Hình ảnh con quạ: Biểu tượng đa chiều trong văn hóa Việt và thế giới - Trang Tran
Hình ảnh con quạ: Biểu tượng đa chiều trong văn hóa Việt và thế
giới

Cách vẽ con quạ
Trang
Tran
Posted
on 06/09/2025 by Trang Tran
Đầu
thế kỷ XXI, nhà thơ Mai Văn Phấn với bài thơ dài “Biến tấu con quạ” đã mang đến
một góc nhìn triết lý sâu sắc về hình ảnh con quạ. Tác phẩm này vừa kế thừa cổ
mẫu của quạ là biểu tượng của cái chết, của tối tăm, của sự băng hoại, nhưng
đồng thời cũng đổi mới, cách tân khi quạ còn là sự “khai sinh” ra một thế giới
mới. Thi phẩm khép lại với một ý nghĩa gợi mở: ngôi nhà đổi mới nào cũng phải
dựa trên nền truyền thống. Chỉ có thể phá bỏ cái cũ lỗi thời mới tạo ra cái mới
hiện đại. Bốn chữ “Con quạ rực sáng” đã khái quát cao nhất ý nghĩa “biến tấu”
của biểu tượng này, cho thấy hình ảnh con quạ có thể vươn lên từ bóng tối để
mang ý nghĩa của sự đổi mới và hy vọng.
*
* *
Hình ảnh con quạ từ lâu
đã in sâu vào tâm thức con người qua nhiều nền văn hóa, nhưng không phải lúc
nào cũng với cùng một ý nghĩa. Dù thường bị gắn với những điều tiêu cực, loài
chim này vẫn ẩn chứa một tầng sâu biểu tượng phong phú, phức tạp và đôi khi đầy
bất ngờ, phản ánh góc nhìn đa diện của xã hội về cuộc sống, cái chết và những
điều huyền bí.
Hình
Ảnh Con Quạ Trong Tâm Thức Dân Gian Việt Nam
Trong văn hóa dân gian
Việt Nam, hình ảnh con quạ thường mang sắc thái tiêu cực, biểu trưng cho sự xấu
xí, tham lam và độc ác. Quan niệm này được thể hiện rõ nét qua các câu thành
ngữ, tục ngữ và truyện cổ tích đã ăn sâu vào tiềm thức nhiều thế hệ. Chẳng hạn,
câu “Quạ nào mà chẳng đen đầu” ám chỉ bản chất khó thay đổi của những kẻ ác,
tương tự như màu lông đen đặc trưng của loài chim này.
Dưới
“Hình Ảnh Con Quạ” Qua Lăng Kính Ca Dao, Tục Ngữ
Không chỉ dừng lại ở sự
xấu xa, con quạ còn đại diện cho nhiều tính cách tiêu cực khác. Để chê trách kẻ
lẳng lơ, người ta ví von “Trai thấy gái lạ như quạ thấy gà con”, mô tả sự háu
đói, thiếu đứng đắn. Kẻ thiếu nghiêm túc thì bị nhận xét là “Láo liên như quạ”,
còn những người nói to tiếng, ồn ào thì bị so sánh “Quang quác như quạ”. Những
thành ngữ như “Đen như quạ”, “Xấu như quạ” trực tiếp gán cho loài chim này
những đặc điểm ngoại hình không mấy thiện cảm.
Ngoài ra, hình ảnh chim
quạ còn được dùng để chỉ sự giả tạo, mượn vẻ bề ngoài của người khác để che đậy
bản chất. “Quạ mượn lông công” là câu thành ngữ nổi tiếng, miêu tả kẻ dùng cái
đẹp vay mượn để che giấu sự xấu xí của chính mình. Sự cay nghiệt còn được thể
hiện qua lời chửi “Đồ quạ mổ!” dành cho những đối tượng lăng loàn, thiếu đoan
chính trong xã hội xưa.
