng số liệu dài dặc, Hưng dõi mắt nhìn thì ra số liệu khảo sát trồng rừng phòng hộ thực tế của những năm trước. Ở đoạn giữa hiện lên dòng chữ: "Ngưỡng cảnh báo đã bị điều chỉnh". Một cơn gió mặn thổi đến. Tổ ong tan ra thành lớp bùn lỏng. Anh vùng vẫy. Trong khoảnh khắc cuối cùng trước khi bị nhấn chìm, anh thấy Mai đứng lặng lẽ bên một thân cây sú trổ hoa trắng, tay cô đưa về phía anh. Trên đầu cô, đàn ong đang lượn vòng...

Hưng choàng tỉnh. Trong bóng tối, tiếng gì đó như gõ vào cửa sổ – không rõ là sóng, hay những cánh ong lạc đàn. Đúng lúc ấy, Mai gọi điện cho anh, giọng ngắn gọn: “Em đang ở ngoài đê. Anh ra đây nhé!" Hưng ra đê khi trời mới rạng. Mai đang đứng trên một đoạn đê quai cũ, nơi từng bị vỡ trong cơn bão năm ngoái, giờ đã được đắp lại bằng bao cát và rọ đá. Dưới chân đê, nước sủi bọt lăn tăn, có mùi rong mục lẫn với mùi dầu máy. "Em vẫn nhớ mùi này. Năm lớp tám, em đã từng bị cuốn xuống đoạn này. Người làng kéo lên được, nhưng con chó nhà em thì mất tích, mấy ngày sau xác nó mới dạt vào chân đầm." Câu chuyện nghe lạnh và buồn, có gì đó sâu hơn trong mắt Mai, một lớp sương quá khứ chưa tan hết. "Lần trước, em nói dối anh. Về cái thư học bổng." Mai rút từ túi xách một phong bì đã nhàu. Đó là thư mời nghiên cứu sinh từ một trường đại học bên Nhật, chuyên ngành sinh thái biển. Thư đã quá hạn phản hồi gần một năm. "Em đã nhận thư mời này nhưng không muốn đi, vì em tưởng mình có thể làm được điều gì đó ở đây. Giờ thì em không chắc nữa."

Hưng đọc lướt. Con dấu của trường bằng tiếng Nhật như vết ong chích, nhức nhối. "Sao em không nói?" "Vì em sợ anh cũng đi." Câu trả lời bật ra, như một vết nứt nhỏ trên tảng băng. Hưng quay mặt đi. Dưới chân, những thân sú vẹt đâm thẳng xuống bùn, lặng lẽ chờ đợi. "Dự án đang dùng dữ liệu giả. Anh tìm thấy hồ sơ nội bộ bị chỉnh sửa. Có thể có ai đó đã chỉnh sửa ngưỡng cảnh báo mặn, để độ mặn khớp với chỉ số an toàn." Mai không bất ngờ, cũng không phản kháng. "Em nghi ngờ từ năm ngoái, nhưng không đủ bằng chứng." Hưng quay lại nhìn Mai. Mắt cô thăm thẳm gương hồ. Mai chậm rãi: "Em đã nghĩ nếu cố giữ được một phần rừng, trồng thêm, giám sát tốt hơn, sẽ cứu được hệ sinh thái này. Nhưng giờ em không chắc." Cả hai nhìn nhau, im lặng.

Hưng nhớ lại thời sinh viên, cùng Mai học chuyên ngành Quản lý tài nguyên và Môi trường, cùng ngồi trong phòng thí nghiệm đến tối muộn chỉ để phân tích mẫu đất ven sông Hồng. Mai khi ấy tóc buộc cao, đôi mắt lúc nào cũng ánh lên vẻ nhiệt thành. Họ cưới nhau ngay sau khi ra trường, không tiệc tùng, chỉ một bữa liên hoan với người thân, bạn bè và tấm bằng tốt nghiệp còn thơm mùi giấy mới. Hưng từng đùa: "Chúng mình cưới nhau trước khi có việc làm ổn định, liều như trồng rừng lấn biển vậy." Cô bật cười: "Thì cứ cắm rễ đã, rồi tính." Về Kim Trạch, họ được sắp xếp một căn phòng nhỏ ngay trong trạm kỹ thuật, tường ván ép, mái tôn rung lên mỗi khi gió lùa. Khi ấy, họ chưa nói gì về tương lai, chỉ tin rằng còn rừng, còn đất, thì sẽ có chỗ cho hai người. Hưng đã nghĩ tình yêu của họ giống như rễ sú, rễ bần cắm sâu trong đất, bền chặt, không dễ bị cuốn trôi.