Nguồn
Gốc Của Sự Ác Cảm Với Hình Ảnh Con Quạ Tại Việt Nam
Việc hình ảnh con quạ gắn
liền với những điều tiêu cực không phải là ngẫu nhiên, mà có những lý giải sâu
sắc từ môi trường sống và tập quán của người Việt. Một trong những nguyên nhân
chính là yếu tố khí hậu và văn hóa sông nước. Xứ sở nhiệt đới với nắng vàng,
nước trong đã hình thành nên tâm thức ưa chuộng sự phóng khoáng, rộng rãi, và
những gam màu sáng, tinh khôi. Đối lập với điều đó, màu đen của chim quạ thường
bị coi là màu của tang tóc, đau thương và kém may mắn, tạo nên sự đối lập mạnh
mẽ với vẻ đẹp của “con cò trắng” thanh tao, biểu tượng cho sự trong sạch.
Lý
Giải Quan Niệm Tiêu Cực Về Con Quạ Trong Đời Sống Nông Nghiệp
Người Việt xưa chủ yếu
sống bằng nghề nông, gắn liền với chăn nuôi gia cầm. Con quạ lại là kẻ thù của
họ, thường xuyên ăn cắp trứng hoặc bắt gà con. Ca dao có câu: “Một con diều tha
/ Một con quạ bắt…” phản ánh trực tiếp sự thiệt hại mà loài chim này gây ra cho
người nông dân. Do đó, việc chim quạ bị ghét bỏ là điều tất yếu. Trong câu
chuyện về “Ác là” và “quạ” (được gọi là ác), việc quạ ăn hết trứng của chim ác
là chỉ để lại vỏ, đã tạo nên thành ngữ “Gửi trứng cho ác” và củng cố thêm hình
ảnh con quạ là kẻ tham lam, độc địa.
Chim
Quạ Trong Truyện Cổ Tích “Tấm Cám”: Biểu Tượng Trừng Phạt
Đỉnh điểm của sự gắn kết
hình ảnh con quạ với cái ác trong văn hóa Việt phải kể đến truyện cổ tích “Tấm
Cám”. Tiếng quạ kêu cuối truyện “Ngon gì mà ngon! Mẹ ăn thịt con! Có còn xin
miếng!” không chỉ là một chi tiết mang tính kịch tính mà còn là lời kết án đanh
thép, đích đáng nhất dành cho mẹ con Cám vì những tội ác mà họ gây ra. Tiếng
kêu của chim quạ lúc này mang ý nghĩa của sự trừng phạt công bằng, là tiếng
vọng của công lý vang dội trong câu chuyện cổ tích quen thuộc này. Từ đó, hình
ảnh con quạ trở thành biểu tượng mạnh mẽ cho hậu quả của cái ác.
Sự
Đa Dạng Của Biểu Tượng Con Quạ Trong Các Nền Văn Hóa Phương Tây
Hình ảnh con quạ không
chỉ đơn thuần là biểu tượng của cái xấu ở Việt Nam mà còn mang nhiều ý nghĩa đa
dạng, thậm chí đối lập ở các nền văn hóa khác trên thế giới, đặc biệt là phương
Tây. Thời nguyên thủy, loài chim này bay lượn nhiều hơn trong bầu trời văn hóa
mọi quốc gia, từ sứ giả thần linh đến điềm báo dữ.
Con
Quạ Với Vai Trò Sứ Giả Thần Linh Trong Thần Thoại
Trong thần thoại Hy Lạp,
con quạ từng là sứ giả của thần Âm nhạc Apollo trước khi bị biến thành màu đen.
Người Maya cổ đại lại coi hình ảnh chim quạ là sứ giả của thần linh, không chỉ
có khả năng tiên tri mà còn xua đuổi vận xấu, báo hiệu điềm lành. Sách “Sáng
thế” của Kitô giáo kể rằng, sau trận Đại hồng thủy, Thánh Noah đã thả một con
quạ ra khỏi thuyền để kiểm tra xem nước đã cạn hay chưa, điều này cho thấy ý
nghĩa con quạ như một thám tử hoặc người tiên phong. Trong thần thoại Bắc Âu,
quạ là thân tín của Odin – vị thần đứng đầu, biểu trưng cho trí tuệ và sự quan
sát. Thậm chí, trong văn hóa Canada cổ xưa, con quạ còn được yêu quý như một
vật tổ linh thiêng.