Đêm đó, Hưng trở về trạm kỹ thuật, mở lại hồ sơ lần nữa. Độ mặn tăng chậm, nhưng đều, như cách một vết rạn lan trên bức tường cũ. Hưng chưa từng biết đến sự bất thường này, song anh đoán ngay ra những chỉnh sửa này nhằm "làm đẹp" hồ sơ, để báo cáo, để có thành tích. Việc này vẫn được coi là bình thường trong những dự án dài hơi như vậy, những người chỉnh sửa số liệu đều cho rằng trong quá trình thực hiện dự án nếu mưa thuận gió hòa đất sẽ bớt mặn, số liệu bị vênh kia sẽ tự cân đối lại. Nhưng thời gian qua lượng mưa rất ít, độ mặn vẫn tăng dần đều. Thực tế này hiển nhiên không thể chỉnh sửa. Đất vẫn lưu dấu lại. Hưng hít sâu một hơi dài, vị muối mặn len vào cuống họng. Anh nhớ lần đầu đặt chân đến vùng đất bồi này, từng tin đó là lựa chọn đúng đắn nhất. Giờ thì trước mắt vẫn chỉ là bùn chua và những thân cây còm cõi. Anh cất tập hồ sơ vào cặp, siết nhẹ quai, cố giữ bình tĩnh. Không thể chần chừ thêm nữa.

Cuộc họp diễn ra đúng vào đêm áp thấp nhiệt đới chuyển thành bão. Sân nhà văn hóa ngập nước từ trưa, mùi ẩm mốc lẫn với mùi dầu máy và mồ hôi người. Gió quất qua những khe cửa, dội vào những tấm pano phai màu treo trên vách. Hưng đến muộn. Mai đã ngồi sẵn hàng ghế đầu, cạnh ông Lâm – Phó chủ tịch xã, người làm chủ tọa. Bên cạnh là bà Lành – cán bộ lâm nghiệp đã nghỉ hưu.

"Thưa bà con! Mưa chưa lớn, bên kỹ thuật báo hệ thống bơm vẫn hoạt động bình thường. Tôi xin tuyên bố khai mạc cuộc họp điểm lại tình hình thực hiện dự án trồng rừng phòng hộ kiểu mẫu của xã ta, cụ thể là làng Kim Trạch, nơi thực hiện thí điểm đầu tiên. Cuộc họp này được tổ chức theo đề xuất của các các kỹ sư quản lý tài nguyên và môi trường của dự án, tôi sẽ làm chủ tọa, anh Vương là thư ký, tham dự là toàn thể đại diện các gia đình làng ta." Giọng ông Lâm đều đều như phát thanh viên đọc tin, ánh mắt đảo nhanh một vòng quanh hội trường như thể dò xem thái độ từng người. Ông Lâm nhìn về phía Hưng và Mai rồi nói tiếp: "Do bão lớn, Ban quản lý dự án không xuống dự được. Hiện có hai kỹ sư trực tiếp phụ trách ở làng ta là chị Mai và anh Hưng, thay mặt báo cáo tình hình."

Mai đứng dậy. "Thưa ông chủ tọa, thưa bà con, do trời đang bão cần phải khẩn trương, chúng tôi xin phép để kỹ sư Hưng báo cáo nhanh tình hình dự án, xin bà con lắng nghe!"

Hưng bước lên, mái tóc ướt nước mưa, tay trải hồ sơ ra bàn, giọng khản nhưng dứt khoát: "Thưa bà con! Tôi xin trình bày số liệu thật, không phải số liệu đã báo cáo lên Tỉnh. Theo những hồ sơ lưu này thì các chỉ số mặn đã vượt ngưỡng từ mười bốn tháng trước. Dữ liệu gốc đã bị can thiệp, cố tình điều chỉnh ngưỡng cảnh báo xuống thấp hơn thực tế. Dự án này đã đi chệch từ lâu. Nếu độ mặn cứ tiếp tục tăng thế này, không chỉ lụi rừng, mất ong, mà con đê quai có khả năng cũng bị sụp." Mai đứng lên tiếp lời Hưng: “Rừng kiểu mẫu trồng đồng loạt, một loài, một lứa, trụi cả tầng cỏ. Đất mặn vượt ngưỡng. Cây phải giữ năng lượng nuôi thân lá, chúng èo uột, không còn đủ điều kiện để sinh sản nên không ra hoa, đó là nguyên nhân khiến ong bỏ đi. Chúng tôi thấy có trách nhiệm phải trình bày cho bà con hiểu rõ tình hình thực tế.”