Từ
Điềm Gở Đến Linh Hồn Bị Nguyền Rủa: Quan Niệm Phương Tây Về Quạ
Ngược lại, trong một số
sử thi cổ xưa phương Tây và đặc biệt là thời hiện đại, hình ảnh con quạ thường
bị coi là sứ giả của bóng đêm, của tối tăm địa ngục và tai ương bất ngờ. Con
quạ là loài vật báo trước cái chết của các vị anh hùng đến mẹ hoặc vợ của họ.
Đến ngày nay, phương Tây vẫn quan niệm quạ là biểu hiện của điềm gở. Nó đối lập
hoàn toàn với hình ảnh bồ câu – biểu tượng của hòa bình hay thiên nga – biểu
trưng cho vẻ đẹp, sự thanh khiết. Nếu trong giấc mơ của ai đó có con quạ, đó
thường được coi là điềm báo chẳng lành.
Ở Pháp, người ta tin rằng
quạ là linh hồn của các linh mục chuyên làm điều xấu. Người Đức coi hình ảnh
con quạ là hiện thân của những linh hồn bị nguyền rủa, không thể siêu thoát.
Với người Thụy Điển, tiếng quạ kêu trong đêm báo hiệu linh hồn của người chết
không được chăm sóc đầy đủ, cần được giải thoát. Quan niệm này đã ăn sâu vào
văn hóa châu Âu trong nhiều thế kỷ.
Hình
Ảnh Chim Quạ Ở Phương Đông: Từ “Kim Ô” Đến Sứ Giả Tử Thần
Khác biệt với phương Tây,
trong văn hóa phương Đông, hình ảnh con quạ lại đa nghĩa và phức tạp hơn nữa.
Tâm linh Ấn Độ coi quạ là “sứ giả của Thần Chết”, một điềm báo của sự kết thúc.
Với người Lào, họ tin rằng con quạ uống nước nơi nào, nước nơi ấy sẽ trở nên ô
uế, nên tuyệt đối không được dùng nước đó để hành lễ cúng bái.
Quạ
Ba Chân (Tam Túc Ô) Và Thần Thoại Mặt Trời
Tuy nhiên, trong văn hóa
Trung Hoa nguyên thủy, hình ảnh con quạ lại được tôn vinh như “con chim của mặt
trời” đi cùng với các mỹ từ như “kim ô”, “khẩu ô”, “dương ô”, “tam túc ô”. Đây
là con quạ ba chân, từ đời Hán được khắc tạc vào giữa hình ảnh vầng thái dương
trên các pho tượng đá, ở đình, cung đình… bởi nó được tin là “truyền sinh khí
cho mặt trời”. Ba chân của chim quạ tượng trưng cho ba thời điểm của mặt trời:
sáng – mọc, trưa – cao nhất, chiều – lặn. Từ đó, biểu tượng này được nâng cao
tầm ý nghĩa, trong văn hóa chính trị được coi như một dấu hiệu thần thánh tái
lập, duy trì trật tự xã hội.
Con
Quạ Trong Phật Giáo Và Tư Tưởng Hiếu Đạo
Không chỉ vậy, trong văn
hóa dân gian Trung Hoa, ý nghĩa con quạ còn gắn liền với sự hiếu thảo của con
cái với cha mẹ. Truyện kể về quạ con mớm mồi cho quạ mẹ già yếu đã trở thành
biểu tượng cho lòng hiếu kính. Trong “Tây du ký”, con quạ được “thiêng hóa”
trong câu chuyện Bồ tát Ô Sào thiền sư tu trên ổ quạ, người đã truyền tâm kinh
cho Đường Tăng, giúp ông có thêm bản lĩnh vượt qua khổ nạn để đến Tây phương
thỉnh kinh. Hình tượng quạ ba chân này còn bay ngang sang vùng trời văn hóa
Nhật Bản và Triều Tiên. Người Nhật Bản biến thành quạ ba chân Yatagarasu để làm
sứ giả của thần linh mang điềm lành đến cho con người. Thần thoại Triều Tiên
gọi quạ ba chân là Samjok-o, biểu tượng của mặt trời dẫn lối và đem ánh sáng
niềm vui cho nhân gian, đồng thời cũng là biểu tượng của quyền năng tối cao.