Tiếng xì xầm lập tức nổi lên. Một bà từ cuối hội trường đứng lên, gay gắt: "Các anh chị nói thế là thế nào? Làm ăn mà giấu nhẹm như thế thì bà con chúng tôi biết xoay sở ra sao? Trông vào trồng rừng mới để còn gây lại đàn ong, bỏ bao nhiêu công sức vào đấy, đất đai của các hộ liền kề cũng quy hoạch vào để làm dự án, giờ thành công cốc à? "

Một thanh niên đứng lên, tay vung mạnh: "Các ông bắt dân chịu khổ! Trồng rừng gì đâu? Chỉ là cái cớ để tiêu tiền ngân sách."

Cả hội trường nhao nhao, tiếng phản đối dồn dập như sóng. Ông Lâm cố gắng cắt ngang, giọng như người đang gồng lên: "Xin bà con bình tĩnh! Ai có ý kiến xin mời giơ tay, phát biểu lần lượt. Đề nghị các anh chị kỹ sư dự án trả lời cho người dân!" Mai ngây người ra, giọng nghẹn lại: "Chúng tôi xin nhận lỗi đã không thông báo kịp thời, để dự án gây ra thiệt hại cho bà con. Chúng tôi sẽ báo cáo tình hình thực tế để xin ý kiến cấp trên."

Hưng nói tiếp: "Chúng tôi cam kết sẽ chịu trách nhiệm, sẽ trực tiếp phối hợp với các cơ quan có trách nhiệm để sửa sai."

Ông Bình đứng lên, giọng từ tốn: "Các anh chị định sửa sai bằng cách nào, nói chúng tôi nghe thử?! Đất thì vẫn cứ mặn dần lên, rừng thì đã trồng rồi, các anh chị làm gì để đất bớt mặn, để cây ra hoa được?"

Bà Lành bật dậy, đanh thép: "Nếu các người không làm được, chúng tôi sẽ kiến nghị lên huyện, lên tỉnh. Chuyện này chẳng phải chỉ nói chơi vài câu thế đâu!" Mọi người ồ lên tán thành phát biểu của bà Lành.

Căng thẳng dâng cao, ông Lâm nhìn quanh, rồi cũng đứng lên, giọng trầm xuống: "Tôi xin tóm lại thế này: Nếu các kỹ sư chưa có giải pháp khắc phục nào khả thi, thì dự án phải dừng ngay việc trồng rừng mới. Từ nay, sẽ ưu tiên bảo vệ rừng nguyên sinh còn lại. Cấm tuyệt đối khai thác cây vẹt và không cho đào ao nuôi tôm để phá hoại môi trường. Có lẽ sẽ phải làm lại từ đầu, và phải lắng nghe ý kiến bà con. Chỉ có hợp sức, mới cứu được rừng, cứu được làng ta!" Cả hội trường vỗ tay rào rào.

Ngoài trời, gió rít dữ dội, tiếng cành cây gãy đập xuống mái nhà. Một tiếng rầm vang lên khiến mọi người giật thót. Một cậu bé lao vào, tóc ướt sũng, gào lên: "Nước tràn vào đê phụ phía Nam rồi! Cây mới trồng bị gió bứng hết gốc rồi!"

Mọi người bật dậy, kẻ chạy về nhà, người lao ra cứu đê. Trong lúc vội vã, Hưng quay sang Mai: "Có lẽ chúng ta đã chậm mất rồi." Mai cắn chặt môi, rồi bất ngờ bước nhanh xuống bậc thềm, tay siết chặt túi tài liệu như nắm giữ cả hy vọng và trách nhiệm.

Vài ngày sau, đoàn kiểm tra liên ngành từ tỉnh về Kim Trạch. Họ mang theo thiết bị đo hiện trường, lấy mẫu đất, mẫu nước, kiểm tra độ mặn và sinh khối rừng. Tại trạm kỹ thuật, Hưng bàn giao bản đối chiếu giữa dữ liệu gốc và bản báo cáo đã bị chỉnh sửa. Đoàn sao lưu toàn bộ hồ sơ, phỏng vấn thêm bà Lành, ông Bình và một số hộ nuôi ong. Chiều cùng ngày, một cuộc họp khẩn diễn ra tại Ủy ban nhân dân xã. Đại diện Sở Tài nguyên và Môi trường yêu cầu tạm dừng toàn bộ kế hoạch mở rộng rừng kiểu mẫu, chờ đánh giá lại toàn diện. Đồng thời, họ thành lập tổ giám sát độc lập, gồm cán bộ kỹ thuật, các nhà nghiên cứu sinh thái và đại diện người dân.