Ý
Nghĩa Con Quạ Trong Văn Học: Tiếng Kêu Vang Vọng Mọi Thời Đại
Hình ảnh con quạ đã vượt
ra khỏi phạm vi tín ngưỡng và dân gian để đi vào văn học, nơi nó được khúc xạ
qua lăng kính nghệ thuật đa dạng, tinh tế của các nhà thơ, nhà văn qua nhiều
thời đại. Từ thơ Đường Trung Quốc đến thơ ca Việt Nam hiện đại, tiếng quạ kêu
luôn mang một âm hưởng đặc biệt, gửi gắm những tâm tư, nỗi niềm sâu sắc của tác
giả.
Thơ
Đường Và Tiếng Quạ Kêu Gợi Cảm
Trong thơ Trương Kế, bài
“Phong Kiều dạ bạc”, tiếng quạ là một thi pháp hình ảnh thật gợi: “Nguyệt lạc ô
đề sương mãn thiên” (Trăng tà, tiếng quạ, sương đầy trời). Tiếng kêu của con
quạ được đặt giữa câu thơ như để đẩy không gian thêm bao la, xa vắng, buồn hơn,
tạo nên một bức tranh thủy mặc đầy u hoài. Lý Bạch trong bài “Ô dạ đề” cũng
nhắc đến hình ảnh chim quạ ở giữa hai khoảng hữu hạn và vô hạn của không gian:
“Mây vàng chiếc quạ bên thành/ Nó bay tìm ngủ trên cành nó kêu”, gợi lên cảm
giác nhỏ bé, cô độc giữa vũ trụ rộng lớn. Đỗ Phủ trong bài “Dã vọng” thì gợi
niềm thương cảm trong nỗi sầu thê lương: “Muộn về chim hạc bay xa/ Từng đàn
chim quạ đậu đà chín cây”, thể hiện sự cô đơn và nỗi buồn của cuộc sống ly
loạn.
Hình
Tượng Quạ Trong Thơ Ca Việt Nam Hiện Đại
Tiếng quạ kêu cũng vọng
vào thơ Việt mang một âm hưởng khác. Nguyễn Hữu Cầu thể hiện chí khí vẫy vùng
muốn rời bỏ cái ngột ngạt để vươn tới tự do sáng lóa: “Bay thẳng cánh muôn
trùng tiêu hán/ Phá vòng vây bạn với kim ô” trong bài “Chim trong lồng”. Ở đây,
kim ô (quạ vàng, biểu tượng mặt trời) là hình ảnh đối lập với không gian chật
hẹp, tượng trưng cho khát vọng tự do. Quách Tấn trong tập “Mùa cổ điển” (1941)
với bài “Đêm thu nghe quạ kêu” mang âm hưởng Đường thi cổ xưa nhưng vẫn mở ra
cái “hoang mang” của thực tại: “Tình hoang mang gợi tứ hoang mang…”. Tiếng quạ
ở đây trở thành âm thanh của nỗi băn khoăn, lo lắng.
Phân
Tích Các Tác Phẩm Nổi Bật Về Hình Tượng Con Quạ Trong Thơ Ca
Hình tượng con quạ tiếp
tục gợi lên sự ám ảnh trong thơ Việt hiện đại. “Trên mồ con quạ đứng im hơi”
trong bài “Nấm mộ” của Bích Khê là một hình ảnh đầy u ám, gắn liền với cái chết
và sự tĩnh lặng rợn người. Tuy nhiên, âm vọng của “Tiếng quạ trên sông Chu” của
Yến Lan lại lay động hơn cả: “Tiếng quạ kêu – tiếng quạ kêu/ Khô khét, nôn nao
một góc trời chiều”. Bài thơ được sáng tác trong bối cảnh bom đạn Mỹ ném xuống,
tiếng quạ không chỉ là âm thanh của sự tang thương mà còn thách thức với định
kiến cổ xưa, thách thức với hoàn cảnh chiến tranh để vươn lên một ý nghĩa mới,
một tâm thế lạc quan, khỏe khoắn. Cuối bài, âm thanh tiếng quạ khác hẳn, nhất
là hương ổi chân quê nồng nàn còn vương vấn mãi: “Tiếng quạ kêu, tiếng quạ kêu
rộn rã…/ Mùi ổi thơm quán nhỏ quyến bay theo”, biến con quạ thành biểu tượng
của sức sống và niềm hy vọng.
Hình
Ảnh Con Quạ Đương Đại: Biến Tấu Và Khai Sinh Ý Nghĩa Mới
Đầu thế kỷ XXI, nhà thơ
Mai Văn Phấn với bài thơ dài “Biến tấu con quạ” đã mang đến một góc nhìn triết
lý sâu sắc về hình ảnh con quạ. Tác phẩm này vừa kế thừa cổ mẫu của quạ là biểu
tượng của cái chết, của tối tăm, của sự băng hoại, nhưng đồng thời cũng đổi
mới, cách tân khi quạ còn là sự “khai sinh” ra một thế giới mới. Thi phẩm khép
lại với một ý nghĩa gợi mở: ngôi nhà đổi mới nào cũng phải dựa trên nền truyền
thống. Chỉ có thể phá bỏ cái cũ lỗi thời mới tạo ra cái mới hiện đại. Bốn chữ
“Con quạ rực sáng” đã khái quát cao nhất ý nghĩa “biến tấu” của biểu tượng này,
cho thấy hình ảnh con quạ có thể vươn lên từ bóng tối để mang ý nghĩa của sự
đổi mới và hy vọng.
Hình ảnh con quạ không
chỉ là một biểu tượng đơn thuần mà là một tấm gương phản chiếu sự đa chiều
trong tư duy và tín ngưỡng của con người qua các thời đại, từ những quan niệm
cổ xưa đến những diễn giải hiện đại. Từ sự xấu xa, tiêu cực trong tâm thức dân
gian Việt Nam đến vị trí sứ giả thần linh, biểu tượng mặt trời ở phương Đông,
hay điềm gở ở phương Tây, con quạ luôn giữ một vai trò đặc biệt trong văn hóa nhân
loại. Trên “Hành Trình Delta”, chúng ta cùng nhau khám phá sâu hơn những giá
trị văn hóa này.
CÂU
HỎI THƯỜNG GẶP VỀ HÌNH ẢNH CON QUẠ
1. Tại sao hình ảnh con
quạ thường mang ý nghĩa tiêu cực trong văn hóa Việt Nam?
Trong văn hóa Việt Nam,
hình ảnh con quạ thường gắn liền với sự xấu xí, tham lam, và độc ác do màu lông
đen, tập tính ăn trứng, bắt gà con của người nông dân, và sự xuất hiện của nó
trong các truyện cổ tích như “Tấm Cám” như một biểu tượng của sự trừng phạt.
2. Con quạ được coi là
biểu tượng gì trong các nền văn hóa phương Tây?
Ở phương Tây, con quạ có
ý nghĩa khá đa dạng. Trong thần thoại cổ đại, nó có thể là sứ giả của thần linh
(Hy Lạp, Maya). Tuy nhiên, từ thời trung cổ đến hiện đại, hình ảnh con quạ
thường được xem là điềm gở, biểu tượng của cái chết, bóng tối, hoặc linh hồn bị
nguyền rủa.