Mấy tuần sau cơn bão, vùng đất Kim Trạch vẫn ngai ngái mùi rong rêu trôi dạt. Những vết nứt trên sườn đê đã được vá lại, các rãnh tiêu nước gần chân đê được khơi thông, bảo vệ đê khỏi hư hại. Gió mang theo âm thanh mới, tiếng côn trùng cựa mình trong đám cỏ, tiếng cá quẫy ở các ao trũng ven đê, xen lẫn tiếng vo ve thoảng nhẹ. Hưng ngước nhìn tán sú vẹt vừa nhú đợt lá mới. Vài con ong nhỏ xíu bay ngang qua, như tín hiệu của sự sống trở lại. Mùa mưa đến mang theo hy vọng. 

Bà Lành đã dựng lại tổ ong bằng những thùng gỗ, bên cạnh vạt rừng đang dần hồi phục. Một nhóm sinh viên đại học về thực tập quyết định ở lại suốt mùa mưa để khảo sát đất và nước ngầm. Mai được mời tham gia dự án nghiên cứu liên vùng, còn Hưng được phân công hướng dẫn các bạn trẻ tham gia quan sát hiện tượng tự nhiên và thu thập mẫu đất, mẫu nước phục vụ khảo sát vi sinh vật trong bùn.

Đêm cuối xuân, Hưng mơ thấy làng Kim Trạch – không phải ngôi làng quen thuộc, mà là một tổ ong khổng lồ. Những mái nhà xếp khít như những ô lục lăng trong tổ ong, con đê uốn cong như vách sáp mềm mại. Người làng là những con ong cần mẫn, mỗi bước chân để lại một làn sóng rung nhẹ dưới lòng đất, lan tỏa qua rễ cây, tầng nước mặn và những cụm vi sinh. Các dòng dữ liệu môi trường – thứ từng khiến anh trăn trở – giờ bung nở thành rừng hoa sú vẹt trắng ngần, vẫy gọi những đàn ong quay về hút mật. Hưng chợt thấy mình mọc cánh, mỏng nhẹ và trong suốt. Trên đầu phủ đầy phấn hoa sú, hoa vẹt; những hạt bụi li ti mang theo dấu vết của rừng, của biển, của sự sống bền bỉ. Anh bay vòng quanh những thân sú, thân vẹt đang trổ hoa trắng muốt, lượn qua từng chùm hoa như những ngọn đèn được thắp lên trong sương sớm. Quanh anh, cả đàn ong đang bay: bà Lành mặc chiếc áo bà ba mới, ông Lâm với đôi mắt nâu trầm như tổ ong lâu năm, còn Mai, lặng lẽ, nghiêng đầu mỉm cười rồi lướt nhanh, để lại một vệt hương dịu dàng như bông sú mở ra trong nắng sớm. Tất cả cùng bay trong bầu không khí rộn ràng niềm hân hoan. Có điều gì rất quen thuộc trong những đường bay ấy – hơi ấm của cộng đồng, nhịp đập của đất, tiếng gọi thầm lặng từ một tương lai đang hé mở.

Hưng tỉnh giấc khi ngày mới vừa hé rạng, ánh sáng dịu dàng lan nhanh vào phòng. Gió biển lùa qua khe cửa, mang theo mùi mặn mà và tiếng lá sú, lá vẹt xào xạc. Mai đã đi làm từ sớm, có lẽ đang cùng nhóm sinh viên ngoài rừng. Trên bàn gỗ, tờ giấy được chặn bởi một mảnh san hô. Bản in vệ tinh vùng ven biển, kéo dài tới mép rừng. Trên nền bản đồ, một vệt mật ong loang nhẹ, chắc do Mai vẽ, dẫn thẳng tới cánh rừng đang hồi phục. Hưng cầm tờ giấy lên. Ngoài cửa sổ, sương vẫn chưa tan. Từ phía rừng vọng lại tiếng rù rì, có thể là bầy ong, cũng có thể chỉ là tiếng gió thổi qua ký ức. Anh khoác áo, bước nhanh ra ngoài.

 

______________

[1] Tên làng Kim Trạch do tác giả hư cấu.

 

Kim Sơn, 05/6/2025

M.V.P

 

 

(Đã đăng: Tạp chí Văn Nghệ Ninh Bình, số 305+305/5/2025)

 

 

 

 

 

 

 
BÀI KHÁC
1 2 3 4 5  ... 

image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement




























Thiết kế bởi VNPT | Quản trị