3. “Tam Túc Ô” là gì và ý
nghĩa của nó trong văn hóa phương Đông?
“Tam Túc Ô” hay quạ ba
chân là một biểu tượng quan trọng trong văn hóa Trung Hoa, Nhật Bản và Triều
Tiên. Nó được coi là “con chim của mặt trời”, truyền sinh khí cho thái dương,
và là biểu tượng của quyền năng, sự duy trì trật tự xã hội, và đôi khi cả lòng
hiếu thảo.
4. Hình ảnh con quạ trong
thơ ca có ý nghĩa như thế nào?
Trong thơ ca, hình ảnh
con quạ mang nhiều ý nghĩa cảm xúc và triết lý. Trong thơ Đường, nó thường gợi
lên sự u hoài, cô độc. Trong thơ Việt, nó có thể biểu trưng cho sự ám ảnh, nỗi
buồn nhưng cũng có thể là khát vọng tự do, sự thách thức và hy vọng trong bối
cảnh khó khăn.
5. Có sự khác biệt nào
giữa hình ảnh con quạ trong Phật giáo và các tín ngưỡng khác?
Trong Phật giáo và một số
tín ngưỡng phương Đông, con quạ có thể được “thiêng hóa” hoặc mang ý nghĩa tích
cực. Ví dụ, trong “Tây du ký”, Ô Sào thiền sư (với chữ “Ô” là quạ) là người
truyền kinh, cho thấy con quạ có thể đại diện cho trí tuệ và sự dẫn dắt tâm
linh, khác với quan niệm chim quạ là điềm gở thông thường.
6. Ý nghĩa của “Con quạ
rực sáng” trong thơ Mai Văn Phấn là gì?
“Con quạ rực sáng” trong
thơ Mai Văn Phấn là một biểu tượng mang tính triết lý sâu sắc, cho thấy hình
ảnh con quạ không chỉ đại diện cho cái chết hay sự băng hoại mà còn là sự “khai
sinh” ra một thế giới mới, biểu trưng cho sự đổi mới, cách tân dựa trên nền
tảng truyền thống.
7. “Ác là” có phải là một
tên gọi khác của con quạ không?
Trong một số câu chuyện
dân gian Việt Nam, “ác” (trong “ác là”) được dùng để chỉ con quạ, điển hình là
trong thành ngữ “Gửi trứng cho ác” và câu chuyện về chim ác là và quạ. Điều này
củng cố thêm hình ảnh con quạ là kẻ gian ác, hiểm độc trong tâm thức dân gian.
8. Tại sao hình ảnh con
quạ thường xuất hiện vào ban đêm hoặc những nơi hoang vắng trong văn học?
Con quạ là loài chim có
tập tính hoạt động vào lúc trời nhá nhem tối hoặc ở những nơi vắng vẻ. Sự xuất
hiện của nó trong văn học thường gắn liền với khung cảnh này để tăng thêm không
khí u ám, huyền bí, cô độc, hoặc để báo hiệu những điều không lành, phù hợp với
biểu tượng con quạ là sứ giả của bóng tối.
(Nguồn: Hành Trình Delta)
Biến tấu
con quạ
Tử khí kéo
ngọn bấc tới đỉnh trời
Con quạ rực
sáng.
*
Khai sinh
Sau tiếng
quạ kêu
Ra đi không
cưỡng lại
Gói bọc
được mở ra
Sự băng
hoại không thể cất giấu
Thày lang
đốt sách cuối vườn
Tân dược
trong kho đều quá hạn sử dụng
Những phù
thủy chịu hình phạt
Miệng bị
đóng bởi những móc sắt
Khai sinh
Khi quả
chuông rơi xuống bất ngờ
Chụp lên
đầu người bõ già
Con cá nhảy
vào đám mây tự vẫn
Buông ngang
trời ngàn vạn lưỡi câu
Khai sinh
Mực đổ dưới
chân và máu
vón cục ở
yết hầu, phế quản
Viết một nét lên trang đầu
thấm suốt cả ngàn trang sách.
*
Bổ nhào từ đỉnh cao
Bằng đôi cánh sắc
Lấy tâm điểm xác chết
Chém toác bầu không
Gió hấp tấp không kịp băng bó.
*
Móc từ hốc mắt
những nhãn quan
Di ảnh là vật chứng
Mổ vào lưỡi
và kéo dài
Phơi dưới trời bài học khẩu ngữ
Bóc từng mảng thịt
Tháo rời tứ chi
Sổ tung lục phủ ngũ tạng
Hộp sọ vừa được dựng lên
Rêu đã phủ đầy
Không viết nổi những dòng bi ký.
*
Con quạ mơ
Mọi cái chết đều được sắp đặt
Sau tiếng quạ kêu
Ai đã tự nguyện nằm xuống.
*
Con quạ bay vào phòng
Một ngón tay giơ lên yếu ớt
Ý nói:
Đây là họng
súng
Là lưỡi mác
Thậm chí
cuốc thuổng
Thậm chí
chính ngón tay rất cứng
Đúng hơn là đông cứng
Rồi băng đá
Rồi rữa tan.
*
Đừng đến gần bóng râm
Chúng là con quạ
Xõa cánh lúc hoàng hôn, rạng đông
Nanh vuốt bám gió
Xay nghiền lá khô
Bẻ những cành vượt
Nhà thơ trú trong bóng râm
Từng con chữ bị khoét mất mắt.
*
Trông
Sự vật
Trừng trừng
Bởi chớp mắt
Bóng quạ
Ập tới.
Bóng mình
Không cất tiếng
Sợ biến thành gà con.
*
Một số người trỗi dậy từ đám đông, khoác áo đen, mang mặt nạ đen. Vừa chạy,
họ vừa đập cánh tay vào hai bên sườn. Đầu cố ngước lên. Bóng đen bay là là mặt
đất.
*
Đậu trên chạc cây trong trạng thái bội thực và ngủ gật, con quạ mơ mỗi mẩu
thức ăn đang nén chặt trong diều biến thành quả trứng. Đàn quạ con lũ lượt chui
khỏi ngũ quan, lập tức sà xuống săn mồi theo bản năng của loài ăn thịt.
*
Những đau khổ tột cùng ngoái nhìn đời sống tưởng chừng đã chết. Áo khoác
kêu thất thanh khi đi qua bàn tủ. Máy điện thoại im lìm ngủ. Chiếc kẹp ghim mở
miệng cố giấu đi móng vuốt. Cán chổi móc vào tay người lao công, kéo chị ta về
bên hố rác. Vành mũ trên đầu kêu thảng thốt, rồi cúi xuống rỉa hết mặt nhân
viên bảo vệ. Không ai mở cổng. Nhiều người vẫn tìm được lối đi vào.
*
Những linh hồn thoát xác tìm cách quay về chiến đấu với loài quạ dữ. Sau
những loạt đạn không gây sát thương, khói hương căng thành bảng, viết con chữ
đầu tiên của bài học mới.
*
Đây là dòng cuối cùng trong một bản di chúc:
“Bắt đầu lễ Thiên táng lúc xuất hiện bóng quạ”.
*
Bóng đêm chui dần vào bụng quạ.
Cả chúng ta nữa, đang cồn cào cùng dòng sông đói khát. Những giọt nước đục
tìm cách lọt qua khe vải. Mặt nước khổng lồ ghìm nén xao động, mong giữ lại
bóng người. Bật que diêm rồi, vẫn nhớ ngọn bấc còn rất xa. Vung tay
lên, nói to một mình trong bóng tối.
Con quạ
khật khừ xuyên đêm
Thảng thốt
kêu
Lần đầu
tiên tiếng động ra đi không vọng lại.
(Rút từ tập thơ "Vách nước", NXB Hải Phòng, 2003)

Hình
ảnh con quạ ba chân biểu tượng của mặt trời trong văn hóa Triều Tiên cổ đại,
thể hiện quyền năng và điềm lành.